MỞ ĐẦU.1
1.Tính cấp thiết của đề tài . 1
2. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. 3
3. Cơ sở lý thuyết tiếp cận. 5
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu . 6
5. Khung phân tích của đề tài. 9
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án. 11
7. Cấu trúc của đề tài:. 11
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu nước ngoài.12
1.1.1. Nghèo và các chiều cạnh của nghèo nói chung.12
1.1.2. Các vấn đề của nghèo ở đô thị.13
1.1.3. Một số khía cạnh giải pháp nhằm giảm nghèo hiệu quả ở đô thị .15
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước.18
1.2.1. Một số đặc trưng của nghèo đô thị ở Việt Nam.18
1.2.2. Tình trạng nghèo ở một số đô thị của Việt Nam .19
1.2.3. Một số khuyến nghị giảm nghèo bền vững ở đô thị Việt Nam.21
1.3. Một số tổng kết từ nghiên cứu tổng quan.23
Chương 2: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG Ở ĐÔ THỊ .27
2.1. Nghèo và giảm nghèo .27
2.2. Nghèo đô thị.32
2.2.1. Khái niệm và lý thuyết về nghèo đô thị.32
2.2.2. Đặc trưng của nghèo ở đô thị .36
2.3. Giảm nghèo bền vững đô thị .38
2.3.1. Khái niệm.38
197 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải pháp giảm nghèo bền vững tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế hiệu quả, hỗ trợ tiếp cận
bình đẳng và có chất lượng các DVXHCB, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội, khích lệ
người nghèo vươn lên làm ăn chính đáng...
3.3.2.2. Đánh giá về tình trạng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo tiêu chuẩn đo
lường nghèo đa chiều của Hà Nội
Kết quả rà soát bước đầu về NĐC thực hiện cuối năm 2016 của Hà Nội được triển
khai trên hai khu vực thành thị và nông thôn, bao gồm 12 quận (Đống Đa, Hoàn Kiếm,
Ba Đình, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Tây Hồ, Hoàng Mai, Long Biên, Hà Đông, Nam Từ
Liêm, Bắc Từ Liêm và 18 huyện (Sơn Tây, Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì,
Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc
Oai, Thanh Oai, Thạch Thất, Thường Tín, Ứng Hoà, Mê Linh). Đây là bức tranh tổng
thể về tình trạng NĐC của đô thị Hà Nội, là kết quả tiền đề cho công tác điều tra, đánh
giá tiếp theo để đưa ra các giải pháp giảm GNBV ở đô thị Hà Nội trong những giai
đoạn tới.
* Tỷ lệ giảm hộ nghèo và cận nghèo năm 2016
+ Hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo đầu năm 2016 theo chuẩn thu nhập của toàn Hà Nội là 2,49% với
số hộ nghèo tương đương là 44.765 hộ. Tỷ lệ hộ đã thoát nghèo trong năm là 24.622
hộ, tỷ lệ tương đương là 55% và không có hộ tái nghèo trong năm. Mặc dù không có
hộ tái nghèo, nhưng một tỷ lệ rất đáng chú ý đó là hộ nghèo phát sinh trong năm toàn
Hà Nội khá cao 4.072 hộ (khu vực thành thị 249 hộ, khu vực nông thôn 3823 hộ), với
tỷ lệ tương đương là 16, 82% (khu vực thành thị 18.69%, khu vực nông thôn 16,71%)
tính trên tổng số hộ nghèo còn cuối năm là 24.215 hộ. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm của
toàn Hà Nội là 1.29%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực thành thị là 0.17%, ở khu vực
nông thôn là 2.06%, nhưng nếu không phát sinh thêm hộ nghèo thì toàn Hà Nội cuối
năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1.07%. (Phụ lục 2a).
Mặc dù, số tỷ lệ hộ nghèo phát sinh cao nhưng kết quả điều tra không được phân
định rõ phát sinh từ những vấn đề nào của nghèo, tình trạng và mức độ của các hộ
80
nghèo phát sinh, cơ cấu tỷ lệ phát sinh hộ nghèo theo các nhóm vấn đề cũng không
được chỉ ra...Nhìn chung có thể thấy, nếu chỉ đánh giá theo tiêu chí thu nhập thì tỷ lệ
hộ nghèo của Hà Nội cuối năm sẽ tiếp tục giảm với tỷ lệ thấp. Khi áp dụng chuẩn
NĐC mới vào đánh giá nghèo thì số hộ nghèo Hà Nội phát sinh đã tăng vọt vào thời
điểm rà soát. Kết quả thay đổi về tỷ lệ hộ nghèo cho thấy việc đánh giá chất lượng
sống của hộ nghèo càng được bám sát với thực tế và là một bước tiến bộ trong đánh
giá về nghèo. Theo chuẩn đo lường NĐC, người nghèo hiện nay không chỉ là vấn đề
thu nhập. Có thể người nghèo đã vượt qua các mức chuẩn về nghèo thu nhập, nhưng
chất lượng sống toàn diện của người nghèo không đảm bảo, hoặc bị thiếu hụt trên một
số khía cạnh về mặt xã hội chẳng hạn như: tiếp cận với các dịch vụ có chất lượng về
giáo dục, y tế, môi trường sống, tiếng nói trong cộng đồng, an ninh cuộc sống...
+ Hộ cận nghèo
Xem xét diễn biến kết quả giảm hộ cận nghèo của toàn Hà Nội, cho thấy số lượng,
tỷ lệ hộ cận nghèo, thoát cận nghèo bằng khoảng 50% so với số hộ nghèo. Số hộ cận
nghèo đầu năm của Hà Nội là 21.837 hộ, với tỷ lệ tương đương là 1, 22%. Trong năm
có 14.339 hộ cận nghèo đã thoát nghèo (khu vực thành thị có 1.417 hộ, khu vực nông
thôn có 12.922 hộ), với tỷ lệ tương đương là 65.66% (khu vực thành thị 81.62%, khu
vực nông thôn 64.29%). Số hộ phát sinh cận nghèo rất thấp chỉ có 129 hộ trên toàn Hà
Nội và chỉ phát sinh ở khu vực nông thôn, thành thị không phát sinh thêm hộ nào. Số
hộ cận nghèo của toàn Hà Nội cuối năm giảm khoảng 50%, chỉ còn 7.627 hộ cận
nghèo (khu vực thành thị có 319 hộ, khu vực nông thôn 7.308), với tỷ lệ đương đương
là 0.41% (khu vực thành thị 0.04%, khu vực nông thôn 0.66%). Nhìn vào kết quả giảm
hộ cận nghèo cho thấy, tỷ lệ hộ cận nghèo toàn Hà Nội rất thấp và tỷ lệ giảm hộ cận
nghèo khá nhanh vào thời điểm cuối năm. Mặc dù, bị phát sinh hộ cận nghèo vì lý do
thay đổi phương pháp đo lường từ thu nhập sang đo lường đa chiều, nhưng số hộ cận
nghèo phát sinh cũng rất thấp và chỉ tập trung ở khu vực nông thôn, (Phụ lục 2b).
Nhìn vào kết quả tổng thể về GN của Hà Nội năm 2016, cho thấy một bức tranh
GN khá thành công, bởi số hộ nghèo và cận nghèo đến cuối năm đều giảm trên 50%.
Số hộ tái nghèo đều không có. Nếu với tốc độ GN hàng năm như vậy, Hà Nội sẽ nhanh
chóng thực hiện thành công chiến lược GN và luôn là một trong số địa phương dẫn
đầu về công tác GN.Tuy nhiên, đó mới chỉ là những con số có ý nghĩa về mặt thống
kê, đặc biệt, với chuẩn nghèo mới đa chiều áp dụng hiện nay sẽ có ý nghĩa trong việc
phản ánh rõ nét hơn chất lượng trong GNBV, chẳng hạn, tỷ lệ phát sinh nghèo rất cao
khi áp dụng chuẩn NĐC để đo lường. Ngoài ra, kết quả GN của Hà Nội năm 2016
cũng còn một vài điểm đáng lưu ý, tỷ lệ phát sinh hộ nghèo tập trung chủ yếu ở khu
vực nông thôn và có sự chênh lệch rất cao về tỷ lệ nghèo giữa khu vực thành thị và
khu vực nông thôn. Các kết quả này không phản ánh được hết bản chất của nghèo,
nguyên nhân của nghèo, mức độ trầm trọng của nghèo... và cũng cho thấy một tỷ lệ
GN chung chưa bền vững. Chất lượng sống của người nghèo còn thấp, đặc biệt khu vực
81
nông thôn, sự chênh lệch tỷ lệ nghèo cao giữa hai khu vực cũng phản ánh phần nào về sự
bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư trong tiếp cận các nguồn lực và phân phối lợi ích xã
hội. Chính sách GN cần chú trọng nhiều vào các vấn đề này đối với các nhóm dân cư,
giữa các khu vực. Đồng thời cho thấy việc lồng ghép, hay tích hợp hài hòa các mục tiêu
giữa GN với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển đô thị là rất quan
trọng để giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng với GNBV.
* Tình trạng thiếu hụt tiếp cận các DVXHCB khu vực thành thị và nông thôn
Kết quả điều tra 10 chiều thiếu hụt các DVXHCB của hộ nghèo toàn Hà Nội cũng cho
nhiều kết quả đáng lưu ý về sự chênh lệch tiếp cận các DVXHCB và các mức độ thiếu hụt
của hai khu vực thành thị và nông thôn. Nếu so sánh trên con số tuyệt đối về một số thiếu
hụt quan sát được cho là trầm trọng hơn, cho thấy ở khu vực nông thôn có chênh lệch rất
lớn so với khu vực đô thị. Những kết quả chính về tình trạng thiếu hụt của các hộ gia đình
nghèo của khu vực nông, thôn và thành thị như sau:
Bảng 3.12. Số hộ nghèo nông thôn và thành thị thiếu hụt các DVXHCB
TT Tình trạng thiếu hụt Nông thôn
(số hộ)
Thành thị (số
hộ)
1 Bảo hiểm y tế 9514 391
2 Nhà ở có chất lượng 5605 295
3 Hố xí và nhà tiêu hợp vệ sinh 4814 62
4 Sử dụng dịch vụ viễn thông 4615 210
5 Diện tích nhà ở 3731 328
6 Nguồn nước sinh hoạt 2299 06
7 Trình độ giáo dục của người lớn 2116 88
8 Dịch vụ y tế 2107 47
9 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin 1939 106
10 Tình trạng đi học của trẻ em 802 30
Nguồn: Phụ lục 2c
Kết quả điều tra tình trạng thiếu tiếp cận các DVXHCB (bảng 3.12) của các hộ
nghèo cho thấy những chênh lệch lớn không những về tỷ lệ hộ nghèo mà còn thể hiện
những chênh lệch lớn giữa các khu vực, về các tình trạng thiếu hụt giữa các hộ nghèo.
Quan sát tình trạng thiếu hụt các DVXHCB, cho thấy sự chênh lệch rất rõ ràng giữa
khu vực nông thôn và thành thị, với số hộ nghèo lớn, đồng thời còn có những chênh
lệch cao giữa các tình trạng thiếu hụt đối với các hộ nghèo ở khu vực nông thôn.
Những thiếu hụt lớn nhất đối với các hộ nghèo ở nông thôn và thành thị chủ yếu là:
BHYT (nông thôn 41.58%, thành thị 29.32%), tiếp đó là nhà ở có chất lượng (nông
thôn 24.49%, thành thị 22.13%), có hố xí và nhà tiêu hợp vệ sinh (nông thôn 21.04%,
thành thị 4.68%), sử dụng dịch vụ viễn thông (nông thôn 20.17%, thành thị 15.79%),
diện tích nhà ở (nông thôn 16.30%, thành thị 24.58%), các tình trạng thiếu hụt còn lại
thì ở mức thấp hơn. Các thiếu hụt ở mức độ cao nhất đối với một số chỉ báo ở nông
thôn khá tương đồng với thành thị, ngoại trừ thiếu hụt về hố xí nhà tiêu hợp vệ sinh ở
82
thành thị không ở mức độ trầm trọng như ở nông thôn (thành thị 62 hộ và nông thôn
4814 hộ). Tỷ lệ thiếu hụt diện tích nhà ở ở thành thị xếp vào dạng thiếu hụt cao thứ hai
trong 10 thiếu hụt, tuy nhiên, tính trên số lượng hộ nghèo ở thành thị bị thiếu hụt rất
thấp, cao nhất cũng chỉ trên 300 hộ.
Một chỉ báo cho thấy một xu hướng tốt đối với giải pháp thoát nghèo cho thế hệ
tương lai đối với các hộ gia đình nghèo đó là tình trạng đi học của trẻ em. Kết quả này
chứng tỏ người nghèo đã có những nhận thức tốt hơn về vấn đề giáo dục, nâng cao
trình độ cho con em của họ. Cụ thể khu vực nông thôn, đây là một thiếu hụt có số
lượng hộ thấp nhất trong 10 chiều thiếu hụt điều tra (802 hộ), ở khu vực thành thị chỉ
báo này không phải là tỷ lệ thấp nhất, nhưng tính trên số hộ bị thiếu hụt cũng ở mức
rất thấp (30 hộ).
Như vậy, qua những số liệu tổng hợp số hộ nghèo và cận nghèo của nông thôn,
thành thị bị thiếu hụt tiếp cận các DVXHCB theo kết quả điều tra cuối năm 2016 của
Hà Nội, cũng đã cho thấy một số xu hướng chung về chất lượng sống/tình trạng sinh
kế hiện nay của người dân hai khu vực. Các thiếu hụt trầm trọng nhất là những thiếu
hụt liên quan trực tiếp đến sức khỏe và chăm sóc khỏe của các hộ nghèo. Trong khi đó
sức khỏe là vấn đề rất được chú trọng ngay từ những chiến lược chống đói nghèo đầu
tiên. Từ những thiếu hụt này sẽ có có một số câu hỏi được đặt ra. Chẳng hạn đối với
chỉ báo tiếp cận BHYT, chỉ báo này liên quan đến công tác bảo vệ sức khỏe tại sao lại
là thiếu hụt cao nhất đối với hộ nghèo? Do nhận thức người nghèo về sự cần thiết của
BHYT? Do chính sách đáp ứng chưa tới với người dân, hay do người dân thiếu thông
tin về giá trị của BHYT?... Với tình trạng thiếu hụt này các giải pháp đưa ra cần có
tính hai chiều về đảm bảo mặt chính sách của y tế và nhận thức cũng như tiếp cận
thông tin về thẻ BHYT của hộ nghèo để giảm tình trạng thiếu hụt này về mức thấp
nhất. Các thiếu hụt cao tiếp theo như: chất lượng nhà ở, hố xí nhà tiêu hợp vệ sinh,
nguồn nước sinh hoạt, sử dụng dịch vụ viễn thông ở khu vực nông thôn,... diện tích
nhà ở, nhà ở có chất lượng ở khu vực đô thị, đều là những chỉ báo rất quan trọng để
đảm bảo một cuộc sống tốt cho người dân, là những điều kiện căn bản cho người
nghèo ổn định được cuộc sống hàng ngày và tiếp tục có khả năng tham gia cao hơn
vào các hoạt động kinh tế - xã hội khác, tiếp cận được các thông tin của thị trường để
ổn đinh sinh kế... Những thiếu hụt ở nhóm cao nhất này của hai khu vực, cho thấy có
liên quan nhiều đến các chính sách hỗ trợ cho vay tài chính, chính sách quản lý các
DVXHCB, chính sách về an ninh, công tác truyền thông... Vì thế các giải pháp chính
sách GNBV cần chú ý tới các vấn đề này cho người nghèo.
83
Bảng 3.13. Số hộ cận nghèo nông thôn và thành thị bị thiếu hụt các DVXHCB
TT Tình trạng thiếu hụt Nông thôn
(số hộ)
Thành thị (số
hộ)
1 Bảo hiểm y tế 3052 22
2 Nhà ở có chất lượng 1010 15
3 Hố xí và nhà tiêu hợp vệ sinh 771 1
4 Sử dụng dịch vụ viễn thong 850 57
5 Diện tích nhà ở 752 80
6 Nguồn nước sinh hoạt 651 0
7 Trình độ giáo dục của người lớn 487 11
8 Dịch vụ y tế 719 5
9 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin 620 56
10 Tình trạng đi học của trẻ em 215 7
Nguồn: Phụ lục 2d
Số hộ cận NĐC được rà soát tại thời điểm năm 2016 của toàn Hà Nội rất thấp, đặc
biệt ở khu vực thành thị. Các chiều thiếu hụt của các hộ cận nghèo cũng ở mức thấp
hơn nhiều so với hộ nghèo. Đối với khu vực nông thôn, chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là
thiếu hụt về BHYT và nhà ở có chất lượng; Tiếp sau đó là các thiếu hụt ở mức cao hơn
so với các thiếu hụt còn lại lần lượt là: sử dụng dịch vụ viễn thông, hố xí và nhà tiêu
hợp vệ sinh, diện tích nhà ở, dịch vụ y tế, nguồn nước sinh hoạt, tài sản phục vụ tiếp
cận thông tin, trình độ đi học của người lớn và tình trạng đi học của trẻ em. Ở khu vực
đô thị 3 thiếu hụt lớn nhất lần lượt là: diện tích nhà ở, sử dụng dịch vụ viễn thông và
tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Như vậy, xu hướng thiếu hụt của các hộ cận nghèo
cũng khá giống với những thiếu hụt của các hộ nghèo, các thiếu hụt đều là những chỉ
báo liên quan trực tiếp đến sức khỏe và giúp cho người nghèo có thể ổn định được sinh
kế. Tuy nhiên, có một điểm đáng lưu ý về sự thiếu hụt sử dụng dịch vụ viễn thông số
hộ nghèo cũng như cận nghèo ở cả hai khu vực đều ở tỷ lệ khá cao so với các thiếu hụt
còn lại, trong khi đó các dịch vụ này gần như đã được XHH hoàn toàn tới cả các thôn,
làng. Chỉ báo này sẽ giúp cho các hộ nghèo có khả năng theo dõi, cập nhật các vấn đề
về kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, tiếp cận được các thông tin mà người nghèo có
nhu cầu tìm hiểu..., đặc biệt ở các khu vực thành thị cơ hội tiếp cận dịch vụ thông tin là
hoàn toàn thuận lợi. Do số liệu điều tra là tổng hợp chung, vì thế những con số mang
tính thống kê này cũng không có khả năng giải thích được cụ thể vì sao? Hay không
chỉ rõ được ra nhóm đối tượng nào đang bị thiếu hụt về dịch vụ này?...Tuy nhiên, kết
quả trên cũng sẽ gợi ra định hướng giải pháp đối với tình trạng thiếu hụt này.
84
* Tình trạng thiếu hụt các DVXHCB năm 2018 và năm 2019
Bảng 3.14. Số hộ nghèo của Hà Nội bị thiếu hụt tiếp cận DVXHCB
năm 2018 và năm 2019
Tình trạng thiếu hụt các DVXHCB của các hộ nghèo toàn Hà Nội
Năm Tổng
số
hộ
thiếu
hụt
Tiếp
cận
dịch
vụ y
tế
Bảo
hiểm
y tế
Trình
độ
giáo
dục
người
lớn
Tình
trạng
đi học
của
trẻ em
Chất
lượng
nhà ở
Diện
tích
nhà ở
Nguồn
nước
sinh
hoạt
Hổ xí/
nhà
tiêu
hợp vệ
sình
Sử
dụng
dịch
vụ
viễn
thông
Tài
sản
phục
vụ tiếp
cận
thông
tin
2018 11.901 1.059 5.796 1.065 395 2.554 1.864 857 1.638 2.049 1.089
2019 4.112 562 2.381 480 236 1.141 896 416 719 790 487
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2018-2019)
Kết quả rà soát số hộ NĐC trên toàn Hà Nội năm 2018 và 2019 bị thiếu hụt tiếp
cận các DVXHCB theo tiêu chuẩn đo lường NĐC ở bảng (3.14) cho thấy: số hộ chiếm
tỷ lệ cao nhất vẫn là thiếu hụt về BHYT và chất lượng nhà ở, tiếp theo đó vẫn là những
thiếu hụt lần lượt là: sử dụng dịch vụ viễn thông, diện tích nhà ở, hố xí và nhà tiêu hợp vệ
sinh, dịch vụ y tế, tài sản phục vụ tiếp cận thông tin, trình độ đi học của người lớn, nguồn
nước sinh hoạt, và cuối cùng tình trạng đi học của trẻ em với số lượng thấp nhất và là chỉ
báo được cải thiện nhiều hơn so với các chỉ báo khác. So sánh kết quả đánh giá số hộ còn
bị thiếu hụt tiếp cận 10 chỉ báo DVXHCB của năm 2018, 2019 với năm 2016 hầu hết đã
giảm thấp nhất khoảng từ 50 % đến gần 60% số hộ. Mặc dù vậy, đánh giá mức độ thiếu
hụt từ cao nhất cho đến thấp nhất của năm 2018, 2019 so với năm 2016 vẫn tương đồng
nhau, chẳng hạn như thiếu hụt cao nhất vẫn là BHYT và thấp nhất là tình trạng đi học của
trẻ em,... Với kết quả này của năm 2018 và 2019 cho thấy GNBV của đô thị hà Nội đã có
nhiều thành quả tích cực, nhưng để giải quyết tốt độ sâu của nghèo và để GNBV hiệu quả
Hà Nội cần tiếp tục tập trung các giải pháp hữu hiệu giảm sự thiếu hụt về tỷ lệ thấp nhất
có thể, chẳng hạn 100% các hộ nghèo, cận nghèo có BHYT, tiếp cận dich vụ y tế (tỷ lệ
thiếu hụt bằng 0) và tiếp tục giảm nhanh những chỉ báo còn lại.
3.3.3. Phân tích tình trạng nghèo đa chiều khu vực thành thị Hà Nội thông qua
đánh giá thiếu hụt các nguồn lực theo tiếp cận khung sinh kế của DFID (thực hiện
điều tra nghèo đa chiều 4 phường: Đội Cấn, Văn Chương, Phương Canh, Đại Mỗ cuối
năm 2018)
* Phương pháp điều tra của đề tài
Từ lí do lựa chọn 04 địa bàn điều tra của đề tài đã trình bày trong phạm vi
85
nghiên cứu. Để đáp ứng được mục tiêu của cuộc điều tra, nghiên cứu xây dựng bảng
hỏi bán cấu trúc trên cơ sở vận dụng bộ tiêu chuẩn đo lường riêng về NĐC của Hà Nội
(theo tiêu chuẩn ở bảng (3.2) và hộp (3.1), cụ thể bộ công cụ triển khai điều tra 10 chỉ
báo về DVXHCB và các chỉ báo mở rộng có liên quan đối với các hộ NĐC thuộc mẫu
điều tra. Với bộ dữ liệu điều tra sơ cấp có được nghiên cứu sử dụng phần mềm
STATA chạy dữ liệu, trước hết, (i) Đề tài dựng bảng thống kê đánh giá lại tình trạng tiếp
cận các DVXHCB; (ii) Tiếp theo, để đánh giá tình trạng NĐC và khả năng thoát nghèo bền
vững đề tài đánh giá khả năng tiếp cận các loại nguồn lực từ vận dụng khung sinh kế của
DFID, đề tài đi sâu phân tích làm rõ các vấn đề của nghèo, nhằm làm rõ nét hơn về tình
trạng NĐC, chất lượng sống, nguyên nhân của nghèo, thông qua đánh giá các chỉ báo cụ thể
của 04 loại nguồn lực đã được xây dựng trong khung phân tích của đề tài (vốn con người,
vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội), vốn tài nguyên không đề cập trong khung phân tích
do không có dữ liệu điều tra, đồng thời, đề tài xây dựng một mô hình Probit nhị phân để
lượng hóa các yếu tố chính tác động đến nghèo và thoát nghèo từ đó đưa ra những khuyến
nghị giải pháp cụ thể về GNBV ở khu vực thành thị Hà Nội.
Căn cứ trên danh sách đã rà soát, đánh giá và xác nhận hành chính của địa phương
về các diện NĐC, đã thoát nghèo trong nhiều năm qua và là diện nghèo phát sinh, diện
mới thoát nghèo trong năm 2018 của 04 phường, đề tài tiến hành lựa chọn điều tra
mẫu ngẫu nhiên 200 hộ được lấy trên danh sách chính thức của 04 phường cung cấp
(mỗi phường 50 hộ) theo cơ cấu mẫu: 80 hộ nghèo (mỗi phường 20 hộ), 60 hộ cận
nghèo và 60 hộ thoát nghèo (mỗi phường 15 hộ cận nghèo, 15 hộ thoát nghèo).
Các hộ nghèo và cận nghèo của 04 phường đều đang thuộc diện NĐC theo kết quả
rà soát, đánh giá hàng năm. Số nhân khẩu của các hộ chủ yếu từ 2 đến 5 nhân khẩu, số
hộ có 1 nhân khẩu và nhiều hơn 5 nhân khẩu không nhiều. Tình trạng NĐC của các hộ
chủ yếu do không có việc làm ổn định (các thành viên của hộ chủ yếu làm thuê thời
vụ, buôn bán nhỏ lẻ, một số vẫn làm nông nghiệp và một số lượng nhỏ làm công nhân
ở các khu công nghiệp, nhà máy, do đó không có nguồn thu nhập ổn định và đặc thù
hơn là nhiều hộ nghèo có thành viên bị bệnh nặng, bệnh nan y, tai nạn khó hồi phục, tệ
nạn, đông nhân khẩu ăn theo trên cả 4 địa bàn, ngoài ra là các tình trạng về nhà ở kém
chất lượng, diện tích nhà ở bình quân đầu người không đảm bảo tiêu chuẩn tối thiểu, ...
* Đánh giá lại tình trạng thiếu hụt tiếp cận các DVXHCB theo tiêu chuẩn đo
lường NĐC của Hà Nội đối với mẫu điều tra
86
Bảng 3.15. Đánh giá lại tình trạng thiếu hụt theo 10 chỉ báo về DVXHCB
đối với các diện NĐC
TT Địa bàn
Tổng
số hộ
nghèo
Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo thiếu hụt các chỉ số về DVXHCB
(Đánh giá theo chuẩn NĐC của Hà Nội)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
1
P. Phương
Canh
30
3 1 10 10 10 8 16 9 12 4
0.10 0.03 0.33 0.33 0.33 0.27 0.53 0.30 0.40 0.13
2 P. Đại Mỗ 40
6 0 13 15 17 13 18 10 19 10
0.15 0 0.33 0.38 0.43 0.33 0.45 0.25 0.48 0.25
3 P. Đội Cấn 28
0 2 11 1 6 12 6 7 23 7
0 0.07 0.39 0.04 0.21 0.43 0.21 0.18 0.82 0.25
4
P. Văn
Chương
31
2 3 13 2 8 15 9 8 25 10
0.06 0.1 0.42 0.06 0.26 0.48 0.29 0.26 0.81 0.32
Ghi chú: - Dòng số liệu in thẳng thể hiện số lượng hộ nghèo
- Dòng số liệu in nghiêng thể hiện về tỷ lệ hộ thuộc diện NĐC (chưa quy về
đơn vị %)
Diễn giải 10 chỉ báo DVXHCB
1: Có thành viên đủ 15 tuổi sinh từ 1986 trở
lại đây không tốt nghiệp trung học cơ sở
2: Có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 -
14 tuổi) hiện không đi học
3: Có người bị ốm đau nhưng không đủ tiền
để trang trải
chi phí điều trị (phải đi vay, hoặc không tiếp
tục điều trị)
4: Có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại
không có Bảo hiểm y tế
5: Nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ
6: Diện tích nhà ở bình quân đầu người nhỏ
hơn 8m2
7: Không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ
sinh
8: Không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh
9: Không có thành viên nào sử dụng thuê
bao điện thoại và internet
10: Không có tài sản nào trong số các tài
sản: Tivi, đài, máy vi tính; và không nghe
được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thôn
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả (2018)
+ Sau khi kiểm định lại trên tổng mẫu điều tra về NĐC theo chuẩn riêng của Hà
Nội, số hộ nghèo, cận nghèo và thoát nghèo đã có sự dịch chuyển vế số lượng với
nhau so với danh sách điều tra ban đầu. Như vậy, với sự dịch chuyển này cũng cần xem
xét lại công tác rà soát, đánh giá, thống kê hộ nghèo và tính trung thực khi khai báo của
các hộ về mức sống, điều kiện sống và công tác thực hiện hoàn thành chỉ tiêu giao hàng
năm về tỷ lệ cần thoát nghèo hàng năm của mỗi địa phương (số hộ nghèo ở bảng (3.15) đã
thay đổi thành 129 hộ so với danh sách điều tra ban đầu là 80 hộ/4 địa bàn).
+ Kết quả điều tra đánh giá lại về tình trạng tiếp cận các DVXHCB theo tiêu chuẩn
đo lường NĐC của Hà Nội (bảng 3.15) cho thấy:
- Chỉ báo 1: Chỉ có Phương Canh 3/30 hộ (chiếm 10%), Đại Mỗ 6/40 hộ (chiếm
15%) bị thiếu hụt dịch vụ này và Văn Chương 2/31 hộ (chiếm 6%), Đội Cấn không có
87
hộ nào. Kết quả cho thấy những hộ sinh năm từ 1986 trở lại đây hiện đang là hộ
nghèo, nghề nghiệp thường là lao động tự do/làm thuê thời vụ, thu nhập bấp bênh,
cuộc sống không ổn định. Với độ tuổi này, các hộ đều có khả năng lao động tốt (trừ hộ
bị bệnh tật nặng, tai nạn, nghiện ma túy, tâm thần,), chính sách địa phương nên hỗ
trợ tìm việc làm cho thành viên đang đến tuổi lao động và hỗ trợ tích cực cho các
thành viên của hộ đang ở tuổi đi học. Kêu gọi nguồn lực XHH để có thêm những hỗ
trợ tốt nhất cho các hộ này nếu có thành viên bị bệnh nặng, tai nạn,
- Chỉ báo 2: Phương Canh có 1/30 hộ, Đội Cấn có 2/28 hộ, Văn Chương có 3/31 trẻ
em từ 5-14 tuổi không đi học. Những hộ có thiếu hụt này do gia đình có hoàn cảnh đặc
biệt như: thu nhập gia đình rất khó khăn cùng với có thành viên là bố/mẹ mắc bệnh
nan y, hoặc trẻ em đó bị bệnh nên đã bỏ học.
- Chỉ báo 3: tỷ lệ này chiếm khá cao đối với cả 4 địa bàn đều trên 30% số hộ có thành viên
bị bệnh nặng/bệnh nan y/tâm thần/tai nạn nặng. Chỉ báo này cho thấy những khó khăn lớn
của hộ nghèo, do hộ phải trang trải những chi phí rất lớn khi có thành viên bị thiếu hụt về chỉ
báo này. Thậm chí nhiều hộ thoát nghèo, hay đang là hộ trung bình đã bị quay trở lại thành hộ
nghèo. Đối với những hộ như vậy thì khả năng thoát nghèo là rất khó và nguy cơ lớn sẽ là
những hộ đi vào nghèo lõi.
- Chỉ báo 4: Phương Canh và Đại Mỗ có số hộ chiếm tỷ lệ trên 30% so với tổng số
hộ của từng địa bàn có thành viên trong hộ từ 6 tuổi trở lên không có BHYT. Chỉ báo
này rất quan trọng trong việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe và những lợi ích về y tế mang
lại cho hộ nghèo (Ví dụ, được hỗ trợ chi phí khi nhập viện và điều trị bệnh). Như vậy,
với tỷ lệ thiếu hụt trên cần phải xem lại công tác truyền thông về việc phát thẻ BHYT
cho hộ nghèo và những lợi ích về sử dụng thẻ BHYT tế để người nghèo nắm bắt tiếp
cận. Chỉ báo này cần hỗ trợ tới 100% số hộ nghèo, cận nghèo, thậm chí đối với hộ mới
thoát nghèo có thẻ BHYT để người nghèo được hỗ trợ tốt nhất về chi phí khám và điều
trị bệnh.
- Chỉ báo 5 về chất lượng nhà ở cũng chiếm tỷ lệ đáng lưu ý, có trên 30% của Phương
Canh, trên 40% của Đại Mỗ, 21% của Đội Cấn và gần 30% của Văn Chương so với tổng số
hộ điều tra của từng địa bàn. Với tỷ lệ này cho thấy sự thiếu hụt của các hộ nghèo có nhà ở
an toàn. Các hộ này đang sống trong nhà ở đơn sơ/thiếu kiên cố, như vậy sẽ có những ảnh
hưởng rất đáng kể đến sự an toàn, an ninh sức khỏe và cuộc sống của họ.
- Chỉ báo 6: cho thấy Văn Chương có tỷ lệ cao nhất là 48% (15 hộ), tiếp đến Đội Cấn là
43% (12 hộ), Đại Mỗ là 33% (13 hộ), Phương Canh 27% (8 hộ). Với tỷ lệ này cho thấy số
hộ nghèo sống trong không gian chật chội còn khá nhiều. Với thiếu hụt này các hộ nghèo sẽ
gặp nhiều khó khăn trong những sinh hoạt hàng ngày, không gian sống không đảm bảo
phân bố cho các thành viêndẫn đến môi trường sống cũng không đảm bảo.
88
- Chỉ báo 7: tiếp cận nguồn nước chưa hợp vệ sinh ở Phường phương canh chiếm
tỷ lệ cao nhất 53%, Đại mỗ 45%, Đội Cấn 21% và Văn Chương 29%. Với các vấn đề
như: nước thỉnh thoảng còn mùi hóa chất, nước còn bị màu đục, hộ sử dụng nước mưa
và dùng nước giếng khoan.
- Chỉ báo 8: cho thấy số hộ không có nhà tiêu hợp vệ sinh, cao nhất là Phương
Canh 30%, Văn Chương 26%, tiếp đến Đại Mỗ 25% và thấp nhất là Đội Cấn 18%. Tỷ
lệ này phản ánh các hộ nghèo này vẫn đi vệ sinh lộ thiên ra vườn, hoặc vẫn đi cùng với
nhà vệ sinh chung với khu dân cư.
- Chỉ báo 9: tỷ lệ hộ nghèo không sử dụng thuê bao điện thoại/dịch vụ Internet là
khá nhiều. Đội Cấn 82% (25 hộ), Văn Chương 81% (23 hộ), Đại Mỗ 48% (19 hộ) và
Phương Canh 40% (12 hộ) số hộ nghèo của địa bàn không sử dụng 1 trong 2 dịch vụ
này. Riêng với Văn Chương và Đội Cấn chiếm tỷ lệ rất cao trên 80% chủ yếu không
sử dụng dịch vụ Internet.
- Chỉ báo 10: cho thấy khá nhiều hộ trong mẫu quan sát thiếu hụt chỉ báo này.
Phương Canh thấp nhất chỉ có 4/30 hộ (13%), Đại Mỗ 10/40 hộ (25%), Đội Cấn 7/28
hộ (25%) và Văn Chương 10/31 hộ (32%). Theo kết quả điều tra, đây là những hộ
không nghe các thông tin từ loa phát thanh của phường. Với các lý do chủ yếu do các
hộ trả lời bận đi làm kiếm tiền lo cuộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_giai_phap_giam_ngheo_ben_vung_tai_ha_noi.pdf