Luận án Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc sau đại hội XVIII đến nay và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

MỞ ĐẦU . . 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHUYỂN ĐỔI

PHưƠNG THỨC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở TRUNG QUỐC . . .

1.1. Các nghiên cứu về bối cảnh và tính tất yếu của chuyển đổi phương thức

phát triển kinh tế . .

8

1.1.1. Nghiên cứu trong nước

1.1.2. Nghiên cứu ở nước ngoài .

1.2. Các nghiên cứu về chính sách và biện pháp thực hiện chuyển đổi phương

thức phát triển kinh tế .

1.2.1. Nghiên cứu trong nước

1.2. Nghiên cứu ở nước ngoài . .

1.3. Khoảng trống nghiên cứu và khung phân tích của luận án . . 23

1.3.1. Khoảng trống nghiên cứu. .

1.3.2. Khung phân tích của luận án .

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI PHưƠNG THỨC

PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC .

26

2.1. Những vấn đề chung về phát triển kinh tế và chuyển đổi phương thức

phát triển kinh tế . . .

2.1.1. Một số khái niệm cơ bản . . . 26

2.1.2. Những điểm chung và kinh nghiệm của một số quốc gia thực hiện chuyển

đổi phương thức phát triển kinh tế .

35

2.2. Cơ sở lý luận về chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc 40

2.2.1. Những nội dung cơ bản về thể chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc 40

2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận về chuyển đổi phương

thức phát triển kinh tế của Trung Quốc .

2.2.3. Những nhân tố tác động đến tư duy lý luận về chuyển đổi phương thức phát

triển kinh tế của Trung Quốc .

50

2.2.4. Mục tiêu và những yêu cầu cụ thể của chuyển đổi phương thức phát triển

Chương 3: QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI PHưƠNG THỨC PHÁT TRIỂN

3.1. Thực trạng nền kinh tế Trung Quốc trước khi chuyển đổi phương thức

phát triển kinh tế .

60

pdf180 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc sau đại hội XVIII đến nay và hàm ý chính sách đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành nghề không chỉ là sự thay đổi giữa các ngành nghề, mà còn là sự thay đổi bên trong từng ngành nghề. Quan hệ giữa các ngành nghề và sự biến đổi bên trong từng ngành nghề cần bảo đảm một tỷ lệ hợp lý trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, nếu không sẽ gây ra những vấn đề về cung cầu như lượng cung cao hoặc thiếu hụt cầu, làm giảm vai trò là sức đẩy của nền kinh tế. Kể từ Đại hội XVIII, Trung Quốc đặc biệt coi trọng và thể hiện quyết tâm trong việc nâng cấp, tối ưu hóa cơ cấu ngành nghề thông qua các biện pháp chính như: (i) Phát triển các ngành công nghệ cao đòi hỏi tính sáng tạo, tiến tới đào thải các ngành nghề có năng lực sản xuất dư thừa, lạc hậu và gây ô nhiễm; (ii) Xây dựng hệ thống các ngành nghề sản xuất hiện đại nhằm thay đổi vai trò của các doanh nghiệp Trung Quốc trong phân công lao động quốc tế, chuyển đổi từ nâng cao ưu thế so sánh sang ưu thế cạnh tranh, giành lấy quyền tự quyết trong việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; (iii) Phát triển các ngành nghề mới có tính chiến lược như ngành dịch vụ và năng lượng tái tạo nhằm tối ưu hóa cơ cấu ngành nghề, đẩy nhanh chuyển đổi phương thức PTKT, nắm lấy quyền chủ động trong phát triển kinh tế, thực hiện phát triển bền vững. 3.2.2.1. Phát triển các ngành ngành dịch vụ hiện đại Động lực phát triển của ngành dịch vụ chủ yếu đến từ nhu cầu tiêu dùng, sự phân công lao động và tin học hóa. Thứ nhất, cùng với tiến bộ xã hội, gia tăng thu nhập của người dân, nhu cầu về chất lượng cuộc sống có sự thay đổi căn bản theo xu hướng ngày càng cao. Thứ hai, phân công lao động sâu sắc và trình độ sản xuất được nâng cao, quá trình sản xuất của doanh nghiệp trở nên linh hoạt và có tính đàn hồi, chủng loại các sản phẩm hàng hóa được sản xuất ngày càng phong phú đang dạng, chất lượng ngày một tốt hơn, nhu cầu của người tiêu dùng về các dịch vụ hoặc hoạt động có liên quan nằm ngoài khâu gia công chế tạo (nghiên cứu thị trường, nghiên cứu phát triển, thiết kế, chuỗi cung ứng, thương hiệu, tiêu thụ, hậu mãi...) cũng tăng lên. Ngành dịch vụ có tính sản xuất có ảnh hưởng quan trọng đối với mô hình phát triển kinh tế, thể hiện ở ba phương diện. Một là, nguồn vốn nhân lực lao động và vốn tri thức, thông qua các hoạt động nghiên cứu phát triển, thiết kế, tư vấn, đào tạo bồi dưỡng,... góp phần nâng cao hiệu quả phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa. Hai là, áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến và các chế độ chính sách mới làm giảm giá thành giao dịch, ví dụ như ở các ngành tài chính bảo hiểm, giao thông vận tải, kế toán kiểm toán, hậu cần,... Ba là, mối liên hệ chặt chẽ giữa 78 nguồn lực lao động với các loại hình thông tin, kỹ thuật, tài nguyên vật chất, dẫn đến sự kết hợp giữa ngành dịch vụ và công nghiệp chế tạo. Năm 2014, lần đầu tiên Quốc Vụ viện Trung Quốc ban hành văn bản chỉ đạo về nhiệm vụ phát triển ngành dịch vụ có tên là “Ý kiến chỉ đạo về việc đẩy nhanh phát triển ngành dịch vụ mang tính sản xuất, thúc đẩy điều chỉnh, nâng cấp cơ cấu ngành nghề”. Nội dung chính văn bản Ý kiến này là hướng đến 3 mục tiêu phát triển là cổ vũ các doanh nghiệp tham gia vào vị trí cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh hiện đạo hóa ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và kết hợp dịch vụ kỹ thuật thông tin với chế tạo sản xuất. Văn bản Ý kiến cũng đề ra các nhiệm vụ cụ thể phát triển 11 lĩnh vực (bao gồm nghiên cứu phát triển và thiết kế, Third Party Logistics, cho thuê tài chính, dịch vụ kỹ thuật thông tin, dịch vụ môi trường tiết kiệm năng lượng, kiểm tra kiểm nghiệm cấp giấy chứng nhận, thương mại điện tử, tư vấn thương mại, dịch vụ gia công, dịch vụ hậu mãi, dịch vụ nguồn nhân lực và xây dựng thương hiệu); đề ra 6 biện pháp về mặt chính sách (thực hiện mở cửa hơn nữa, hoàn thiện chính sách thuế tài chính, đổi mới sáng tạo các dịch vụ tài chính, hoàn thiện chính sách giá cả đất đai, xây dựng đội ngũ nhân tài và tăng cường bảo vệ bản quyền trí tuệ, xây dựng kiện toàn chế độ thống kê). Đáng chú ý là văn bản Ý kiến chỉ đạo của Quốc Vụ viện đã nêu ra 15 nhiệm vụ cần phải làm và giao trực tiếp cho các bộ, ban ngành có liên quan chịu trách nhiệm thực hiện. Tháng 12 năm 2016, Quốc Vụ viện Trung Quốc ban hành “Chiến lược phát triển ngành du lịch 5 năm lần thứ 13”, đây là một văn bản có ý nghĩa lịch sử, lần đầu tiên được nâng lên cấp trọng điểm quốc gia, cho thấy vai trò quan trọng của việc phát triển ngành du lịch, một bộ phận ngành nghề thuộc khu vực thứ 3. Các nhiệm vụ cụ thể bao gồm: (i) Kiên trì vai trò chủ đạo của thị trường; (ii) Kiên trì cải cách mở cửa; (iii) Kiên trì coi sáng tạo là động lực cho phát triển; (iv) Kiên trì phát triển xanh; (v) Kiên trì phát triển vì con người. Quy hoạch cũng nêu ra 5 biện pháp cải cách có vai trò điều chỉnh kết cấu cung cầu, đó là: (i) Tạo ra các sản phẩm mới, tăng thêm các nhu cầu mới về du lịch; (ii) Cải cách cơ chế thể chế ngành du lịch; (iii) Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng; (iv) Nâng cao vai trò của yếu tố du lịch trong việc nâng cấp điều chỉnh cơ cấu ngành nghề; (v) Xây dựng đội ngũ nhân tài chất lượng cao. 3.2.2.2. Xây dựng hệ thống các ngành nghề sản xuất hiện đại Trung Quốc xác định cần thay đổi vai trò của các doanh nghiệp Trung Quốc trong phân công lao động quốc tế, chuyển đổi từ nâng cao ưu thế so sánh sang ưu thế cạnh tranh, giành lấy quyền tự quyết trong việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. 79 Hiện nay, các quốc gia phát triển nắm giữ lợi thế về kỹ thuật luôn thu được nhiều lợi ích hơn các quốc gia có các yếu tố tham gia sản xuất thấp. Quá trình phát triển các ngành nghề sản xuất hiện đại trải qua giai đoạn dựa vào lợi thế so sánh ngoại sinh để xác định vị trí trong phân công lao động quốc tế, chuyển sang phát huy, nâng cấp các ưu thế so sánh nội sinh (tích lũy tri thức, kỹ thuật), cuối cùng hình thành ưu thế cạnh tranh (quy mô nền kinh tế, giá thành tuyệt đối, hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao). Thông qua tích lũy tri thức, từng bước học hỏi tiến tới làm chủ công nghệ sản xuất hiện đại, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất,... là những biện pháp then chốt để nâng cao các yếu tố tham gia sản xuất, hình thành ưu thế cạnh tranh quốc tế, từ đó mang lại lợi ích cao và bền vững. Nhiệm vụ trọng điểm là nâng cấp cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng trung, cao cấp. Thực tế cho thấy, yêu cầu nâng cấp không đồng nghĩa với việc trình độ kỹ thuật của toàn bộ ngành chế tạo, hoặc các ngành công nghiệp khoa học kỹ thuật đều phải đứng hàng đầu thế giới, mà nhấn mạnh đến việc nâng cấp ưu thế cạnh tranh và giá trị tăng thêm của các ngành sản xuất Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Để làm được điều này, không chỉ đơn thuần dựa vào học hỏi, mô phỏng và du nhập các tiến bộ khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, mà cần xuất phát từ bên trong, tức thông qua sự sáng tạo không ngừng về kỹ thuật, cùng với thực hiện cải cách về cơ chế chính sách. Xây dựng hệ thống các ngành nghề sản xuất hiện đại không hoàn toàn bỏ lại phía sau hệ thống ngành nghề sản xuất truyền thống mà cần tiến hành cải tạo quy mô lớn các yếu tố kỹ thuật [137]. Các ngành nghề truyền thống công nghiệp và cả nông nghiệp, một khi được kết hợp với kỹ thuật hiện đại có thể tạo ra những bước nhảy vọt về chất, nâng cấp một cách cơ bản trình độ sản xuất ngành nghề đó. 3.2.2.3. Phát triển các ngành nghề mới có tính chiến lược Năm 2012, Trung Quốc ban hành văn bản “Quy hoạch phát triển các ngành nghề mới có tính chiến lược quốc gia 5 năm lần thứ 12”. Đây là văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cấp và tối ưu hóa cơ cấu ngành nghề - một trong những biện pháp thực hiện chuyển đổi phương thức PTKT, mục tiêu là nắm lấy quyền chủ động trong phát triển kinh tế, thực hiện phát triển bền vững. Các ngành nghề mới có tính chiến lược được hình thành từ nhu cầu phát triển và gắn với nền tảng là những đột phát về mặt kỹ thuật, có vai trò dẫn dắt sự phát triển toàn diện và lâu dài nền kinh tế xã hội. Những đặc trưng như tri thức kỹ thuật cao, tiêu hao tài nguyên thấp, có tiềm năng phát triển và hiệu quả tổng hợp cao. Văn bản Quy hoạch nêu trên đề ra phương hướng phát triển trọng điểm các ngành nghề sản xuất thuộc 7 lĩnh vực lớn: bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng, kỹ thuật tin học mới, sinh học, chế tạo thiết bị chất lượng cao, năng lượng 80 mới, nguyên liệu mới, ô tô năng lượng mới. Cùng với một lộ trình phát triển với những mục tiêu có tính tiêu chí rõ ràng, kế hoạch hành động, các biện pháp và nhiệm vụ cụ thể. Trong đó, ưu tiên phát triển các ngành nghề mới liên quan trực tiếp đến hai mục tiêu tiết kiệm giảm tiêu hao năng lượng và bảo vệ môi trường. Thứ nhất, đối với tiết kiệm giảm tiêu hao năng lượng, các nhiệm vụ chính chủ yếu nằm ở ngành công nghiệp, ngành xây dựng, ngành giao thông và dịch vụ kỹ thuật. Trong đó ngành công nghiệp đẩy mạnh phát triển các kỹ thuật công nghệ và thiết bị tiết kiệm năng lượng mới, khuyến khích khai thác và phổ biến các sản phẩm thiết bị điện và chiếu sáng có hiệu suất cao, tiết kiệm năng lượng. Ngành xây dựng nâng cao tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng trong xây dựng, cải tạo các khu vực kiến trúc cũ theo hướng tiết kiệm năng lượng, phát triển kiến trúc xanh, khuyến khích sử dụng vật liệu xanh trong xây dựng. Ngành giao thông đẩy nhanh phát triển các phương tiện giao thông tiết kiệm năng lượng. Ngành dịch vụ nghiên cứu phát triển và đưa vào sử dụng các kỹ thuật tối ưu hóa hệ thống sử dụng năng lượng, khuyến khích các hoạt động thương mại liên quan đến quản lý nguồn năng lượng... Thứ hai, đối với bảo vệ môi trường, đẩy nhanh công tác nghiên cứu phát triển, khai thác, tăng cường ứng dụng các kỹ thuật và thiết bị bảo vệ môi trường; nghiên cứu phát triển các nguyên vật liệu sinh học mới; thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ bảo vệ môi trường, tìm kiếm mô hình dịch vụ bảo vệ môi trường mới, xã hội hóa, thị trường hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh vận hành các cơ sở dịch vụ bảo vệ môi trường. 3.2.3. Điều chỉnh kết cấu thành thị - nông thôn Tại Trung Quốc, nhiều thập niên qua trong xã hội tồn tại rõ rệt sự phân chia giữa khu vực thành thị và nông thôn, hình thành kết cấu “nhị nguyên” thành thị - nông thôn. Kết cấu này có 4 đặc trưng cơ bản: Thị trường không thống nhất giữa thành thị - nông thôn; bất bình đẳng trong hưởng thụ các dịch vụ công cơ bản giữa cư dân sống tại thành thị - nông thôn; phương thức quản lý xã hội không thống nhất; khoảng cách phát triển chênh lệch giữa thành thị - nông thôn. Kể từ sau cải cách đến nay, tình trạng chênh lệch thành thị - nông thôn có những khoảng cách rõ rệt. “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 12” của Trung Quốc quy định rất rõ ràng, cần “đẩy nhanh xóa bỏ những cản trở về mặt thể chế vốn trói buộc sự phát triển hài hòa giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, trọng tâm là đẩy nhanh tiến trình đô thị hóa, nhất thể hóa thành thị - nông thôn; thúc đẩy trao đổi bình đẳng giữa thành thị - nông thôn, phân bổ bình đẳng các nguồn lực công, lấy công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp, lấy thành thị dẫn dắt nông thôn” [149]. Đó là 81 những mục tiêu chính trong điều chỉnh kết cấu thành thị - nông thôn. Mặc dù các nhiệm vụ “chấn hưng nông nghiệp, nông thôn” thực ra đã được triển khai từ trước Đại hội XVIII, nhưng nó chỉ được tiếp nối và triển khai mạnh mẽ trong tổng thể chiến lược chuyển đổi phương thức PTKT của Trung Quốc sau Đại hội XVIII, với 3 lĩnh vực điều chỉnh chính là: (i) Cải cách chế độ quản lý đất đai; (ii) Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và (iii) Cải cách chế độ hộ khẩu. 3.2.3.1. Cải cách chế độ quản lý đất đai tại nông thôn, bao gồm đất ở Hội nghị Trung ương 3 Khóa XVIII đã đưa ra các bước đi cụ thể thực hiện cải cách chế độ đất đai tại nông thôn. Đất đai xây dựng có tính chất kinh doanh thuộc tập thể nông thôn phù hợp với các quy định về quản lý mục đích sử dụng và quy hoạch chung được phép tham gia thị trường, có quyền lợi bình đẳng và giá cả bình đẳng với đất đai thuộc sở hữu nhà nước; trên cơ sở các quyền sở hữu tập thể, quyền thuê khoán của hộ nông dân, quyền kinh doanh đất đai, cho phép sử dụng quyền kinh doanh thuê khoán đất đai để thế chấp tham gia góp vốn; lựa chọn thí điểm thực hiện tài sản nhà ở của nông dân được phép thế chấp, đảm bảo và chuyển nhượng. Như vậy nghĩa là người nông dân có quyền tài sản pháp nhân đối với đất đai, quyền sở hữu thuộc về tập thể thôn xã, quyền tài sản pháp nhân thuộc về hộ nông dân, ngoài ra còn có quyền sử dụng đất đai, quyền kinh doanh, có thể thế chấp, chuyển nhượng đất đai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện thị trường hóa đất đai ở nông thôn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến nông thôn phát triển chậm hơn so với khu vực thành phố là bởi cải cách thị trường hóa khu vực nông thôn được thực hiện khi mà thị trường tại thành phố đã vô cùng phát triển, các nguồn tài nguyên đã đều được thị trường hóa, ngược lại yếu tố sản xuất ở khu vực nông thôn mới chỉ tiệm cận thị trường hoặc chưa được thị trường hóa. Các yếu tố sản xuất hàng hóa sẽ tập trung về khu vực được thị trường hóa cao, bao gồm nguồn lực lao động, đất đai, vốn, kỹ thuật,... sẽ từ khu vực nông thôn chuyển dịch ra thành phố. Thị trường hóa khu vực nông thôn mang đến cơ hội thu hút vốn đầu tư vào hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn hiện nay, thành phố cần phát huy vai trò dẫn dắt công cuộc hiện đại hóa nông thôn. Một số văn bản chính sách có ý nghĩa hướng dẫn chỉ đạo cải cách chế độ đất đai được ban hành kể từ Đại hội XVIII đến nay: - Điều 5, Điều 21 của “Quyết định về một số vấn đề trọng đại đi sâu cải cách toàn diện” ban hành tại Hội nghị Trung ương 3 Khóa XVIII, đề cập đến quyền sở hữu tài sản là hạt nhân của chế độ sở hữu và coi đây là cơ sở cho trọng điểm cải cách chế độ đất đai tại nông thôn. 82 - Các Điều 17, 18, 19, 20 thuộc phần 4 (Đi sâu cải cách chế độ đất đai nông thôn) trong Văn kiện số 1 “Một vài ý kiến về đi sâu cải cách nông thôn toàn diện đẩy mạnh hiện đại hóa nông nghiệp” của Quốc Vụ viện ban hành năm 2014. - Văn bản “Ý kiến của Quốc vụ viện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về đẩy mạnh cải cách chế độ quyền tài sản tập thể ở nông thôn” ban hành ngày 26/12/2016. 3.2.3.2. Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Xây dựng nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tiến trình nhất thể hóa thành thị - nông thôn. Như đã phân tích, tiến trình đô thị hóa tại Trung Quốc được diễn ra đi ngược với thế giới, người nông dân di chuyển từ khu vực nông thôn ra thành phố, tức thông qua di dân thực hiện đô thị hóa, thay vì đầu tư hạ tầng, kỹ thuật, phát triển hiện đại hóa nông thôn, đô thị hóa từ trong lòng nông thôn. Nếu như có thể thông qua xây dựng nông thôn mới, không ngừng tăng cường và nâng cao các dịch vụ công, an sinh xã hội, thực hiện các chế độ phúc lợi xã hội thoát khỏi sự ràng buộc về hộ khẩu, như vậy các vấn đề bất bình đẳng sẽ tự nhiên mất đi. Người nông dân sẽ có cơ hội làm việc, phát triển kinh tế gia tăng thu nhập tại địa phương, kết cấu nhân khẩu trở nên cân bằng hơn. Tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp sẽ từng bước giải phóng sức lao động tại khu vực nông thôn, trở thành yêu cầu tất yếu để đẩy nhanh đô thị hóa. Từ sau Đại hội XVIII, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành một số văn bản chỉ đạo công tác xây dựng hiện đại hóa nông thôn, ví dụ như Văn kiện “Một vài ý kiến về tăng cường cải cách sáng tạo và đẩy nhanh xây dựng hiện đại hóa nông nghiệp” ban hành năm 2015; Văn kiện “Một số ý kiến về việc phát triển quan điểm mới đẩy nhanh hiện đại hóa nông nghiệp thực hiện mục tiêu khá giả toàn diện” ban hành năm 2016. Tháng 10/2016, Trung Quốc ban hành“Chiến lược hiện đại hóa nông nghiệp toàn quốc giai đoạn 2016 - 2020”, theo đó đề ra phương hướng chiến lược và con đường thực hiện xây dựng hiện đại hóa nông nghiệp Trung Quốc với nhiều biện pháp lớn. Đây được coi là kết quả của sự tổng kết về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng nông thôn mới và hiện đại hóa nông nghiệp của Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII, là trọng tâm của chiến lược chuyển đổi phương thức PTKT trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể gồm 6 biện pháp sau: - Đổi mới về cơ chế thể chế, hoàn thiện các chế độ kinh doanh, hướng dẫn người dân thực hiện quyền kinh doanh đất đai tự nguyện và hợp pháp, phát triển nhiều hình thức kinh doanh với quy mô phù hợp. 83 - Tối ưu hóa cơ cấu các ngành nghề nông nghiệp, điều chỉnh kết cấu sản xuất nông nghiệp dựa vào sáng tạo khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ cơ giới hóa, tin học hóa, tăng cường năng lực bảo đảm an toàn lương thực (các sản phẩm nông nghiệp quan trọng). - Đẩy mạnh kết hợp các ngành nghề sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tại nông thôn, bồi dưỡng các chủ thể kinh doanh và người nông dân loại hình mới, phát triển nhiều hình thức kinh doanh mới như gia công sản phẩm nông nghiệp, thương mại điện tử, nông nghiệp giải trí...mở ra nhiều kênh tăng thêm thu nhập cho người nông dân. - Thực hiện các chương trình lớn xây dựng nông nghiệp xanh, quản lý nghiêm ngặt việc sử dụng các loại hóa chất, phân bón, thuốc kích thích trong nông nghiệp. Đẩy mạnh xử lý an toàn rác thải và tái sử dụng nguyên liệu rác, chống ô nhiễm, tăng cường giám sát quản lý an toàn chất lượng thực phẩm nông nghiệp. - Tăng cường và tối ưu hóa các chính sách hỗ trợ ưu đãi dành cho nông nghiệp, kiện toàn cơ chế đầu tư tài chính đảm bảo tăng trưởng ổn định, mở rộng các kênh đầu tư theo hình thực thị trường hóa nguồn vốn xã hội, thực hiện các biện pháp tăng chi cho nông nghiệp như bảo hiểm, khoản vay... để giúp đỡ các khu vực nông thôn còn khó khăn nhanh chóng thoát khỏi nghèo đói. - Đẩy mạnh hiện đại hóa nông nghiệp và đô thị hóa kiểu mới hỗ trợ lẫn nhau, phát huy vai trò chịu trách nhiệm của địa phương, thực thi chính sách theo địa phương theo khu vực, bảo đảm nhu cầu nhà ở cơ bản của cư dân, nỗ lực thực hiện ai cũng có nhà ở, kiện toàn bình ổn thị trường bất động sản. 3.2.3.3. Cải cách chế độ hộ khẩu Chế độ hộ khẩu tại Trung Quốc được hình thành từ những năm đầu thực hiện kinh tế kế hoạch hóa, nay đã trở nên hết sức lạc hậu trước những biến chuyển to lớn của kinh tế - xã hội Trung Quốc, là rào cản kìm hãm sự tiến bộ và phát triển toàn diện. Do đó, cải cách chế độ hộ khẩu được coi là nhiệm vụ quan trọng trong những nhiệm vụ quan trọng, là con đường tất yếu cần phải đi để tiến tới nhất thể hóa thành thị - nông thôn, góp phần thực hiện thành công chuyển đổi phương thức PTKT. Thực tế, cải cách chế độ hộ khẩu tại Trung Quốc không phải là một nhiệm vụ đơn giản, nó liên quan đến rất nhiều vấn đề phức tạp. Thứ nhất, dân số đông và chênh lệch phát triển giữa thành thị nông thôn, giữa các vùng miền của Trung Quốc khiến cho khó có thể đáp ứng một cách bình đẳng về quyền lợi của người dân. Thứ hai, chính sách về các dịch vụ công và phúc lợi xã hội vốn gắn chặt với chế độ hộ khẩu trong một thời gian dài, không dễ trong thời gian ngắn có thể xóa bỏ được. 84 Thứ ba, nguyện vọng và nhu cầu của các nhóm người vô cùng đa dạng, điều này gây khó khăn trong việc điều hòa các mối quan hệ xã hội về mặt lợi ích. Hội nghị Trung ương 3 Khóa XVIII ban hành “Quyết định về một số vấn đề trọng đại đi sâu cải cách toàn diện” mở đường cho việc giải quyết vấn đề bất cập của chế độ hộ khẩu. Sau đó vào tháng 7/2014, Quốc Vụ viện Trung Quốc ban hành “Ý kiến về đẩy mạnh hơn nữa cải cách chế độ hộ khẩu”, xác định rõ tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc cơ bản, mục tiêu, nhiệm vụ. Đây là những văn kiện có tính chất cương lĩnh chỉ đạo quan trọng nhất về công tác thực hiện cải cách chế độ hộ khẩu tại Trung Quốc. Về văn bản Ý kiến của Quốc Vụ viện, nội dung quan trọng nhất là xác định xây dựng chế độ đăng ký hộ khẩu thống nhất giữa thành thị và nông thôn, đánh dấu mô hình quản lý hộ khẩu nhị nguyên “nông nghiệp” và “phi nông nghiệp” tồn tại hơn nửa thế kỷ tại Trung Quốc đã “rút lui khỏi vũ đài lịch sử”. Văn bản Ý kiến đưa ra một số mục tiêu lớn cần đạt được đến năm 2020, cụ thể: Một là, từng bước thúc đẩy thị dân hóa dân số di chuyển từ khu vực nông nghiệp, điều chỉnh chính sách thay đổi hộ khẩu, nỗ lực thực hiện 100 triệu người bao gồm những người di chuyển từ khu vực nông nghiệp và thường trú khác có hộ khẩu tại thành phố; thúc đẩy các dịch vụ công cơ bản của thành phố đến với toàn bộ dân số thường trú như giáo dục nghĩa vụ, việc làm, dưỡng lão, y tế vệ sinh, nhà ởgiải quyết các vấn đề liên quan đến dịch vụ công cơ bản của những người cư trú và làm việc tại thành phố nhưng chưa có hộ khẩu. Hai là, cơ bản xây dựng chế độ hộ khẩu mới. Thông qua thúc đẩy thêm một bước cải cách chế độ hộ khẩu, thống nhất chế độ đăng ký hộ khẩu thống nhất tại thành thị nông thôn, thực hiện chế độ chứng nhận cư trú toàn diện, cơ bản xây dựng chế độ đăng ký thay đổi hộ khẩu căn cứ trên các điều kiện cơ bản về nghề nghiệp, cứ trú ổn định, hợp pháp và điều kiện về việc đăng ký cư trú thường xuyên. Xây dựng kho số liệu thông tin cơ sở dân số quốc gia, thực hiện chia sẻ dữ liệu liên ngành, liên vùng. Dựa trên những nhu cầu phù hợp của xây dựng xã hội khá giả toàn diện, thúc đẩy hiện đại hóa năng lực quản lý và hệ thống quản lý quốc gia. Thúc đẩy cải cách chế độ hộ khẩu được cụ thể hóa về mặt chính sách với 11 điều và 3 nội dung lớn, bao gồm điều chỉnh về chính sách chuyển đổi hộ khẩu như nới lỏng toàn diện những hạn chế về đăng ký hộ khẩu tại các thành phố quy mô nhỏ và trấn; nới lỏng có thứ tự các hạn chế về đăng ký hộ khẩu tại thành phố có quy mô trung bình; xác định hợp lý các điều kiện đăng ký hộ khẩu tại thành phố quy mô lớn; khống chế chặt chẽ quy mô nhân khẩu tại các siêu thành phố; giải quyết có hiệu quả những vấn đề trọng điểm về chuyển hộ khẩu. Về yêu cầu đổi mới trong công tác quản lý dân số, cần thực hiện thống nhất một chế độ đăng ký hộ khẩu tại thành thị và nông thôn, xây dựng chế độ giấy phép cư trú và kiện toàn chế độ quản lý 85 thông tin dân số. Ngoài ra, văn bản “Ý kiến về đẩy mạnh hơn nữa cải cách chế độ hộ khẩu” còn yêu cầu cần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của những người di chuyển từ khu vực nông nghiệp và số dân thường trú khác, hoàn thiện chế độ quyền sở hữu tài sản tại nông thôn, mở rộng mức độ bao phủ các dịch vụ công cơ bản như giáo dục, việc làm, dưỡng lão, vệ sinh y tế cơ sở, nhà ở, tăng cường bảo đảm về tài chính đối với các dịch vụ công cơ bản. Trong giai đoạn này, Trung Quốc còn ban hành một số văn bản khác tạo cơ chế cho cải cách chế độ hộ khẩu như “Điều lệ thực thi tạm thời về giấy phép cư trú” (2015); “Ý kiến về việc giải quyết vấn đề người không có hộ khẩu đăng ký hộ khẩu” (2016). Cùng với văn bản Ý kiến của Quốc Vụ viện, những văn bản nêu trên đã đánh dấu cải cách chế độ hộ khẩu tại Trung Quốc đang bước vào giai đoạn thực thi toàn diện. Cơ quan chức năng của Trung Quốc đã chỉ đạo các địa phương tiến hành điều chỉnh, hoàn thiện chính sách chuyển đổi hộ khẩu, xóa bỏ giấy phép tạm trú, thực hiện chế độ giấy phép cư trú toàn diện, đồng thời tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống chính sách, đề xuất các biện pháp cải cách phù hợp với từng lĩnh vực kinh tế xã hội. Ý nghĩa thực tế to lớn của việc thống nhất đăng ký hộ khẩu thể hiện ở việc người dân thành phố và người dân nông thôn sẽ thống nhất một “thân phận”, đây có thể coi là bước tiến lớn trong phát triển xã hội tại Trung Quốc. Đi cùng với sự thống nhất về thân phận là xây dựng đồng bộ một hệ thống các dịch vụ công từ giáo dục, y tế, bảo hiểm, việc làm cho đến đất đai, nhà ở và thống kê dân số, đảm bảo quyền bình đẳng trong hưởng thụ các dịch vụ công và các đãi ngộ về phúc lợi xã hội. Nhìn chung, do khu vực thành thị và nông thôn vẫn có sự chênh lệch phát triển trong một thời gian dài, những bất bình đẳng thành thị và nông thôn vẫn cần thời gian để loại trừ triệt để, song với những chính sách được đề cập đến trên đây, chính là những biện pháp cải cách một cách cụ thể nhất, đúng đắn nhất, phù hợp với thực tế nhất nhằm hướng tới đẩy mạnh phát triển nhất thể hóa thành thị nông thôn tại Trung Quốc, xóa bỏ cơ cấu nhị nguyên thành thị - nông thôn. 3.2.4. Điều chỉnh kết cấu phân phối thu nhập Kết cấu phân phối thu nhập bất hợp lý là vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội Trung Quốc trong thời gian dài, nó được biểu hiện ở hai phương diện là tỷ trọng của thu lao người lao động trong tổng thu nhập quốc dân và tỷ trọng thù lao của người lao động trong phân phối lần đầu thấp [60]. Phân phối thu nhập bất hợp lý, thiếu công bằng không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, mà còn là nguyên nhân chính gây ra các mâu thuẫn x

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chuyen_doi_phuong_thuc_phat_trien_kinh_te_o_trung_qu.pdf
Tài liệu liên quan