Luận án Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.8

1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước .8

1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.13

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu .27

1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.30

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.33

2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.33

2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .33

2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .47

2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng cơ bản

khác của tố tụng hình sự.53

2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .53

2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng

xét xử.55

2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự và chức

năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự.57

2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự .57

2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự.61

2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng

hình sự .66

Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO

CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN.69

3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự

.69

3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự

Việt Nam .69

pdf175 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 361 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mặt khi hỏi cung bị can” nhằm bảo đảm sự sâu sát của người bào chữa trong quá trình tham gia giải quyết vụ án, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Với quy định mới nêu trên, người bào chữa được chủ động hơn trong hoạt động của mình, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc thu thập các nguồn chứng cứ và tài liệu cần thiết cho việc bào chữa. Ngoài hoạt động nêu trên, NBC còn có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Quyền này được sử dụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố và cả trong giai đoạn xét xử ở các cấp. NBC căn cứ vào quy định của BLTTHS về các trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng để đề nghị thay đổi nếu thấy cần thiết. Việc người bào chữa đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch sẽ góp phần đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người này trong hoạt động tố tụng, đảm bảo cho những quyết định có liên quan đến lợi ích của bị can, bị cáo được chính xác, công bằng. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã quy định nhấn mạnh quyền mới của NBC là được “thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác”. Với quy định mới này, NBC được tiến hành các hoạt động như: thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa thông qua hoạt động tiếp xúc, trao đổi với người làm chứng, người bị 78 hại, và các cơ quan, tổ chức có liên quan Để thực hiện các hoạt động đó, họ phải chuẩn bị kế hoạch thu thập nguồn chứng cứ như xác định những vấn đề cần làm rõ mà các đối tượng này có thể cung cấp, phương án tiếp xúc, trao đổi cụ thể để lấy thông tin cũng như dự kiến phương án hợp thức hoá nguồn thông tin thu được để biến chúng thành chứng cứ có giá trị chứng minh. Pháp luật quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của các cơ quan THTT vì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan này, nhưng không quy định trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, đồ vật của NBC vì bị can, bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội nhưng có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật để tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Việc đánh giá, sử dụng các tài liệu, đồ vật do NBC đưa ra như thế nào thuộc về cơ quan có thẩm quyền tố tụng. Tuy nhiên, bất cập ở giai đoạn này là chưa quy định cho NBC có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ; đề nghị cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ; đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ. Về hoạt động gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam của NBC: Việc gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là rất quan trọng với NBC vì thông qua sự tiếp xúc, trao đổi này người bào chữa có thể nắm rõ hành vi của người bị tạm giữ, về những điều họ đã khai báo và yêu cầu của họ đối với người bào chữa, nguyên nhân, mục đích, động cơ phạm tội, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội... Để thực hiện hoạt động trao đổi với bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào chữa cần tiến hành làm các thủ tục để được gặp thân chủ trong trại tạm giam (chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để làm thủ tục vào trại giam, trích xuất bị can, bị cáo ); dự kiến nội dung trao đổi với bị can, bị cáo; thực hiện hoạt động trao đổi trên cơ sở kế hoạch đã chuẩn bị và linh hoạt hỏi theo thực tế cuộc gặp. Từ đó, luật sư mới tìm hiểu được nguyên nhân, mục đích, động cơ phạm tội, điều kiện, hoàn cảnh thúc đẩy bị can, bị cáo phạm tội... để có hướng bào chữa một cách xác đáng. Ở giai đoạn này, BLTTHS có bất cập là chưa quy định việc gặp bị can có sự giám sát của CQĐT, VKS hay không. Về hoạt động đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật: Đây là quy định cần thiết, kịp thời, phù hợp với thực tiễn đối với NBC. NBC được quyền tiến hành sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án hoặc các bút lục cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất hay chuẩn bị luận cứ bào chữa. Trên cơ sở đó, NBC sẽ nghiên cứu hồ sơ, dự kiến kế hoạch hỏi để làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án nhằm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Tuy nhiên, BLTTHS chưa quy định về việc người bị buộc tội được đọc hồ sơ vụ án. 79 Quyền tự bào chữa của bị can được quy định tại Điều 49 BLTTHS 2003. Để tự bào chữa cho mình, pháp luật quy định cho bị can có thêm một số quyền khác để có thể thực hiện việc tự bào chữa. Ví dụ: Bị can có quyền: Được biết mình bị khởi tố về tội gì; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch ... Tương tự như vậy, đối với người bị tạm giữ, ngoài quy định về quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa thì người bị tạm giữ còn có quyền: Được biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 48 BLTTHS 2003). Như vậy, với tư cách là chủ thể của chức năng bào chữa, bị can có quyền sử dụng các quyền năng mà BLTTHS quy định để thực hiện việc tự bào chữa cho mình nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp. - Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử + Về hoạt động đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của NBC: Tại phiên tòa, NBC có quyền bình đẳng với KSV trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho NBC thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. + Về hoạt động hỏi và tranh luận tại phiên tòa: Tại phiên tòa, NBC có quyền hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng (Điều 207, 209, 210, 211 BLTTHS); yêu cầu xét hỏi thêm về vấn đề chưa rõ trước khi kết thúc việc xét hỏi (Điều 216 BLTTHS); trình bày lời bào chữa (Điều 217 BLTTHS); đối đáp (Điều 218 BLTTHS). Ngoài các quyền nêu trên, BLTTHS năm 2003 còn cho phép NBC được quyền “khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” và “Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này”. Như vậy, các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử trong BLTTHS 2003 được kế thừa từ BLTTHS năm 1988 và có bổ sung, sửa đổi một số quy định để phù hợp với thực tế bào chữa của NBC. * Về nghĩa vụ của người bào chữa Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTHS thì NBC có những quy định mới về nghĩa vụ của luật sư. Cụ thể: Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu 80 sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Như vậy, so với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 quy định thêm một số quyền đồng thời quy định thêm một số nghĩa vụ đối với NBC, đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm của NBC khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Ở giai đoạn này, nhận thức của con người nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng về chức năng bào chữa trong TTHS đã có sự phát triển mới. Vai trò của NBC được ghi nhận nhiều hơn, không còn bị coi là hoạt động mang tính hình thức. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ của BLTTHS 2003, quy định về chức năng bào chữa trong TTHS, hoạt động bào chữa của NBC vẫn còn một số bất cập. BLTTHS quy định một số quyền của NBC nhưng lại thiếu các cơ chế để NBC thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quyền mà pháp luật tố tụng hình sự quy định * Hoạt động tự bào chữa của bị can, bị cáo: Đối với bị can: Theo quy định của BLTTHS 2003, bị can có một số quyền như: Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng So với BLTTHS năm 1988, bị can có một số quyền mới như quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ; quyền trình bày lời khai, quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng Đối với bị cáo: Theo quy định của BLTTHS 2003, bị cáo được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; Nói lời sau cùng trước khi nghị án; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS 2003 quy định một số quyền mới đối với bị cáo.Để thực hiện việc tự bào chữa cho mình, bị cáo có quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.Nếu các quan điểm, ý kiến của đại diện VKS hoặc phía đối tụng không thống nhất với quan điểm của bị cáo hoặc sự kết luận của đại diện VKS, phía đối tụng về hành vi của bị cáo, các vấn đề có liên quan đến bị cáo không đúng với sự thật khách quan của vụ án thì bị cáo có quyền đưa ra ý kiến của mình, có quyền tranh luận lại với đại diện VKS hoặc phía đối tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Có thể thấy, việc quy định một số quyền mới của bị can, bị cáo nhằm bảo đảm thực 81 hiện tốt hơn “quyền tự bào chữa” của bị can, bị cáo là hành lang pháp lý để họ có thể thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình. Các quy phạm pháp luật về bào chữa có bước tiến mới khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh về luật sư và sau đó là Luật Luật sư ra đời. Lúc này, nghề luật sư được quan tâm tối đa và sự điều chỉnh pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS rất rộng. Chức năng bào chữa trong TTHS không chỉ được quy định trong Luật Luật sư, Bộ luật tố tụng hình sự mà còn được quy định trong Luật Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy, tùy từng giai đoạn lịch sử nhất định, sự điều chỉnh pháp luật về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự ở mức độ hẹp hay rộng, nông hay sâu khác nhau. Sự điều chỉnh này không dừng lại ở một mốc nào đó mà luôn có sự thay đổi, phát triển không ngừng do chính các thay đổi từ các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS. 3.1.1.4. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới (chương V) quy định các nội dung liên quan đến bào chữa nhằm bảo đảm cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và nhằm tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định một số nội dung mới. Cụ thể: Thứ nhất, thay vì những quy định có tính chất tản mạn (03 điều luật) về một số vấn đề liên quan đến quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã pháp điển hóa một cách khá toàn diện, đầy đủ các quy định về quyền bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa tại một chương riêng (Chương V); Thứ hai, mở rộng chủ thể được đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền bào chữa (Điều 58); Thứ ba, mở rộng và chính thức ghi nhận địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý là một trong các loại người bào chữa, theo đó, BLTTHS năm 2015, Người bào chữa có thể là: (1) Luật sư; (2) Người đại diện của người bị buộc tội; (3) Bào chữa viên nhân dân; và (4) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý; Thứ tư, mở rộng diện người bào chữa theo chỉ định, theo đó cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử hình như quy định của BLTTHS năm 2003; Thứ năm, quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như BLTTHS 2003 (Điều 74). Thứ sáu, chuyển đổi thủ tục “cấp 82 giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, đồng thời rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn 24h nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận vào quá trình giải quyết vụ án. Văn bản thông báo người bào chữa (hình thức pháp lý công nhận đủ điều kiện đăng ký bào chữa) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng, thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng như trước đây; Thứ bảy, bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75); Thứ tám, để bảo đảm tranh tụng dân chủ, cũng như đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, BLTTHS bổ sung quy định cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời, quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (Điều 73); Thứ chín, nhằm khắc phục những thiếu sót của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để người bào chữa tham gia theo quy định của pháp luật (Điều 79); Thứ mười, quy định rõ trách nhiệm của người bào chữa, trong trường hợp người bào chữa vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm sẽ hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Điều 73); Thứ mười một, quy định về việc đối đáp đến cùng trong BLTTHS năm 2015. a. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố * Thời điểm tham gia tố tụng của NBC Điều 74 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể ba thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa, đó là: (1) Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; (2) Trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, đang bị truy nã, hoặc trong trường hợp tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. (3) Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. So với BLTTHS năm 2003 thì thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa trong trường hợp bắt người được thực hiện sớm hơn. 83 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên, theo BLTTHS năm 2015 thì người bào chữa có thể tham gia tố tụng từ lúc người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. * Hoạt động đăng ký bào chữa của NBC Để được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị can, bị cáo thì trong mọi trường hợp NBC phải đăng kí bào chữa. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015, thay thế cho quy định cũ là làm thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa. BLTTHS 2015 quy định khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình các giấy tờ theo quy định như Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư. Khi có đề nghị của người bị buộc tội, người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội về việc mời NBC thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho họ thực hiện quyền có NBC của mình. Thủ tục đăng ký bào chữa có một số điểm tiến bộ hơn so với thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa như rút ngắn thời gian xem xét công nhận tư cách người bào chữa (24 giờ thay vì 3 ngày). Văn bản thông báo cho người đăng ký bào chữa (trường hợp chấp nhận đăng ký) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng (trừ trường hợp người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội (có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi) từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa).Việc BLTTHS (sửa đổi) chuyển sang thủ tục đăng ký bào chữa là một bước chuyển mang tính đột phá trong quá trình xác lập địa vị pháp lý, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Có thể thấy, quy định về thủ tục đăng ký bào chữa đã giúp tháo gỡ được những vướng mắc do thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa mang lại. Theo đó, giúp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi để NBC tham gia bào chữa, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ. Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 77 BLTTHS 2015 (sửa đổi) quy định: Trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối. Quy định trên cũng là một bước tiến lớn nữa nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình tham gia tố tụng của người bào chữa. Bởi lẽ rất nhiều trường hợp, các LS đã bị cơ quan điều tra từ chối cấp giấy chứng nhận bào chữa với lý do bị can (bị tạm 84 giam) “từ chối luật sư”, trong khi luật sư lại không được vào cơ sở giam giữ để trực tiếp tìm hiểu ý chí của bị can. Tuy nhiên, quy định này cũng thể hiện một số bất cập, bởi lẽ khoản 3 Điều 75 BLTTHS quy định trường hợp người thân thích của người bị buộc tội có đơn yêu cầu nhờ NBC thì cơ quan THTT có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị buộc tội để có ý kiến về việc nhờ NBC. Nếu người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối NBC do người thân thích của họ nhờ thì lúc này NBC mới được cùng ĐTV vào gặp trực tiếp người bị buộc tội để xác nhận việc từ chối. Lúc này, người bị buộc tội khó có thể thay đổi được ý kiến của mình (do ĐTV đã gặp trước đó rồi) và kết quả là người bị buộc tội vẫn không mời NBC. * Các hoạt động bào chữa của NBC: - Hoạt động gặp người bị buộc tội của người bào chữa: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 phân biệt hai trình tự NBC gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bao gồm: a. Cuộc gặp, hỏi giữa NBC với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây là cuộc gặp do NBC chủ động tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào, được trao đổi hoàn toàn riêng tư với người bị buộc tội trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. b. Cuộc gặp do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chủ động tiến hành, theo kế hoạch đã được chuẩn bị trước nhằm lấy lời khai, hỏi cung bị can Trong trường hợp này, NBC chỉ được hỏi khi được người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý. Sau khi kết thúc việc hỏi cung, NBC được quyền hỏi thân chủ của mình. Việc hỏi này hoàn toàn chủ động từ phía NBC. NBC có thể hỏi các nội dung có liên quan đến thân chủ và hành vi mà thân chủ đã thực hiện trong vụ án Theo Điều 80 BLTTHS thì NBC được gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và không hạn chế số lần gặp. NBC được chủ động trao đổi các vấn đề có liên quan đến thân chủ của mình trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. - Quy định về đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế: Khi thấy bị can, bị cáo có đủ các điều kiện để được thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc biện pháp cưỡng chế thì NBC sẽ đề xuất với cơ quan có thẩm quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp đang được áp dụng với bị can, bị cáo. Ví dụ: đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giam sang các biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm... 85 - Quy định đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Khi cần làm rõ các vấn đề có liên quan đến người bị buộc tội, người bào chữa có thể đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. NBC chỉ đề nghị triệu tập các đối tượng trên khi lời khai của họ có lợi cho bị can, bị cáo và có lợi cho việc bào chữa, bảo vệ của người bào chữa. - Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ: Khi làm nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo; NBC có thể phát hiện ra các tài liệu mới, chứng cứ mới mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát hiện được. Trong trường hợp này, NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, khi tài liệu, đồ vật đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can. Chẳng hạn, đó là các chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án. Đây là quy định mới của BLTTHS 2015, đánh dấu sự phát triển của chức năng bào chữa. Theo BLTTHS năm 2003, trong quá trình tham gia tố tụng, người bào chữa không được quyền thu thập chứng cứ mà chỉ được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm bào chữa, bảo vệ của người bào chữa. Để khắc phục tình trạng này, theo quy định tại BLTTHS năm 2015, NBC được thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Đây là nội dung mới, có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ bào chữa nói chung và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng. Để thu thập chứng cứ, tài liệu, tình tiết liên quan đến việc bào chữa NBC có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Tùy từng giai đoạn tố tụng là điều tra, truy tố hay xét xử, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, NBC phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Trường hợp nếu NBC không thể giao nộp ngay các chứng cứ thu thập được thì vẫn có thể nộp khi phiên tòa sơ thẩm diễn ra. Tuy nhiên, trong trường hợp này, chứng cứ có được xem xét chấp nhận hay không thì phải tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng xét xử. Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật TTHS. Biên bản phải được lập theo mẫu thống nhất, ghi rõ 86 địa điểm, ngày, giờ, các bên liên quan, các yêu cầu, đề nghị của họ và phải có chữ kí của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, NBC. Những điểm sửa, chữa, thêm, bớt phải có chữ kí xác nhận của họ. Trong trường hợp NBC không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì họ có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó. Pháp luật quy định NBC được quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa. Tuy nhiên, có những trường hợp người bào chữa tiến hành thu thập chứng cứ, tài liệu nhưng gặp khó khăn từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân. Qua trao đổi với luật sư Chu Mạnh C. thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có trường hợp người bào chữa muốn thu thập thông tin, tài liệu tại Nhà hộ sinh Đ (Hà Nội) về việc bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi khi xảy ra hành vi phạm tội (bị cáo sinh ra tại Nhà hộ sinh Đ nhưng giấy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chuc_nang_bao_chua_trong_to_tung_hinh_su_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan