LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN . ii
MỤC LỤC . iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT . vi
DANH MỤC BẢNG . viii
DANH MỤC HÌNH . x
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ DÂN TRÍ TÀI CHÍNH. 7
1.1. Các nghiên cứu về tài chính hành vi . 7
1.2. Nhóm nghiên cứu về tài chính vi mô . 10
1.3. Nhóm nghiên cứu về dân trí tài chính . 15
1.3.1. Nhóm nghiên cứu về nhân tố tác động đến dân trí tài chính . 15
1.3.2. Nhóm quan điểm về tác động của dân trí tài chính lên thu nhập . 19
1.4. Khoảng trống nghiên cứu . 20
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN TRÍ TÀI CHÍNH CỦA NGƯỜI NGHÈO
KHU VỰC NÔNG THÔN .23
2.1. Khái quát về người nghèo khu vực nông thôn . 23
2.1.1. Khái quát về khu vực nông thôn . 23
2.1.2. Người nghèo khu vực nông thôn . 24
2.2. Dân trí tài chính của người nghèo khu vực nông thôn . 25
2.2.1. Khái niệm Dân trí tài chính của người nghèo khu vực nông thôn . 25
2.2.2. Nội dung dân trí tài chính của người nghèo khu vực nông thôn . 29
2.2.3. Các phương pháp đo lường dân trí tài chính . 33
2.3. Vai trò của dân trí tài chính . 38
2.3.1. Đối với tổng thể nền kinh tế . 38
2.3.2. Đối với các đối tượng của nền kinh tế. 40
2.3.3. Đối với thu nhập của người nghèo tại khu vực nông thôn . 41
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến dân trí tài chính. 46
2.4.1. Trình độ học vấn . 47
2.4.2. Thu nhập . 47
2.4.3. Việc làm . 49
2.4.4. Tuổi tác . 49
2.4.5. Giới tính . 51
2.4.6. Chủng tộc và tôn giáo . 52
197 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dân trí tài chính của người nghèo tại khu vực nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chen và Volpe (1998); Banks và Oldfield (2007); Lusardi (2008); Lusardi và
Mitchell (2017) và Scheresberg (2013) đều cho rằng phụ nữ nữ giới ít tự tin hơn nam
giới về các kiến thức tài chính.
Tuy nhiên, Bucher-Koenen và Lusardi (2011) đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt
quá rõ ràng giữa nam và nữ khi cùng đo lường về DTTC. Đây cũng là kết quả của các
nghiên cứu Bhushan và Medury (2013); Nanziri và Leibbrandt (2018).
Như vậy, giới tính là một nhân tố tác động lên DTTC đã được phát hiện trong một
số nghiên cứu trước đây. Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả đề xuất giả thuyết
H8: Giới tính có tác động lên DTTC
• Chủng tộc và tôn giáo
Tác động của chủng tộc lên DTTC đã được phát hiện và đo lường trong các nghiên
cứu trên thế giới như Zhan (2006), Scheresberg (2013), (Mottola, 2013), Nanziri và
Leibbrandt (2018). Nghiên cứu Scheresberg (2013) chia mẫu thành 5 nhóm người bao
63
gồm: người da trắng, người châu Mỹ gốc Phi, người Tây Ban Nha, người châu Mỹ gốc
Á và những quốc gia khác. Đánh giá thông qua khả năng vay mượn lãi suất cao, tiết
kiệm cho việc nguy cấp trong tương lai và lập kế hoạch nghỉ hưu, kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng nhóm người Mỹ gốc Á các chỉ số liên quan đến hành vi mang hướng tích
cực cao nhất trong khi nhóm người châu Mỹ gốc Phi lại mang hướng tiêu cực hơn.
Như vậy, yếu tố chủng tộc là một trong những nhân tố ảnh hưởng lên DTTC. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào khu vực nghiên cứu, việc phân loại và kết quả tác động của chủng
tộc lên DTTC chưa có sự thống nhất. Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả đề xuất
H9: Chủng tộc và tôn giáo có tác động lên DTTC
3.2.3 Tác động của dân trí tài chính lên thu nhập
Các nghiên cứu về vốn con người, về mô hình tăng trưởng nội sinh đều đề cập rằng
học vấn nói chung có tác động lên thu nhập. Lucas (1988), Fisher và Hostland (2002),
Lusardi và Mitchell (2011d), Stango và Zinman (2009), Lusardi và Tufano (2015),
Lusardi và Mitchell (2014) đã lần lượt chỉ ra kiến thức, thái độ, hành vi – các nhân tố
phản ánh DTTC đều có tác động tích cực tới thu nhập cá nhân. Trong phạm vi nghiên
cứu, tác giả đề xuất giả thuyết
H10: DTTC có tác động lên thu nhập
Tổng hợp từ những giả thuyết trên, tác giả đề xuất mô hình:
Hình 3.3. Mô hình nghiên cứu sơ bộ
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
64
3.3. Nghiên cứu sơ bộ
Theo Nguyễn Đình Thọ (2013); Nguyễn Văn Thắng (2014); Yin (2015) trước khi
nghiên cứu chính thức (đối với các nghiên cứu dùng dữ liệu sơ cấp) cần phải thực hiện
nghiên cứu tại một tỉnh nào đó riêng biệt và đủ tính phổ quát, sau đó mới tiến hành ở địa
điểm khác để chọn mẫu để bài nghiên cứu có thể mang tính khách quan nhất. Vì vậy
Thái Bình là nơi tác giả lựa chọn để thực hiện nghiên cứu sơ bộ. Các dữ liệu thu thập
được sẽ được sử dụng để đánh giá độ tin cậy và điều chỉnh thang đo trước khi tiến hành
nghiên cứu chính thức. Giai đoạn này giúp cho nghiên cứu đạt được hiệu quả cao hơn
và giảm thiểu những sai sót trong quá trình điều tra chính thức.
Nghiên cứu sơ bộ gồm hai bước là nghiên cứu định tính sơ bộ và nghiên cứu định
lượng thử nghiệm. Phương pháp nghiên cứu định tính dùng để xác định cách đo lường
biến phụ thuộc, khám phá các biến độc lập và bổ sung thêm các biến quan sát để điều
chỉnh lại mô hình lý thuyết, xác định mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ
thuộc, kiểm định độ phù hợp của mô hình trên thị trường Việt Nam, đồng thời thiết kế
bảng hỏi cho nghiên cứu định lượng thử nghiệm.
Nghiên cứu định tính sơ bộ được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn sâu với
một số chuyên gia trong lĩnh vực Tài chính, tài chính cá nhân và tài chính vi mô theo
nội dung được chuẩn bị trước.
Nghiên cứu định lượng thử nghiệm được thực hiện thông qua phương pháp khảo
sát với 154 quan sát tại tỉnh Thái Bình. Thái Bình là một trong những tỉnh có sản lượng
nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo đứng đầu cả nước. Dân số trung bình toàn tỉnh khoảng
1.789,9 nghìn người, trong đó tỷ lệ dân số nông thôn chiếm 89,52%, chiếm hơn 8,64%
so với dân số vùng đồng bằng sông Hồng và khoảng 1,97% so với dân số cả nước; trong
đó nữ chiếm 51,67%, nam chiếm 48,33%, chủ yếu là dân tộc Kinh (Cục thống kê tỉnh
Thái Bình, 2018). Bên cạnh đó, đời sống vật chất, tinh thần của người trong khu vực
nông thôn của tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp, tỷ
lệ đói nghèo cao tỷ lệ bình quân cả nước. Thái Bình cũng là một trong những tỉnh đi đầu
trong xây dựng nông thôn mới, dự kiến hết năm 2018, toàn tỉnh có 234 xã (bằng 88%)
và 1/7 huyện được công nhận đạt chuẩn quốc gia nông thôn mới; 100% xã, phường, thị
trấn có nước sạch phục vụ nhân dân. Vì là một tỉnh có đa phần dân số sống tại nông
thôn, và là một trong những khu vực đại diện cho phát triển nông thôn mới Việt Nam
trong giai đoạn 2010 – 2020 nên tác giả chọn tỉnh Thái Bình, chủ đích để làm không
gian nghiên cứu cho đề tài, từ đó có thể đo lường DTTC tại khu vực nông thôn Việt
Nam trong bối cảnh nền kinh tế hiện tại.
65
3.3.1. Nghiên cứu định tính sơ bộ
Nghiên cứu định tính sơ bộ nhằm xác định lại các vấn đề thuộc quy luật khách
quan, và khai phá mới. Do đó, nghiên cứu định tính được xác định bằng hình thức phỏng
vấn sâu các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực DTTC, Tài chính cá nhân, tài chính
vi mô và các lĩnh vực chung thuộc khối kiến thức Tài chính - Ngân hàng.
a. Mục tiêu phỏng vấn sâu
Hiệu chỉnh, bổ sung nội dung bảng hỏi và thang đo các biến trong nghiên cứu định
lượng. Do đề tài này còn mới mẻ và chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam, nên
thang đo từ các nghiên cứu trước đây cần phải được hiệu chỉnh lại để phù hợp với đặc
điểm về kiến thức, hành vi, thái độ của người dân, đặc biệt là vùng nông thôn Việt Nam
trước khi tiến hành nghiên cứu định lượng.
Chọn lọc những biến độc lập ảnh hưởng đến DTTC của cá nhân được dựa trên
tổng quan và cơ sở lý thuyết.
Xác định mối quan hệ giữa các nhân tố phản ánh, các nhân tố độc lập tác động lên
DTTC và xây dựng mô hình đề xuất nghiên cứu.
Chỉnh sửa câu chữ, nội dung bảng hỏi để từ ngữ, cấu trúc, ý nghĩa dễ hiểu để người
đọc có thể hiểu và dễ trả lời.
b. Đối tượng phỏng vấn sâu
Theo Hair và cộng sự (2016) thì phỏng vấn sâu phải được lựa chọn dựa trên các
chuyên gia trong ngành, bao gồm cả chuyên sâu và thực tiễn. Mỗi nhóm chuyên gia
(hoặc chuyên sâu hoặc thực tiễn cần có khoảng từ 3 người trở lên). Do đó, tác giả lựa
chọn 8 chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, bao gồm:
PGS. TS Lê Thanh Tâm, chuyên gia tài chính vi mô và tài chính toàn diện, Đại
học Kinh tế Quốc dân;
PGS. TS. Ngô Văn Thứ, chuyên gia định lượng, Đại học Kinh tế Quốc dân;
TS. Nguyễn Đăng Tuệ, chuyên gia tài chính cá nhân, Đại học Bách khoa Hà Nội;
TS. Phạm Bích Liên, chuyên gia tài chính, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu
Điện Liên Việt;
TS. Bùi Kiên Trung, chuyên gia giáo dục, Đại học Kinh tế Quốc dân;
TS. Nguyễn Đức Hải, chuyên gia tài chính vi mô, Học viện Ngân hàng;
TS. Đinh Thị Thanh Vân, chuyên gia Tài chính Cá nhân và Dân trí Tài chính, Đại
học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội;
66
ThS Phan Cử Nhân, chuyên gia tài chính vi mô, Ngân hàng Chính sách Xã hội
Việt Nam.
Nội dung phỏng vấn sâu bao gồm các câu hỏi mở về các nhân tố nhân khẩu học
tác động lên DTTC tại Việt Nam; đo lường DTTC thông qua kiến thức tài chính, thái
độ tài chính và hành vi tài chính; đo lường thu nhập và ảnh hưởng của DTTC lên thu
nhập tại Việt Nam; ý kiến về mô hình đề xuất và giả thiết nghiên cứu, độ phù hợp của
mô hình tại Việt Nam (chi tiết xem tại phụ lục 2).
c. Kết quả nghiên cứu định tính sơ bộ
Sau khi phỏng vấn sâu các chuyên gia trong ngành, các kết quả sau được rút ra từ
quá trình khảo sát cho thấy rằng:
• Về các nhân tố ảnh hưởng
Tại Việt Nam, các vấn đề liên quan đến đến chủng tộc và tôn giáo thường khó có
tác động rõ ràng, bởi tại Việt Nam, các tôn giáo sống hòa bình với nhau, và không có sự
khác biệt trong việc giáo dục cũng như chi tiêu của các nhóm tôn giáo. Có thể với dấu
ấn lịch sử để lại nên người Việt thường không quá quan tâm đến các vấn đề về tôn giáo.
Nhóm nhân tố có liên quan đến Phật giáo thường không rõ ràng, không nên đưa vào mô
hình. Ngoài ra, với đa phần người dân Việt Nam là người Việt nên nhân tố nhân chủng
sẽ khó có thể đạt được khi lựa chọn mẫu. Đây là nhân tố thứ hai không nên đưa vào mô
hình. Như vậy, những nhân tố nhân khẩu học bao gồm: giới tính, tuổi tác, trình độc học
vấn, việc làm, thu nhập.
Vì DTTC được bao hàm bởi 3 nhóm chính là thái độ tài chính, hành vi tài chính
và kiến thức tài chính thì phải có tác động của kiến thức tài chính tới thái độ tài chính
và hành vi tài chính. Đồng thời, 3 nhóm nhân tố này tác động chung đến DTTC.
• Về các vấn đề thuộc bảng hỏi
Bảng hỏi được nghiên cứu tại vùng nông thôn Việt Nam, và liên quan đến người
nghèo nên sẽ có một số vấn đề khác có ảnh hưởng bởi hộ nghèo: có thể một cá nhân
trong gia đình không nghèo (do có thu nhập cao), nhưng số người phụ thuộc lớn, nên
bảng hỏi cần nêu ra những vấn đề như sau:
Thứ nhất, về các lĩnh vực hoạt động của cá nhân được phỏng vấn tại vùng nông
thôn nên chia thành 9 lĩnh vực sau để đảm bảo tính bao quát của các ngành nghề:
(1) Lĩnh vực Quản lý hành chính
(2) Lĩnh vực Công nghiệp
67
(3) Lĩnh vực Nông nghiệp
(4) Lĩnh vực Kỹ thuật
(5) Lĩnh vực Nghiên cứu khoa học và công nghệ
(6) Lĩnh vực Đào tạo
(7) Lĩnh vực Y tế
(8) Lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng
(9) Lĩnh vực khác
Thứ hai, do phạm vi của bài viết là vùng nông thôn – và mặc dù đã có chính sách
phổ cập giáo dục trung học cở sở - nhưng tuổi của người phỏng vấn không giới hạn nên
tác giả nên chia thành 6 mức độ (như dưới đây):
(1) Dưới tiểu học
(2) Tiểu học/ Trung học cơ sở
(3) Trung học phổ thông
(4) Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
(5) Cao đẳng và đại học
(6) Trên đại học
Thứ ba, về tuổi của người được hỏi: do tính chất tâm lý nên người thuộc vùng nông
thôn, nhất là người lớn tuổi thường tính thêm 1 tuổi (tuổi âm hoặc tuổi mụ theo quan
điểm riêng có của người Việt Nam). Tác giả nên chú thích rằng tuổi ở đây được tính
theo năm dương lịch.
Thứ tư, về thu nhập: nên căn cứ tính thu nhập dựa vào bảng khảo sát về hộ gia đình
của Tổng cục Thống kê để có thể bao quát hết các vấn đề. Ngoài ra, để tiện đối chiếu thì
nên so sánh chi tiêu của vùng nông thôn để biết được cụ thể hơn thu nhập. Cuối cùng là
cần điều tra số người lao động, số người phụ thuộc để thấy được thu nhập bình quan của
hộ gia đình bằng cách tính: mỗi người phụ thuộc (chưa đến 18 tuổi – và trên 60 tuổi nếu
không có lương) sẽ có trọng số bằng ½ người thuộc độ tuổi lao động.
Thứ năm, về bảng hỏi: tác giả sử dụng bảng hỏi của OECD (2015) để đo lường.
Tuy nhiên, vì tác giả muốn bao hàm 2 vấn đề (1) Đo lường DTTC của người nghèo khu
vực nông thôn và (2) đánh giá các nhân tố tác động lên các vấn đề khác nhau. Do đó,
với các câu hỏi thuộc kiến thức tài chính, tác giả nên hiệu chỉnh trở thành thang đo Likert
5 cấp độ, sau đó vẫn giữ nguyên ý tưởng của câu hỏi.
68
Thứ sáu, về cách đo lường DTTC: Sau khi kiểm định thang đo của các nhân tố phản
ánh (Kiến thức tài chính, Thái độ tài chính, Hành vi tài chính), DTTC sẽ được tính bằng
cách lấy trung bình điểm số của các biến quan sát có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
3.3.2. Nghiên cứu định lượng thử nghiệm
a. Bảng hỏi
Dựa vào quá trình nghiên cứu tổng quan, mục tiêu nghiên cứu, mô hình nghiên
cứu và kết quả phỏng vấn sâu sơ bộ, tác giả tiến hành phác thảo một bảng hỏi. Bảng hỏi
được thiết kế dựa vào các nghiên cứu nước ngoài được dịch ra tiếng Việt, sau đó hiệu
chỉnh cho phù hợp với Việt Nam.
- Bảng hỏi khảo sát đối tượng gồm 2 phần chính:
Phần 1: Thông tin chung bao gồm thông tin cá nhân như: giới tính, tuổi, trình độ
học vấn, việc làm, số năm kinh nghiệm, thu nhập và việc tiếp cận với các ứng dụng
thanh toán điện tử hiện đại.
Phần 2: Những câu hỏi đo lường DTTC của cá nhân bằng cách đo lường thái độ
tài chính, hành vi tài chính thông qua thang đo Likert 5 mức độ với 14 biến quan sát (1
-hoàn toàn không đồng ý; 2 - không đồng ý; 3 - bình thường; 4 - đồng ý; 5 - hoàn toàn
đồng ý); đo lường kiến thức tài chính thông qua thang đo Likert 5 mức độ với 7 biến.
Thông tin thu thập từ nghiên cứu định lượng này sẽ được phân tích trên phần mềm SPSS
22 và AMOS 20.
- Đối tượng khảo sát:
Đối tượng được chọn để tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 18 trở lên, thuộc đối
tượng là hộ nghèo, và thỏa mãn điều kiện về thời gian: (1) tổng thời gian sống tại tỉnh
Thái Bình phải bằng ít nhất ½ số tuổi và (2) hàng năm, thời gian sinh sống trong tỉnh
phải ít nhất 6 tháng (không cần liên tục).
- Thu thập dữ liệu:
Nghiên cứu tiến thành thu thập dữ liệu với kích thước mẫu là 250 quan sát. Phương
pháp thu thập dữ liệu bằng bảng hỏi là điều tra trực tiếp bằng cách phát phiếu khảo sát
và thu lại ngay sau khi đối tượng nghiên cứu trả lời xong. Khi thu bảng hỏi, có một số
bảng hỏi không có giá trị do không trả lời hết hoặc chọn tất cả câu hỏi cùng một phương
án, hoặc không trả lời hết các câu hỏi (với 96 bảng hỏi). Do vậy, số quan sát có ý nghĩa
là 154. Mỗi câu hỏi được đo lường dựa trên thang đo Likert 5 điểm. Cuộc khảo sát được
thực hiện trong tháng 03/2019. Mọi dữ liệu thu thập được sẽ được sàng lọc và phân tích
trên phần mềm SPSS 22 và AMOS 20.
69
- Chỉnh sửa:
Trên cơ sở bảng hỏi đã được xây dựng và hiệu chỉnh sau khi phỏng vấn sâu, để
đảm bảo các câu hỏi rõ ràng, tác giả tiến hành thử nghiệm đối với một nhóm khoảng 30
đối tượng đến từ nhiều tỉnh thành khác nhau như: Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa,
Gia Lai... Tác giả cho nhóm đối tượng trên thử trả lời bảng hỏi, sau đó thảo luận với
nhau về các nội dung trong bảng hỏi và ghi nhận lại kết quả từ buổi thảo luận đó. Dựa
trên kết quả của các cuộc thảo luận, tác giả cân nhắc và điều chỉnh, diễn giải lại nội dung
của một số câu hỏi chưa rõ ràng, đảm bảo không có sự hiểu lầm về ngôn ngữ, nội dung
câu hỏi (chi tiết xem tại phụ lục 3).
b. Thang đo
Thang đo được tác giả xây dựng dựa trên các câu hỏi mang tính khảo sát thực tế
về kiến thức tài chính, thái độ tài chính và hành vi tài chính của người nghèo tại vùng
nông thôn Việt Nam. Nội dung các câu hỏi được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế
thừa có chọn lọc những câu hỏi được sử dụng trong các công trình nghiên cứu trước đây
ở trên thế giới. Tuy nhiên, để phù hợp hơn với tình hình thực tế của Việt Nam, các câu
hỏi này đã được dịch thuật và hiệu chỉnh lại để phù hợp và dễ hiểu hơn. Sau nghiên cứu
định tính sơ bộ, các nhân tố và thang đo mã hóa được xác định như sau:
Thang đo Kiến thức tài chính (ký hiệu K): đo lường sự hiểu biết của một cá
nhân về những kiến thức về lí thuyết và thực tiễn cần thiết để có thể đưa ra quyết định
tài chính một cách hiệu quả. Nhân tố Kiến thức tài chính được đo lường bởi 7 biến quan
sát với thang đo Likert 5 điểm từ (1) Hoàn toàn không đồng ý đến (5) Hoàn toàn đồng
ý. Thang đo này dược xây dựng và hiệu chỉnh dựa trên nghiên cứu của OECD (2013)
và OECD (2015).
Bảng 3.1. Thang đo Kiến thức tài chính
Khái niệm nghiên cứu Thang đo Mã hóa
Kiến thức tài chính –
Financial Knowledge
(K)
Định nghĩa lạm phát. K1
Tính toán lãi suất đi vay. K2
Tính toán lãi suất gửi tiền ngân hàng. K3
Tính toán lãi suất đơn. K4
Tính toán lãi suất trong trường hợp có lạm phát. K5
Đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro. K6
Chi phí cơ hội. K7
Nguồn: OECD (2013) và OECD (2015)
70
Thang đo Thái độ tài chính (ký hiệu A): đánh giá suy nghĩ hay niềm tin tích cực
của một cá nhân về những vấn đề, lĩnh vực tài chính, từ đó ảnh hưởng tới các hành vi
và việc đưa ra quyết định của cá nhân đó. Nhân tố Thái độ tài chính được đo lường bởi
5 biến quan sát với thang đo Likert 5 điểm từ (1) Hoàn toàn không đồng ý đến (5) Hoàn
toàn đồng ý. Thang đo này dược xây dựng và hiệu chỉnh dựa trên nghiên cứu của OECD
(2013) và OECD (2015).
Bảng 3.2. Thang đo Thái độ tài chính
Khái niệm nghiên cứu Thang đo
Mã
hóa
Thái độ tài chính –
Financial Attitude (A)
Tiết kiệm là việc trong khả năng của tôi. A1
Tôi phải dùng đa phần số tiền mà tôi có vào việc
mua hàng hóa, đồ ăn cho gia đình.
A2
Tôi rất dễ dàng lên kế hoạch chi tiêu cho bản
thân.
A3
Tôi sẵn sàng chi tiền cho những hàng hóa hay
công việc quan trọng với tôi.
A4
Kể cả khi không tiết kiệm được thì tôi cũng thấy
rằng việc chi tiêu hiện tại là phù hợp.
A5
Nguồn: OECD (2013) và OECD (2015)
Thang đo Hành vi tài chính (ký hiệu B): những tác động tích cực của cá nhân
đối với sự biến động của nền kinh tế xung quanh. Thông qua các phản ứng của chủ thể
đối với nền kinh tế, chúng ta có thể nhận ra được độ nhạy cảm của chủ thể đối với nền
kinh tế khi có sự thay đổi. Hành vi tài chính được đo lường bởi 9 biến quan sát với thang
đo Likert 5 điểm từ (1) Hoàn toàn không đồng ý đến (5) Hoàn toàn đồng ý. Thang đo này
dược xây dựng và hiệu chỉnh dựa trên nghiên cứu của OECD (2013) và OECD (2015).
Bảng 3.3. Thang đo Hành vi tài chính
Khái niệm nghiên cứu Thang đo
Mã
hóa
Tôi thường so sánh giá cả khi mua hàng. B1
Tôi sẽ để lại 1 phần tiền kiếm được hàng tháng
cho nhu cầu cấp bách trong tương lai.
B2
71
Hành vi tài chính –
Financial Behavior
(B)
Tôi có những kế hoạch chi tiêu và lên kế hoạch
cất giữ tiền trong nhà.
B3
Tôi có khả năng xác định tổng tiền mà tôi phải
trả nếu mua chịu hàng hóa.
B4
Tôi thường quyết định tiêu tiền dựa trên các dự
định từ trước, như ma chay, cưới hỏi, các khoản
đóng góp hoặc mua bán hàng hóa.
B5
Hiếm khi tôi phải đi vay tiền để mua hàng hóa
hay đóng góp.
B6
Tôi thường để dành tiền cho những khoản chi
tiêu hoặc phải đóng góp, phải trả trong thời gian
trên 1 năm như tiền ăn học của con cái, tiền trả
nợ
B7
Khi kiếm được nhiều tiền hơn thì tôi cũng để
dành nhiều tiền hơn.
B8
Trước khi mua sắm hay đóng góp một khoản gì
đó, tôi thường kiểm tra xem mình có khả năng
trả hay không.
B9
Nguồn: OECD (2013) và OECD (2015)
c. Đánh giá thang đo
Dữ liệu từ các phiếu khảo sát này được tiến hành các bước phân tích, đánh giá về
độ tin cậy và tính hội tụ của các thang đo thông qua việc sử dụng các công cụ phân tích
dữ liệu của phần mềm SPSS 22. Phân tích, đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua
hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, giá trị phân biệt thông qua phương pháp phân tích nhân
tố khám phá EFA.
• Cronbach’s Alpha
Theo Hair và cộng sự (2016) đã chỉ ra rằng với hệ số Cronbach’s Alpha nếu nằm
trong khoảng [0.7;0.8] có nghĩa là thang đo sử dụng tốt còn với hệ số α ≥ 0.60 thì thang
đo lường đủ điều kiện để sử dụng (có thể chấp nhận được về độ tin cậy). Ngoài ra, cũng
cần chú ý đến giá trị của cột Cronbach's Alpha if Item Deleted, cột này biểu diễn hệ số
Cronbach's Alpha nếu loại biến đang xem xét. Thông thường, nếu giá trị Cronbach's
Alpha if Item Deleted lớn hơn hệ số Cronbach Alpha và hệ số tương quan biến tổng nhỏ
hơn 0.3 thì sẽ loại biến quan sát đang xem xét để tăng độ tin cậy của thang đo. Nhận
72
định này cũng tương đồng với quan điểm của Nunnally (1978), khi cho rằng nếu một
biến đo lường có hệ số tương quan biến tổng ≥ 0.3 thì biến đó đạt yêu cầu.
° Thang đo Kiến thức tài chính
Bảng 3.4. Kết quả độ tin cậy thang đo Kiến thức tài chính
Thang đo
Mã thành
phần bảng
đo
Tương quan
biến tổng
Cronbach’s
Alpha nếu loại
biến
Cronbach’s
Alpha tổng
Kiến thức
tài chính –
Financial
Knowledge
K1 .487 .651
.705
K2 .317 .696
K3 .593 .616
K4 .081 .757
K5 .623 .626
K6 .517 .645
K7 .383 .681
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPSS 22
- Biến K4 có hệ số tương quan biến tổng là 0.081 < 0.3 và nếu loại biến K1 thì
Cronbach’s Alpha tổng tăng từ 0.705 lên 0.757.
Nên loại biến K4 ra khỏi thang đo để tăng độ tin cậy.
Sau khi loại K4, kết quả phân tích đánh giá độ tin cậy của thang đo Kiến thức tài
chính như sau:
Bảng 3.5. Kết quả độ tin cậy thang đo Kiến thức tài chính sau khi xóa K4
Thang đo
Mã thành
phần bảng
đo
Tương quan
biến tổng
Cronbach’s
Alpha nếu loại
biến
Cronbach’s
Alpha tổng
Kiến thức
tài chính –
Financial
Knowledge
K1 .543 .709
.757
K2 .300 .774
K3 .615 .686
K5 .638 .690
K6 .505 .719
K7 .435 .738
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPSS 22
Thang đo Kiến thức tài chính sau khi bỏ biến K4 có hệ số Cronbach’s Alpha là
73
0.725 và các hệ số tương quan biến tổng đều lớn hơn 0.3. Thang đo Thái độ tài chính
đạt yêu cầu để thực hiện các phân tích tiếp theo.
° Thang đo Thái độ tài chính
Bảng 3.6. Kết quả độ tin cậy thang đo Thái độ tài chính
Thang đo
Mã thành
phần bảng đo
Tương quan
biến tổng
Cronbach’s
Alpha nếu loại
biến
Cronbach’s
Alpha tổng
Thái độ
tài chính –
Financial
Attitude
A1 .461 .687
.725
A2 .637 .624
A3 .460 .688
A4 .371 .729
A5 .529 .660
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPSS 22
Thang đo Thái độ tài chính có hệ số Cronbach’s Alpha là 0.725 và các hệ số tương
quan biến tổng đều lớn hơn 0.3. Thang đo Thái độ tài chính đạt yêu cầu để thực hiện các
phân tích tiếp theo.
° Thang đo Hành vi tài chính
Bảng 3.7. Kết quả độ tin cậy thang đo Hành vi tài chính
Thang đo
Mã thành
phần bảng đo
Tương quan
biến tổng
Cronbach’s
Alpha nếu loại
biến
Cronbach’s
Alpha tổng
Hành vi
tài chính –
Financial
Behavior
B1 .564 .835
.850
B2 .662 .825
B3 .387 .854
B4 .590 .833
B5 .634 .828
B6 .484 .844
B7 .611 .830
B8 .617 .830
B9 .593 .833
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPSS 22
74
Thang đo Hành vi tài chính có hệ số Cronbach’s Alpha là 0.850 và các hệ số tương
quan biến tổng đều lớn hơn 0.3. Thang đo hành vi tài chính đạt yêu cầu để thực hiện các
phân tích tiếp theo.
• Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Kiểm định giá trị của thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố EFA. Theo
Hair và cộng sự (2016) thì Factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số nhân tố) là chỉ
tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA:
- Factor Loading ở mức ± 0.3: Điều kiện tối thiểu để biến quan sát được giữ lại.
- Factor Loading ở mức mức ± 0.5: Biến quan sát có ý nghĩa thống kê tốt.
- Factor Loading ở mức ± 0.7: Biến quan sát có ý nghĩa thống kê rất tốt.
- 0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-Olkin)
Trong phạm vi nghiên cứu sơ bộ, với kích thước mẫu là 154, tác giả sẽ sử dụng hệ
số tải 0.5 làm mức tiêu chuẩn vì vậy biến B3 có hệ số tải là 0.478 < 0.5 sẽ bị loại khỏi
mô hình.
Bảng 3.8. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA
Biến quan sát Nhân tố (Component) 1 2 3 4 5
B2 .753
B5 .737
B8 .721
B7 .710
B9 .704
B4 .692
B1 .683
B6 .596
B3 .478
K1 .869
K3 .831
K5 .774
K6 .849
K2 .730
A3 .664
K7 .637
A5 .965
A2 .943
A4 .857
A1 .627
Eigenvalues 4.239 3.844 1.768 1.534 1.162
Phương sai
trích 21.195 40.416 49.255 56.928 62.739
KMO= .728
Sig.= .000
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPSS 22
75
Để chọn số lượng nhân tố, ba phương pháp thường được sử dụng là tiêu chí
Eigenvalue, tiêu chí điểm uốn, xác định trước số lượng nhân tố. Trong nghiên cứu này
tác giả chọn tiêu chí eigenvalue. Với tiêu chí này, số lượng nhân tố được xác định ở
nhân tố có eigenvalue tối thiểu bằng 1 (≥1) (Hair và cộng sự, 2016).
Bảng 3.9. Tổng hợp các nhân tố sau khi phân tích EFA
STT Nhân tố Diễn giải biến Biến
1
Nhân tố 1:
B1, B2, B4,
B5, B6, B7,
B8, B9
Tôi thường so sánh giá cả khi mua hàng. B1
2 Tôi sẽ để lại 1 phần tiền kiếm được hàng tháng cho nhu
cầu cấp bách trong tương lai. B2
3 Tôi có khả năng xác định tổng tiền mà tôi phải trả nếu
mua chịu hàng hóa. B4
4
Tôi thường quyết định tiêu tiền dựa trên các dự định từ
trước, như ma chay, cưới hỏi, các khoản đóng góp hoặc
mua bán hàng hóa.
B5
5 Hiếm khi tôi phải đi vay tiền để mua hàng hóa hay
đóng góp. B6
6
Tôi thường để dành tiền cho những khoản chi tiêu hoặc
phải đóng góp, phải trả trong thời gian trên 1 năm như
tiền ăn học của con cái, tiền trả nợ
B7
7
Khi kiếm được nhiều tiền hơn thì tôi cũng để dành
nhiều tiền hơn. B8
8 Trước khi mua sắm hay đóng góp một khoản gì đó, tôi
thường kiểm tra xem mình có khả năng trả hay không. B9
9
Nhân tố 2:
K1, K3, K5
Định nghĩa lạm phát. K1
10 Tính toán lãi suất gửi tiền ngân hàng. K3
11 Tính toán lãi suất trong trường hợp có lạm phát. K5
12
Nhân tố 3:
K6, K2, A3,
K7
Đa dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro. K6
13 Tính toán lãi suất đi vay. K2
14 Tôi thấy việc chi tiêu theo kế hoạch rất dễ dàng. A3
15 Chi phí cơ hội. K7
16
Nhân tố 4:
A5, A2
Kể cả khi không tiết kiệm được thì tôi cũng thấy rằng
việc chi tiêu hiện tại là phù hợp. A5
17 Tôi phải dùng đa phần số tiền mà tôi có vào việc mua hàng hóa, đồ ăn cho gia đình. A2
18 Nhân tố 5: –
A4, A1
Tôi sẵn sàng chi tiền cho những hàng hóa hay công
việc quan trọng với tôi. A4
19 Tiết kiệm là việc trong khả năng của tôi A1
Nguồn: Kết quả tính toán từ SPS
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dan_tri_tai_chinh_cua_nguoi_ngheo_tai_khu_vuc_nong_t.pdf