MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những tư liệu, tài liệu và công trình nghiên cứu của các tác giả liên
quan đề tài luận án 7
1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết 18
1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ 19
Chương 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG CUỘC
ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VƯƠNG
QUỐC CAMPUCHIA TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2013 20
2.1. Nhân tố trong nước 20
2.2. Nhân tố quốc tế 45
Chương 3: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA TỪ
NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2013 61
3.1. Đường lối đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Vương quốc
Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013 61
3.2. Quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Vương quốc
Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013 71
Chương 4: ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC CỦA VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA TỪ NĂM
1993 ĐẾN NĂM 2013, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ KINHNGHIỆM108
4.1. Đánh giá quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Vương
quốc Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013, vấn đề đặt ra 108
4.2. Một số kinh nghiệm 141
KẾT LUẬN 163
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 168
PHỤ LỤC 183
199 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của Vương quốc Campuchia từ năm 1993 đến năm 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Campuchia. Tuy
nhiên, do hoàn cảnh đặc thù về tình hình chính trị - xã hội, để tạo điều kiện cho
phát triển kinh tế, chính phủ ưu tiên phát triển lĩnh vực nông nghiệp, hạ tầng cơ
sở, điện và đào tạo nguồn nhân lực, đây là những lĩnh vực cơ bản đảm bảo toàn
bộ cho sự phát triển và phù hợp với tình hình thực tế tại Campuchia [19, tr.33].
Trong đó, đẩy mạnh phát triển kinh tế tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu trong
hai giai đoạn như sau:
3.2.2.1. Giai đoạn 1993-2003: Tái thiết và cơ cấu lại nền kinh tế
Thứ nhất, thực hiện một số chính sách kích thích kinh tế
Về thương mại: Tiếp tục tự do hóa thương mại, có sự hướng dẫn định
hướng cho các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại vận hành theo
phương hướng, chính sách và luật pháp nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho
việc lưu thông hàng hóa được tự do trên khắp đất nước để điều chỉnh số lượng
và giá hàng hóa từ vùng này đến vùng khác và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa ngày
càng nhiều hơn. Mở rộng quan hệ thương mại quốc tế để gắn kết thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh việc hội nhập thương mại cả
trong khu vực và trên thế giới.
Về chính sách đầu tư: Chính phủ thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài
theo chủ trương và khuyến khích được ghi trong các quy định của luật đầu tư của
84
Vương quốc Campuchia. Tăng cường hợp tác với các nước và các cơ quan quốc
tế nhằm thu hút nhiều đầu tư, viện trợ phát triển, cấp hệ thống ưu đãi thương mại
của nước phát triển và mở rộng thị trường. Để tăng cường môi trường tốt cho đầu
tư chính phủ bảo đảm ổn định chính trị xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô, bổ sung
luật đầu tư về khuôn khổ pháp luật cho đầu tư. Cải tiến và củng cố cơ quan chịu
trách nhiệm công tác đầu tư, đặc biệt là trình tự thủ tục nhằm kiên quyết ngăn
chặn việc lợi dụng trục lợi cho cá nhân từ hoạt động đầu tư trái phép.
Về chính sách kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại tuân thủ theo chính sách tự do hóa thương mại quốc tế và
hội nhập kinh tế của đất nước vào kinh tế thế giới. Thông qua đó Campuchia
chuẩn bị tư thế để tạo dựng cơ hội nhằm thu được lợi ích kinh tế cũng như đối
mặt với tiến trình quốc tế hóa kinh tế cả trong khu vực cũng như trên thế giới. Có
nhiều yếu tố bên ngoài tác động tích cực đối với kinh tế đất nước, như sự vận
dụng tự do hàng hóa, dịch vụ và tài chính nhằm thúc đẩy dòng vốn đầu tư, công
nghệ và kinh nghiệm từ nước ngoài vào trong nước, thông qua đó sản xuất, việc
làm và thu nhập trong nước tăng lên, đồng thời năng suất, lợi thế so sánh và năng
lực cạnh tranh của kinh tế Campuchia trên thị trường quốc tế được nâng lên thông
qua việc thực hiện quy mô sản xuất, giảm giá thành sản xuất và sự chuyên môn
hóa sản xuất dựa vào nguồn tài nguyên có sẵn trong nước.
Tuy nhiên, Campuchia đã đối mặt với sản phẩm hoàn chỉnh từ nước ngoài
đổ vào ồ ạt làm cho lực lượng thủ công nghiệp và công nghiệp còn non trẻ trong
nước gặp khó khăn. Sức ép từ tiến trình hội nhập kinh tế trong khu vực khi
Campuchia là trong thành viên ASEAN và thành viên WTO đã phần nào tạo
thêm gánh nặng ngân sách quốc gia qua việc nguồn thu từ thuế và phí hàng hóa
nhập khẩu giảm và qua các khoản chi khác liên quan đến tư cách thành viên của
tổ chức này. Những diễn biến này làm chuyển biến cơ cấu kinh tế Campuchia,
buộc chính phủ phải có sự điều chỉnh chính sách kinh tế linh hoạt hơn phù hợp
với tình hình mới. Chính phủ tiếp tục chỉnh sửa cơ cấu luật pháp, thủ tục pháp lý
và cơ quan có liên quan để đáp ứng các điều kiện phù hợp với tiêu chuẩn mới
mà hiện nay trong khu vực và trên thế giới đang thực hiện.
Chính sách tài chính và tiền tệ
85
Chính phủ thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ ngày càng có hiệu quả
hơn. Hệ thống thuế quan đang xây dựng theo hướng hiện đại (nhưng đáng tiếc
chưa được áp dụng một cách chặt chẽ). Ngân sách nhà nước có chức năng trợ
cấp, tập hợp và phân chia nguồn lợi xã hội, là công cụ quan trọng trong việc
chấp hành chính sách kinh tế và xã hội của chính phủ. Vì vậy, việc giám sát chi
ngân sách để dịch vụ công và các dự án đầu tư công được công khai và có tính
tiết kiệm, có sự cân nhắc và hiệu quả kinh tế cao. Chính phủ chuyển đổi việc ưu
tiên sử dụng ngân sách nhà nước sang phục vụ lĩnh vực hỗ trợ sản xuất và ưu đãi
cho lĩnh vực đầu tư tư nhân, xã hội và y tế.
Tư cách thành viên của Campuchia trong ASEAN tác động mạnh đến sự
chuyển biến cơ cấu nguồn thu ngân sách quốc gia. Nguồn thu thuế quan từ hoạt
động xuất nhập khẩu giảm sút. Do đó chính phủ đã cố gắng giảm bớt các thủ tục
hành chính rườm rà, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư để
đạt được thặng dư ngân sách, lấy nguồn tài chính ưu đãi trong nước phục vụ cho
đầu tư công, can thiệp kinh tế và tăng lương cho công chức nhà nước. Để đạt
được hiệu quả cao trong việc quản lý ngân sách và thuế quan, chính phủ thực
hiện các biện pháp cấp bách sau:
(i) Triển khai mọi biện pháp để xóa bỏ nạn buôn lậu dưới mọi hình thức.
(ii) Nghiêm cấm việc tổ chức trạm thu tiền bất hợp pháp.
(iii) Chấm dứt việc miễn thuế ngoài khuôn khổ luật đầu tư, luật thuế quan
và luật quản lý tài chính hàng năm.
(iv) Bộ Kinh tế và Tài chính giám sát và thực hiện kiểm tra các mặt hàng
quan trọng trước khi đóng gói để đảm bảo việc quản lý có hiệu quả, việc đóng
thuế đúng. Tuy nhiên vẫn duy trì hiệu quả dịch vụ nhanh.
(v) Thực hành tiết kiệm chi, đặc biệt chi không cần thiết, tất cả tiền có từ
tư nhân hóa phải sử dụng vào đầu tư công, lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc tiền đối
ứng của quỹ tín dụng, vay của cơ quan tài chính chỉ dành cho các dự án hạ tầng,
không cho phép sử dụng tiền này ngoài các đối tượng trên. Chính phủ siết chặt
chính sách kỷ luật và trừng trị đối với hành vi ăn cắp, chuyển tiền công và tham
nhũng khác.
Để duy trì sức mua của đồng tiền Riel, và ổn định tỷ giá hối đoái đồng
Riel chính phủ chủ trương giữ tốc độ tỷ lệ tăng trưởng của việc chi ngân sách
86
quốc gia không cho nhanh hơn tăng trưởng kinh tế, xác định tỷ lệ tiền dự trữ của
ngân hàng cho phù hợp, thực hiện chính sách lãi suất hợp lý và sự can thiệp của
ngân hàng quốc gia theo kịp tình hình cấp bách của thị trường tiền tệ trong nước.
Sự nỗ lực của chính phủ là để cắt giảm sự mất cân bằng kinh tế đang gặp
nhiều khó khăn, nguồn tài chính có hạn, buộc chính phủ xác định thứ tự ưu tiên
sử dụng vốn và thời gian thực hiện biện pháp kinh tế, tuy nhiên việc hoàn thành
thắng lợi mục tiêu kinh tế đòi hỏi có sự tập trung, đồng bộ của các chính sách
kinh tế khác nhau, trong khi đó việc khủng hoảng tài chính kéo dài và suy thoái
kinh tế trong khu vực đã tác động tiêu cực đến dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế trong nước. Chính phủ đã cố gắng khắc phục những trở
ngại đó để hoàn thành mục tiêu kinh tế và công việc này đòi hỏi có sự tham gia
của các tầng lớp trong nước và quốc tế trong tiến trình phát triển kinh tế quốc
gia, đồng thời buộc phải có sự củng cố năng lực và tinh thần công tác, đạo đức
và nghĩa vụ xã hội của công chức nhà nước.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở hạ tầng
Về phát triển nguồn nhân lực: Chính phủ đứng trên quan điểm cho rằng
nhân tố hàng đầu cho sự phát triển kinh tế là phải có nguồn nhân lực tốt, qua đó
xây dựng nguồn nhân lực có đầy đủ sức khoẻ, có tri thức và văn hoá cao, có
phẩm chất đạo đức tốt và trong sạch, có tinh thần trách nhiệm, có tham vọng
mãnh liệt trong công việc để gặt hái thành tích của mình, giải phóng bản thân
khỏi sự nghèo khổ, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Trên tinh thần
này, việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển dịch vụ y tế công
và đảm bảo an ninh lương thực cho mọi người dân là nhiệm vụ quan trọng. Song
song với việc cải thiện và phổ cập hoá giáo dục kiến thức chung, chính phủ đã
xác định ưu tiên đầu tư lĩnh vực đào tạo nghề và đại học, tập trung định hướng
chuyên môn kỹ thuật và quản lý phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường lao
động ở Campuchia, cải tiến chất lượng chương trình đào tạo gắn với thực hành
và hoạt động sản xuất để cung cấp kỹ năng, tinh thần kinh doanh và năng lực
tiếp thu cái mới của người học, biết tự tạo ra việc làm cho mình, có thể xúc tiến
tổ chức kinh doanh, lập trang trại hoặc tự lập công ty Qua đó cũng tạo ra
nhiều việc làm cho người dân. Chính phủ đã và đang tăng cường chi thêm ngân
sách cho lĩnh vực này, đồng thời khuyến khích đào tạo nghề trong và ngoài hệ
87
thống của lĩnh vực tư nhân và tổ chức phi chính phủ. Chính phủ đã phối hợp với
Phòng thương mại và các hội ngành nghề khác để thành lập Trung tâm chuyển
giao công nghệ và kiến thức từ nước ngoài, Trung tâm tư vấn kinh doanh, Trung
tâm cung cấp thông tin thị trường, Trung tâm bảo vệ người tiêu dùng...
Về cơ sở hạ tầng: Việc thiếu thốn cơ sở hạ tầng quốc gia vừa là hậu quả
và vừa là nguyên nhân của nền kinh tế lạc hậu ở Campuchia. Nhiệm vụ của
Chính phủ là tiếp tục khôi phục và xây dựng lĩnh vực giao thông vận tải, phát
huy năng lực cung cấp điện và nước, đồng thời cải tạo mạng lưới thủy lợi trở
thành một hệ thống hạ tầng cơ sở hữu hiệu để đẩy mạnh sản xuất, đáp ứng dịch
vụ một cách đầy đủ. Việc khôi phục và xây dựng hạ tầng cơ sở đòi hỏi phải
được thực hiện tiếp tục đối với các dự án ưu tiên được ghi trong chương trình
đầu tư công, đồng thời phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong
việc tài trợ vốn dự án và Quỹ tài trợ kỹ thuật khác. Chính phủ mở rộng cho tư
nhân đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải, viễn thông và cung cấp điện năng.
Song song đó, với nguồn tài chính hạn hẹp của mình, chính phủ ưu tiên
hàng đầu đối với lĩnh vực kỹ thuật sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là xây dựng
hạ tầng nông thôn, sử dụng nguồn nguyên liệu và kỹ thuật trong nước, tạo việc
làm, hỗ trợ cho ngành thủ công ở nông thôn phát triển. Trong thực hiện dự án
phải có sự gắn kết với việc sử dụng và phát triển năng lực của nhân viên, công
chức, công nhân và doanh nghiệp trong nước.
Thứ ba, phát triển lĩnh vực có lợi thế sẵn có của Campuchia
Về nông nghiệp: Trong cơ cấu của nền kinh tế Campuchia, nông nghiệp là
chủ đạo. Căn cứ theo tình hình thực tế hiện nay về nguồn tài nguyên và trình độ
kỹ thuật trong nước, việc phát triển lĩnh vực nông nghiệp là ưu tiên hàng đầu của
chính sách phát triển của chính phủ để đảm bảo an ninh lương thực, để thúc đẩy
sự phát triển các lĩnh vực khác, đặc biệt là cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu và để tạo việc làm cho người dân
Campuchia hiện đang tăng dân số rất nhanh. Tuy nhiên, nông nghiệp Campuchia
vẫn còn là nông nghiệp lạc hậu, hầu như dựa hoàn toàn vào yếu tố thời tiết. Vì
vậy, Chính phủ tiếp tục nỗ lực thực hiện chính sách thủy lợi thông qua việc bảo
dưỡng, khôi phục và xây dựng hệ thống kênh mương, thủy lợi và đập nước, xây
dựng thêm trạm bơm nước và tổ chức lãnh đạo nông dân cải tiến hệ thống tưới
88
tiêu quy mô nhỏ để quản lý tốt nguồn nước. Để đạt được mục tiêu này phải cải
tiến cơ cấu và trang bị phương tiện kỹ thuật cho ngành liên quan để đảm bảo
hiệu quả trong việc giải quyết nước phục vụ cho phát triển nông nghiệp. Chính
sách nông nghiệp của Chính phủ đã tập trung vào việc mở rộng diện tích đất
trồng trọt thông qua việc rà phá mìn, mở rộng khu phát triển mới, củng cố việc
thực thi và xây dựng luật mới về sở hữu đất đai để đảm bảo an toàn sở hữu đất
đai, nhà cửa, ruộng vườn và đất tô nhượng là phương tiện thúc đẩy sự phát triển
tư nhân và chương trình đầu tư đứng trên quan điểm có lợi cho xã hội, tăng
cường nguồn tài chính và bảo vệ môi trường.
Chính phủ củng cố việc thực hiện chính sách rừng và luật quản lý rừng để
đảm bảo việc sử dụng nguồn tài nguyên rừng có sự cân nhắc, duy trì sự cân đối
giữa chặt rừng, trồng rừng và sự phát triển rừng, nghiêm cấm việc chặt phá rừng
trái phép; thúc đẩy việc tổ chức cho người dân trồng cây phát triển nhanh và cho
năng suất cao để làm củi và than. Để bảo vệ rừng tồn tại lâu dài và vừa giữ được
môi trường, chính phủ đã thực hiện nghiêm các biện pháp:
(i) Chấm dứt việc cấp phép đầu tư trong lĩnh vực chế biến gỗ.
(ii) Tiến hành kiểm tra lại tất cả các hợp đồng, nếu không thực hiện được
thì thu hồi, sau khi xóa bỏ hợp đồng không được giao cho công ty nào khác mà
phải giữ lại bảo tồn hoặc làm nơi cư trú của động vật hoang dã hoặc làm vườn
quốc gia dưới sự quản lý nghiêm ngặt của Bộ Nông - Lâm - Ngư nghiệp, Bộ
Môi trường và chính quyền địa phương.
(iii) Đối với đất rừng tô nhượng đã thực hiện theo hợp đồng phải thúc đẩy
trang bị thêm phương tiện chế biến hiện đại để nâng giá gỗ và tạo việc làm cho
người dân, đồng thời buộc các công ty phải chấp hành nghiêm việc khai thác gỗ
theo kế hoạch và tiêu chuẩn kỹ thuật, cũng như trồng lại cây trong khu vực khai thác.
(iv) Xem xét lại dự thảo luật về quản lý rừng và xây dựng bộ luật quản lý
khai thác rừng trái phép hoặc xuất khẩu gỗ trái phép.
Về công nghiệp, thủ công nghiệp: Chính sách của chính phủ cụ thể là phát
triển xí nghiệp và nhà máy chế biến theo hướng xuất khẩu, đồng thời hỗ trợ
ngành thủ công và công nghiệp nhỏ sản xuất mặt hàng thực phẩm phục vụ nhu
cầu trong nước. Có chủ trương khuyến khích công nghiệp quy mô vừa và ngành
thủ công chủ yếu. Chính phủ tập trung ưu tiên chiến lược sản xuất hàng xuất khẩu
89
có năng lực cạnh tranh quốc tế, hạn chế nhập khẩu mặt hàng trong nước sản xuất
được, bởi vì dân số Campuchia ít và phần lớn là người nghèo, thị trường nội địa
hẹp, trình độ kỹ thuật và khoa học còn thấp, v.v... không đầu tư nhà máy sản
xuất quy mô lớn, vì việc tự do hóa thương mại quốc tế đã làm cho sản phẩm
công nghiệp trong nước khó cạnh tranh về giá, chất lượng và mẫu mã hàng hóa
nước ngoài. Những yếu tố thực tế này buộc chính phủ giữ một chính sách kinh
tế mềm dẻo và ưu đãi đã được phản ảnh rõ trong luật đầu tư và luật thuế quan để
thu hút đầu tư vốn nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực công nghiệp ở
Campuchia. Đây là phương tiện quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu, chuyển giao
công nghệ, tăng việc làm và thu nhập. Khuyến khích đặc biệt đối với công
nghiệp chế biến và xí nghiệp có thế mạnh của Campuchia để cạnh tranh với thị
trường quốc tế, như sử dụng kỹ thuật nhiều lao động, sử dụng nguyên liệu và
sản phẩm bán thành phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp.v.v Cố gắng hỗ trợ
cho lĩnh vực nông - công nghiệp trở thành cơ cấu nòng cốt của công nghiệp
Campuchia, đồng thời đẩy mạnh việc thành lập khu công nghiệp và chế xuất,
đặc biệt ở khu vực có biên giới giáp biển.
Chính phủ đẩy mạnh việc nghiên cứu, tìm kiếm và khai thác dầu khí,
khoáng sản - một trong những lĩnh vực có thể nâng cao tiềm lực kinh tế của đất
nước. Đẩy mạnh phát triển năng lượng điện, và làm cho lĩnh vực điện thực sự
trở thành đối tượng kinh tế, đặc biệt phát triển thủy điện để đảm bảo cung cấp
điện giá thấp và từng bước thực hiện điện khí hóa nông thôn.
Về du lịch: Dựa vào tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng của đất
nước, chính phủ đẩy mạnh phát triển lĩnh vực du lịch thành du lịch văn hóa và
sinh thái. Chính phủ hỗ trợ đầu tư tư nhân, đầu tư công nhằm xây dựng hạ tầng
du lịch và cố gắng duy trì an ninh, ổn định để ngành du lịch trở thành nguồn thu
ngoại tệ chính của quốc gia, góp phần xóa đói giảm nghèo - một trong những
mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển quốc gia. Công tác du lịch đã gắn
với việc giữ gìn di sản văn hóa vật thể và văn hóa tinh thần của dân tộc và cả
môi trường thiên nhiên.
3.2.2.2. Giai đoạn 2004-2013: thúc đẩy tăng trưởng, cải cách và tăng
cường hợp tác để phát triển
90
Giai đoạn tái thiết và cơ cấu lại nền kinh tế đã tạo ra cho Campuchia
những tiền đề quan trọng trong việc thực hiện kinh tế thị trường tự do, nền kinh
tế về cơ bản được phục hồi và ổn định. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển bền
vững, con đường phía trước vẫn đầy khó khăn và thách thức, chính phủ Hoàng
gia đã đưa ra chiến lược phát triển quốc gia cùng với “ Chiến lược Tứ giác giai
đoạn 1 và 2”, trong đó thực hiện các chiến lược như sau:
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trường kinh tế
Chính phủ Hoàng gia đã thành công trong việc duy trì nền kinh tế vĩ mô
ổn định từ năm 2004 đến năm 2007, với mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm tăng 11,1%/năm, đây là mức tăng cao so với mục tiêu đề ra từ 6 đến 7
%/năm. Kết quả đã đưa thu nhập bình quân đầu người tăng từ 389 USD năm
2004 lên 589 USD năm 2007; dự trữ ngoại tệ cũng tăng gấp đôi và đạt khoảng 2
tỷ USD vào năm 2008; lạm phát đã được kiềm chế ở mức cho phép, dưới
6%/năm; và tỷ giá hối đoái ở mức ổn định; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Campuchia đã tăng hơn 7 lần từ 121 triệu USD năm 2004 lên 866 triệu USD
năm 2007 [22, tr.36]. Kể từ khi thực hiện chương trình cải cách quản lý tài chính
công, nguồn thu ngân sách đã tăng trung bình 26%/năm. Ngân sách đã được
thay đổi hoàn toàn từ thâm hụt triền miên, sang thặng dư ngân sách, không
những thế đã làm cho ngân sách trở nên minh bạch hơn. Đồng thời, chính phủ
Hoàng gia đã thực hiện thành công kế hoạch hành động, được giải thích rõ trong
Chương trình “Triển vọng và kế hoạch phát triển ngành tài chính 2001-2010”,
và mới nhất là “Chiến lược phát triển tài chính 2006-2015”. Những kết quả này
cho thấy, các biện pháp kinh tế mà chính phủ Hoàng gia thực hiện trong giai
đoạn thúc đẩy tăng trưởng là phù hợp. Để duy trì đà phát triển, chính phủ quyết
tâm mạnh mẽ trong việc quản lý kinh tế vĩ mô, tài chính công và ngân hàng, cụ
thể như sau:
(i) Cố gắng đạt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế từ năm 2008 đến năm 2013
trung bình 7%/năm trong bối cảnh lạm phát thấp và tỷ lệ hối đoái ổn định, đồng
thời tăng vốn dự trữ ngoại tệ, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài
để cải thiện và tiến tới cân bằng cán cân thanh toán. Thông qua đó, chính phủ cố
gắng tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người lên khoảng 870 USD
91
vào năm 2013 và công việc xóa đói giảm nghèo của nhân dân sẽ giảm trung bình
vượt 1%/năm [23, tr.6].
(ii) Tiếp tục thực hiện chính sách thuế một cách thận trọng và chính sách
ngoại tệ phù hợp, trong đó, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách việc quản lý
tài chính công bằng cách đặc biệt tập trung vào việc củng cố và nâng cao việc
thu ngân sách quốc gia từ các nguồn khác nhau, kể cả nguồn thu từ việc khai
thác dầu khí, khí đốt thiên nhiên và tài nguyên mỏ. Cùng với thực hiện việc quản
lý tài sản nhà nước một cách nghiêm túc, sắp xếp việc chi tiêu ngân sách một
cách hiệu quả, minh bạch và hạch toán để giải trình, giành ưu tiên vào việc đầu
tư trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng và nâng cao đời sống của cán bộ
công chức và lực lượng vũ trang, đặc biệt thông qua việc tăng lương cho cán bộ
công chức, lực lượng vũ trang ít nhất 20%/năm trên tiền lương cơ bản.
(iii) Tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển lĩnh vực tài chính, hướng sự
quan tâm đặc biệt vào việc củng cố vững chắc hệ thống ngân hàng nhằm huy
động nguồn tài chính và ưu đãi tài chính cho dự án lĩnh vực tư nhân và hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế, phát triển mở rộng dịch vụ tài chính vi mô đối với người
dân nghèo và dành khoản dịch vụ ưu tiên đối với xí nghiệp vừa và nhỏ theo
nguyên tắc ưu đãi cho nhân dân để tạo điều kiện phát huy khả năng của nhân
dân trong việc lập nghiệp, tăng thu nhập trong gia đình và góp phần phát triển
đất nước. Cùng với đó, chính phủ nỗ lực phát triển lĩnh vực tài chính ngoài hệ
thống ngân hàng như: lĩnh vực bảo hiểm, thị trường vốn tư sản.v.v.. và đẩy
mạnh sử dụng đồng Riel thông qua biện pháp tăng cường sự tin tưởng của công
chúng đối với đồng tiền quốc gia.
Thứ hai, thúc đẩy vai trò điều hành tốt
Điều hành tốt là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất nhằm đảm bảo phát
triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, bình đẳng và công bằng xã hội. Điều
hành tốt đã và đang được chính phủ Hoàng gia tiếp tục tăng cường vai trò của
mình thông qua một số chương trình cải cách trong các lĩnh vực then chốt nhằm
quản lý tốt, tạo uy tín và xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, trong đó
tập trung vào: chống tham nhũng, cải cách hệ thống tư pháp và pháp luật, cải
cách hành chính công và cải cách lực lượng vũ trang [22, tr.21]. Chương trình
cải cách này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tiếp tục thực hiện các
92
chính sách phát triển của chính phủ Hoàng gia. Với mục tiêu tăng cường tính
hiệu quả trong thực thi chính sách, phân phối và quản lý hàng hóa công cộng,
đặc biệt chú trọng việc cung cấp dịch vụ công cộng nhằm đáp ứng nhu cầu của
người dân ngày một tốt hơn.
(1) Về chống tham nhũng: đấu tranh chống tham nhũng tiếp tục là ưu tiên
hàng đầu của chính phủ Hoàng gia Campuchia, vì tham nhũng đã và đang tác
động tiêu cực tới uy tín và sẽ thách thức vai trò lãnh đạo của chính phủ nếu không
có biện pháp xử lý thỏa đáng. Luật chống tham nhũng là một công cụ pháp lý
quan trọng để chống tham nhũng, Chính phủ cam kết sẽ nỗ lực xây dựng và ban
hành Luật chống tham nhũng với sự tham gia góp ý của các đối tác liên quan trên
cơ sở các luật cơ bản liên quan khác cần phải được thông qua trước. Từ đó, mới
có thể đảm bảo tính chặt chẽ và thống nhất giữa các luật khác nhau nhưng có mối
liên hệ với nhau và đặc biệt đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình thực thi luật.
Nhằm triệt tiêu tận gốc nạn tham nhũng, chính phủ tiếp tục theo đuổi các
chiến lược và biện pháp mạnh mẽ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau như sau:
- Biện pháp ngăn ngừa: chính phủ Hoàng gia tiếp tục đề ra những biện
pháp nâng cao nhận thức về mọi hình thức của tham nhũng, bao gồm nguyên
nhân, ảnh hưởng và hậu quả của nó, nhằm khuyến khích quần chúng tham gia
vào việc ngăn chặn, đấu tranh chống tham nhũng. Chính phủ áp dụng các biện
pháp cụ thể để khuyến khích tầng lớp công chức, viên chức nhà nước giữ vững
phẩm giá, đạo đức trong sáng và hoàn thành mọi công việc được giao một cách
chuyên nghiệp và có trách nhiệm cao.
- Nâng cao trách nhiệm giải trình và thúc đẩy năng lực của các cơ quan:
chính phủ tập trung nâng cao hiệu quả theo nguyên tắc tránh xung đột giữa lợi
ích chung và lợi ích cá nhân. Xác định rõ chức năng hoạt động của từng cá nhân,
từng vị trí công việc và trách nhiệm. Ngăn chặn và xóa bỏ việc lợi dụng hoặc
lạm dụng quyền lực, chức vụ cũng như gây ảnh hưởng đến quá trình thông qua
quyết định.
- Sự hỗ trợ và tham gia của toàn thể nhân dân: đây là điều kiện cần thiết
để ngăn chặn, giảm bớt và đấu tranh với nạn tham nhũng một cách hiệu quả.
Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh hơn việc tìm hiểu, thu thập và công bố thông tin về
các trường hợp liên quan đến tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại
93
chúng. Tuy nhiên, việc này cần phải tiến hành một cách khách quan và có trách
nhiệm, tôn trọng quyền, danh dự và phẩm giá của những người có liên quan
trong khi vẫn bảo vệ được an ninh quốc gia và trật tự xã hội.
- Sự tham gia của lĩnh vực tư nhân: chính phủ hoàng gia tiếp tục thực
hiện các chính sách, khung pháp lý và quy trình thủ tục để bảo vệ tính pháp lý
của lĩnh vực tư nhân, nhằm ngăn chặn sự cấu kết và đảm bảo môi trường cạnh
tranh công bằng giữa các công ty, các doanh nghiệp tư nhân, thông qua việc đảm
bảo hành vi lành mạnh, đạo đức và nhân cách trong mọi hoạt động kinh doanh.
Chính phủ đảm bảo sự cân bằng giữa quyền và các quyền lợi đã được ký kết
trong hợp đồng giữa nhà nước và lĩnh vực tư nhân.
- Thúc đẩy thực thi pháp luật: chính phủ đưa ra những biện pháp pháp
lý nghiêm ngặt đối với tội phạm, nhằm xóa bỏ thái độ coi thường pháp luật,
giảm bớt tham nhũng và tăng cường niềm tin đối với nhân dân.
(2) Về cải cách hệ thống tư pháp và pháp luật: chính phủ Hoàng gia đã và
đang cải tiến hệ thống tư pháp và pháp luật bằng việc tập trung vào việc xây
dựng một khung pháp lý vững chắc và nâng cấp hóa nội dung luật, đồng thời đặt
ra chiến lược và những biện pháp cần thiết với mục đích củng cố năng lực, tính
độc lập và trung lập của cơ quan tòa án là nhân tố quan trọng trong tiến trình xây
dựng nhà nước pháp quyền. Trong nhiệm kỳ 3, chính phủ Hoàng gia đã ban
hành 140 đạo luật trong đó có 3 Bộ luật chính: Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật
Tố tụng Dân sự, Bộ luật Dân sự [22, tr.25]. Chính phủ đã tập trung vào cải cách
bộ máy tư pháp, bằng cách củng cố năng lực và tính trách nhiệm của thẩm phán.
Phương thức kỷ luật đã lần lượt được Hội đồng Tòa án tối cao thực thi, đồng
thời, thẩm quyền và trách nhiệm đối với nghề nghiệp của thẩm phán đã được
củng cố thông qua các chương trình đào tạo ngắn và dài hạn và cho ra đời Quy
chế làm việc của thẩm phán và công tố viên. Chính phủ cũng đã thành lập những
trung tâm dịch vụ pháp lý tại một số quận, huyện nhằm thể chế hóa cơ chế giải
quyết tranh chấp bên ngoài tòa án để giảm bớt gánh nặng cho tòa án. Chính phủ
sẽ tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách pháp luật và hệ thống tư pháp nhằm đạt
7 mục tiêu chiến lược. Chính phủ cũng tập trung nhiều hơn nữa để ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_cuoc_dau_tranh_bao_ve_doc_lap_dan_toc_cua_vuong_quoc_campuchia_tu_nam_1993_den_nam_2013_1374_1917.pdf