LỜI CAM ĐOAN. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT . v
DANH MỤC BẢNG BIỂU. vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ. vii
MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MỞ
RỘNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP . 6
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 6
1.1.1. Những nghiên cứu trong nước . 6
1.1.2. Những nghiên cứu nước ngoài về tự chủ tài chính đối với các
BVCL . 14
1.1.3. Xác định khoảng trống nghiên cứu của đề tài. 17
1.1.4. Câu hỏi nghiên cứu. 18
1.2. Phương pháp nghiên cứu . 19
1.2.1. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu. 19
1.2.2. Khung phân tích và logic phát triển của đề tài nghiên cứu. 23
1.2.3. Phương pháp điều tra thống kê, thu thập và xử lý số liệu. 25
Tiểu kết chương 1 . 27
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH
NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ MỞ RỘNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI
VỚI BỆNH VIỆN CÔNG LẬP. 29
2.1. Bệnh viện công lập và tài chính của bệnh viện công lập. 29
2.1.1. Bệnh viện công lập và phân loại của bệnh viện công lập . 29
2.1.2. Tài chính Bệnh viện công lập. 31
2.2. Tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập. 40
2.2.1. Tự chủ tài chính và tác động của tự chủ tài chính trong bệnh viện
công lập. 40
2.2.2. Mục tiêu, nguyên tắc và điều kiện thực hiện tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong hoạt động tài chính đối với BVCL. 48
172 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 667 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mở rộng tự chủ tài chính đối với bệnh viện công lập ở Việt Nam (Qua khảo sát các bệnh viện công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệm của các nước kinh tế
phát triển (đại diện là Nhật Bản) cho Việt Nam về vai trò của sự can thiệp của
Chính phủ để đảm bảo tự chủ và tăng cường trách nhiệm nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của bệnh viện công. Qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
72
- Thứ nhất: Phải xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển BVCL dựa trên cơ
sở dự báo khoa học về nhu cầu chăm sóc sức khoẻ, thay đổi mô hình bệnh tật, xu
hướng diễn biến các loại bệnh và khả năng tài chính của nhà nước, thu nhập của
người dân, những tiến bộ công nghệ y học. Đồng thời chiến lược phát triển BVCL
phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và quy hoạch
tổng thể phát triển của ngành y tế. Trên cơ sở kết hợp quy hoạch ngành với lãnh thổ
để xây dựng kế hoạch trung hạn, dài hạn phát triển hệ thống BVCL trong cả nước.
- Thứ hai: phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho
BVCL, cùng với thực hiện đa dạng các hình thức sở hữu của bệnh viện, các loại
hình hoạt động của bệnh viện như: hoạt động phi lợi nhuận; hoạt động vì lợi nhuận
và chia xẻ phi lợi nhuận. Trên cơ sở đó tạo điều kiện tiền đề từng bước hình thành
thị trường DVYT.
- Thứ ba: Mở rộng tự chủ tài chính đối với BVCL được thực hiện dựa trên
những điều kiện nhất định, bằng các hình thức và lộ trình thích hợp. Căn cứ vào khả
năng tự bảo đảm kinh phí hoạt động của đơn vị để giao quyền tự chủ tài chính cho
từng nhóm các BVCL theo từng giai đoạn cụ thể. Quá trình mở rộng tự chủ tài
chính đối với BVCL được tiến hành đồng bộ với việc hoàn thiện chính sách BHYT,
chính sách phân phối thu nhập và chính sách quản lý giá DVYT.
- Thứ tư: Tăng cường vai trò của Chính phủ với trách nhiệm định hướng mở
rộng tự chủ tài chính, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và những
điều kiện cần thiết để BVCL thực hiện quyền tự chủ trên thực tế, bằng hệ thống
đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng, cụ thể, minh bạch và khả thi.
Đồng thời Chính phủ tăng cường kiểm tra, giám sát tự chủ, tự chịu trách nhiệm tài
chính của các đơn vị, nhằm phát hiện những mặt hạn chế, bất cập, những khuyết
điểm tiêu cực để kịp thời sửa chữa, khắc phục và hoàn thiện cơ chế, chính sách về
tự chủ tài chính đối với BVCL
- Thứ năm: Cần có sự phân định rõ ràng giữa quản lý Nhà nước về tài chính
và quản trị tài chính của BVCL và tách bạch giữa người cung cấp DVYT (các cơ sở
y tế công lập) với người mua các dịch vụ đó (cá nhân, tổ chức, Chính phủ). Đồng
thời nâng cao hiệu quả quản trị của BVCL trên cơ sở thiết lập cơ cấu quản trị có sự
tham gia của các thành viên bên ngoài bệnh viện là những chuyên gia giỏi trong
lĩnh vực quản lý tài chính trong ban điều hành của bệnh viện. Đảm bảo cung cấp
73
thông tin kịp thời, chính xác, minh bạch hoạt động tài chính cùng với tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ của BVCL.
Thứ sáu: Chính phủ xây dựng ban hành biểu phí thống nhất, quy định khung
mức phí đối với từng dịch vụ và điều kiện thanh toán cụ thể. Mức phí dịch vụ tính
đủ các chi phí của BV để cung cấp dịch vụ y tế đó. Vì vậy nguồn thu chủ yếu của
bệnh viện là từ việc cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở thu phí dịch vụ. Chính phủ
kiểm soát chặt chẽ yếu tố giá cả và việc tuân thủ quyết định thanh toán phí dịch vụ.
Nghiêm cấm những khoản phụ thu, tính cao hơn mức giá quy định.
Tiểu kết chương 2
Trọng tâm của chương 2 là giải quyết những vấn đề lý luận chung về tự chủ
tài chính đối với BVCL, tạo tiền đề lý luận cho sự phát triển nhất quán của đề tài
nghiên cứu.
- Trước hết luận án khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính nói
chung và tài chính BVCL nói riêng làm rõ bản chất, chức năng của tài chính,
những mối quan hệ tài chính của BVCL và hoạt động tài chính BVCL trong nền
kinh tế thị trường.
- Phân tích làm rõ nội hàm khái niệm tự chủ tài chính đối với BVCL với tư
cách là phương thức quản lý tài chính trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời làm rõ tác động của tự chủ tài chính
trên cả hai phương diện: tác động tích cực và tác động tiêu cực (tức là những nguy
cơ đề phòng). Do đó cần xác định mục tiêu, nguyên tắc và điều kiện thực hiện tự
chủ tự chịu trách nhiệm về tài chính của BVCL: tự chủ về nguồn thu, tự chủ sử
dụng nguồn chi và mục tiêu tự chủ tài chính đối với BVCL là tự cân đối thu - chi
tích cực.
- Mở rộng tự chủ tài chính đối với BVCL đó là một quá trình từ thấp đến
cao, từ tự chủ từng phần đến tự chủ hoàn toàn gắn liền với sự hình thành thị trường
DVYT. Luận án phân tích nội dung mở rộng tự chủ tài chính, thực chất là giải quyết
mối quan hệ Nhà nước giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về tài chính và các
điều kiện (môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách), các BVCL chủ động tổ chức
thực hiện quyền tự chủ về nguồn thu, mức thu và sử dụng nguồn thi, chi tiêu của
bệnh viện. Căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính của đơn vị Nhà nước giao thêm
74
quyền tức là mở rộng tự chủ tài chính (chuyển từ nhóm bệnh viện tự chủ thấp lên
nhóm bệnh viện tự chủ cao hơn). Mở rộng tự chủ tài chính được tiến hành theo lộ
trình cụ thể qua các giai đoạn khác nhau.
- Trên cơ sở đó, luận án xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá mở rộng tự
chủ tài chính đối với BVCL có tiêu chí định tính, có tiêu chí định lượng. Trong đó
đặc biệt quan tâm đến tính hiệu lực và tính hiệu quả của mở rộng tự chủ tài chính.
Tính hiệu quả được xác định bằng các chỉ số nguồn thu, cơ cấu nguồn thu; các
khoản chi và thay đổi cơ cấu chi, mức độ tự cân đối thu - chi. Phân tích nhân tố ảnh
hưởng đến các chính sách đảm bảo thực hiện tự chủ tài chính của BVCL.
- Nghiên cứu khảo sát kinh nghiệm tự chủ tài chính của bệnh viện công của
một số quốc gia điển hình như: Trung Quốc là nước có nền kinh tế chuyển đổi, Nhật
Bản là nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trên cơ sở tiếp thu, lựa chọn và kế
thừa để rút ra những bài học cho Việt Nam về tự chủ tài chính đi với BVCL.
75
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN
CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Khái quát quá trình xây dựng và phát triển của hệ thống bệnh viện công
lập trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.1.1. Đổi mới hoạt động của BVCL trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới một cách
toàn diện triệt, để và sâu sắc. Trong đó đổi mới về kinh tế chuyển sang kinh tế thị
trường định hướng XHCN là trọng tâm. Hầu hết các ngành, các lĩnh vực đã xây
dựng được cơ chế hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường và đã có những
bước phát triển tích cực. Tuy nhiên so với lĩnh vực hoạt động kinh tế, một số lĩnh
vực xã hội, trong đó có ngành y tế còn chậm đổi mới, chưa xây dựng được cơ chế
hoạt động phù hợp với kinh tế thị trường, đảm bảo hoàn thành chức năng nhiệm vụ
được giao. Nguyên nhân chậm đổi mới của ngành y tế nói chung và BVCL nói
riêng so với các ngành khác là do trong thời gian dài NSNN bao cấp cho các bệnh
viện. Người dân được khám chữa bệnh, được cấp thuốc, sử dụng các dịch vụ không
phải trả tiền. Song do NSNN còn eo hẹp, kinh phí cấp cho hoạt động SNYT còn hạn
chế. Tình trạng bệnh viện quá tải, xuống cấp, chất lượng các DVYT còn thấp trong
khi nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng tăng.
Lĩnh vực kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng, mức tăng trưởng
cao duy trì trong thời gian khá dài và lần đầu tiên chúng ta đã vượt qua nước nghèo
(năm 2010 đạt mức GDP tính bình quân đầu người/năm là 1.000 USD). Cùng với
sự phát triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực y học, sự nâng cao về
dân trí và thu nhập của người dân, tất yếu nhu cầu đòi hỏi về chăm sóc sức khoẻ
ngày càng tăng và chất lượng DVYT ngày càng nâng cao. Vì vậy các chi phí cung
cấp DVYT cho xã hội, bao gồm cả chi phí đầu tư trang thiết bị, chi phí thường
xuyên ngày càng tăng nhanh và với lượng rất lớn. Tình hình đó, khiến cho Nhà
nước không thể tiếp tục bao cấp cho tất cả các đối tượng và cho mọi hoạt động
SNYT. Để duy trì hoạt động của BVCL nhằm hoàn thành những nhiệm vụ được
76
giao đòi hỏi các BVCL phải đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đáp ứng yêu
cầu phát triển của kinh tế thị trường.
Cụ thể hoá quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới hoạt động
của ngành y tế nhằm mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của người
dân trong chiến lược phát triển con ngời đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Chính phủ đã xây dựng và ban hành nhiều cơ chế, chính sách đổi mới hoạt động của
ngành y tế nói chung và của hệ thống BVCL nói riêng như: Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và
thể dục thể thao. Nghị định 43/2005/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định về quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính của các đơn vị sự nghiệp công lập trong đó có các đơn vị sự nghiệp y tế. Thực
hiện Nghị định 43/NĐ-CP cùng với triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách
BHYT; chính sách KCB cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6
tuổi; hỗ trợ BHYT cho hộ cận nghèo, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo v.v...;
phân bổ NSNN tăng đầu tư cho y tế; phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới y tế
đến năm 2020; đề án đầu tư nâng cấp các trạm y tế xã, bệnh viện huyện, trung tâm y
tế dự phòng tuyến huyện. Như vậy có thể nói rằng Nghị định 43/NĐ-CP của Chính
phủ là mốc đánh dấu sự đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động của khu vực sự
nghiệp công, trong đó có ngành y tế. Đổi mới cả về tư duy nhận thức, đổi mới về
mô hình tổ chức quản lý, đổi mới cả về cơ chế tài chính. Thực chất là đổi mới hoạt
động y tế từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang hoạt động theo mô hình phù
hợp với kinh tế thị trường.
Về hoạt động tài chính, việc thực hiện Nghị định 43/NĐ-CP của Chính phủ
bước đầu đã phát huy quyền chủ động trong tổ chức khai thác, huy động các nguồn
tài chính, quản lý phân phối, sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí để phát triển hoạt
động sự nghiệp y tế, hoàn thành nhiệm vụ được giao và nâng cao đời sống của cán
bộ, công chức, viên chức của BVCL. Tuy nhiên Nghị định 43/NĐ-CP của Chính
phủ là Nghị định quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp nói chung và
hoạt động trong các ngành, lĩnh vực: y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá nghệ thuật, thể
77
dục thể theo, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường v.v... Nhưng do tính chất đặc
thù của ngành y tế, các hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho xã hội
là lĩnh vực đặc biệt và DVYT cũng là loại dịch vụ đặc biệt khác với dịch vụ của các
ngành. Vì vậy, sau thời gian triển khai thực hiện Nghị định 43/NĐ-CP trong ngành
y tế đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc thậm chí có những điểm còn bất cập nhất
là việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế, trong đó BVCL là
bộ phận quan trọng nhất. Để cụ thể hoá Nghị định 43/NĐ-CP về tự chủ tài chính đối
với BVCL năm 2008 Bộ Y tế đã triển khai đề án nghiên cứu "Đổi mới cơ chế hoạt
động và cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương, giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị
sự nghiệp y tế công lập. Đề án đã khảo sát, phân tích khá sâu sắc và toàn diện việc
thực hiện những quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế nói chung
và đi với BVCL nói riêng. Qua đó đề án có những đánh giá về thực trạng về kết quả
đạt được và cả những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong thực hiện tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của BVCL. Đề án đã đề xuất một số giải pháp
và kiến nghị đi với cơ quan có thẩm quyền ban hành cơ chế, chính sách đẩy mạnh
đổi mới cơ chế hiệu quả, cơ chế tài chính đối với BVCL trong thời gian tới. (Bộ Y
tế, 2008) [13]. Trên cơ sở đó Chính phủ ban hành Nghị định số 85/2012/NĐ-CP về
"Cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và
giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập
ngày 15 tháng 10 năm 2012. Nghị định 85/NĐ-CP quy định cụ thể về phân loại đơn
vị sự nghiệp y tế, về cơ chế hoạt động và quy định chi tiết về cơ chế tài chính đối
với đầu tư, kinh phí hoạt động thường xuyên và không thường xuyên, đặc biệt là
những quy định mới về giá dịch vụ y tế và cơ quan có thẩm quyền quyết định giá
DVYT. (Chính phủ, 2012) [26]
Hiện tại các BVCL ở tất cả các tuyến đang tổ chức thực hiện Nghị định
85/NĐ-CP của Chính phủ. (Thực trạng thực hiện tự chủ tài chính đối với BVCL
được trình bày trong phần 3.2).
78
3.1.2. Hệ thống BVCL và tình hình hoạt động tự chủ tài chính của BVCL trên
địa bàn thành phố Hà Nội
Như chúng ta biết, hệ thống BVCL ở nước ta đều thuộc sở hữu của Nhà nước,
Nhà nước thống nhất quản lý từ trung ương đến các tỉnh, thành, các huyện quận và xã
phường để chăm sóc, bảo bệ và nâng cao sức khoẻ cho toàn dân.
Về phân cấp quản lý hệ thống BVCL, thực hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-
CP của Chính phủ (Chính phủ, 2008) [23] và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP (Chính
phủ, 2008) [24] và thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV của Bộ Y tế và
Bộ Nội vụ ngày 25/4/2008 hướng dẫn triển khai 2 nghị định trên. Theo đó Bộ Y tế
thống nhất quản lý về nghiệp vụ chuyên môn bằng việc ban hành các quy định, quy
trình kỹ thuật về chuyên môn, nghiệp vụ y tế để thực hiện thống nhất trong toàn
ngành, từ TW đến địa phương (cho cả bệnh viện ngoài công lập). Sở y tế là cơ quan
tham mưu giúp UBND cấp tỉnh (thành phố) quản lý Nhà nước về các hoạt động y tế
trên địa bàn. Như vậy BVCL ở các địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc TW) bao
gồm tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến xã là do Sở Y tế quản lý trực tiếp về nghiệp
vụ chuyên môn. (Bộ Y tế, 2008) [14].
Như chúng ta biết Hà Nội là thành phố lớn, Thủ đô của cả nước và là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục của đất nước. Hệ thống BVCL trên địa
bàn Hà Nội bao gồm tất cả các tuyến từ các bệnh viện tuyến TW do các Bộ, ngành
quản lý đến các bệnh viện tuyến thành phố quản lý các bệnh viện ở quận, huyện đến
các bệnh xá ở các phường, xã. Vì vậy, có thể nhận thấy BVCL trên địa bàn thành
phố Hà Nội đại diện cho tất cả các tuyến của hệ thống BVCL nước ta hiện nay.
3.1.2.1. Tình hình hoạt động tài chính của các BVCL do Bộ Y tế quản lý
BVCL trên địa bàn thành phố Hà Nội được đặc trưng bởi tính tập trung quy
mô lớn, trình độ chuyên môn cao và quá trình lịch sử hình thành. Các BVCL tuyến
TW do Bộ Y tế các các Bộ ngành quản lý đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội, đó là
các bệnh viện có quy mô lớn trình độ tập trung rất cao: số giường bệnh hơn 1.000,
số lượng CBCNV trong biên chế trên 1.000 người, đặc biệt trong đó có hàng trăm
các giáo sư, bác sỹ đầu ngành có trình độ chuyên môn, uy tín rất cao, những bệnh
viện này có năng lực tài chính vững mạnh, tổng số thu từ hoạt động sự nghiệp hàng
nghìn tỷ VNĐ trong một năm. (Xem bảng 2.1), (Bộ Y tế, 2014) [17]
79
Bảng 3.1. Tình hình hoạt dộng tài chính của một số BVCL do BYT quản lý
trên địa bàn Hà Nội đến 31/12/2013
Bệnh viện
Số giường
bệnh
(giường)
Số biên chế
(người)
Tổng dự toán
NSNN giao
(triệu VNĐ)
Tổng số thu sự
nghiệp (Triệu
VNĐ)
- Bệnh viện Bạch Mai 1.900 2.364 65.860 2.496.500
- Bệnh viện Việt - Đức 1.400 1.200 39.040 1.045.000
- Bệnh viện Nhi TW 1.200 1.400 79.430 720.000
- Bệnh viện K 1.070 900 67.670 710.000
- Bệnh viện E 610 660 83.140 251.000
- Bệnh viện Mắt TW 450 470 15.620 175.000
- Bệnh viện Phụ sản TW 700 679 24.570 345.000
- Bệnh viện Hữu nghị 550 780 96.820 165.000
Tính trung bình của 40
BVCL cả nước
605 629 48.613 310.562
Nguồn: Vụ Kế hoạch - Tài chính Bộ Y tế, kèm theo quyết định số 352/QĐ-BYT.
Các BVCL do Bộ Y tế và các Bộ ngành khác quản lý trên địa bàn thành phố
Hà Nội đã và đang thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính có hiệu quả. Hầu hết các BVCL quy mô lớn, trang
thiết bị hiện đại có đội ngũ các thầy thuốc giỏi trình độ chuyên môn, uy tín cao đều có
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp y tế tự đảm bảo được toàn bộ kinh phí hoạt động
thường xuyên. Những bệnh viện này tiếp tục được mở rộng thêm quyền tự chủ tài
chính để có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo được toàn bộ kinh phí hoạt động thường
xuyên và kinh phí đầu tư phát triển. (Xem bảng 2.2), (Bộ Y tế, 2014) [17]
Bảng 3.2. Tổng hợp tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm 2013 và dự toán
ngân sách năm 2014 Bộ Y tế giáo cho một số BVCL do Trung ương quản lý
Bệnh viện
Thực hiện dự
toán NS năm
2013 (tr.VNĐ)
Tổng số thu sự
nghiệp năm
2013 (tr.VNĐ)
So sánh
2/3 (%)
Bộ Y tế giao
dự toán NS
năm 2014
(tr.VNĐ)
So sánh
5/2 (%)
1 2 3 4 5 6
- Bệnh viện Bạch Mai 65860 2.496.500 2,6 27.210 41,3
- Bệnh viện Việt Đức 39.040 1.045.000 3,7 32.450 83,1
- Bệnh viện Nhi TW 79.430 720.000 11,3 85.540 107,0
- Bệnh viện K 67.670 710.000 9,5 68.790 101,0
- Bệnh viện E 83.140 251.000 31,3 59.640 71,7
- Bệnh viện mắt TW 15.620 175.000 8,9 8.530 54,6
- Bệnh viện phụ sản TW 24.570 435.000 5,6 18.550 75,5
- BV Hữu nghị 96.820 165.000 58,6 99.860 103,0
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo phân bổ dự toán NSSNYT năm 2014. Khối các BVCL
80
Qua bảng 3.2 cho thấy các bệnh viện tuyến TW, đầu ngành tập trung quy mô
lớn, thực hiện chế đô tự chủ tài chính như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Việt Đức,
bệnh viện Phụ sản TW, nguồn kinh phí NSNN cho hoạt động sự nghiệp chiếm tỷ
trọng từ 2,5% đến 5,5% so với tổng số thu sự nghiệp trong năm 2013. Dự toán ngân
sách năm 2014, Bộ Y tế giao cho các bệnh viện giảm nhiều so với năm 2013: bệnh
viện Bạch Mai là 41,3%; bệnh viện Việt Đức là 83,1%, bệnh viện Phụ sản TW:
75,5% (Bộ Y tế, 2014) [17]. Một số bệnh viện như bệnh viện Hữu Nghị, bệnh viện E
được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ, KCB cho các đối tượng là cán bộ, công chức
nhà nước đăng ký BHYT tại bệnh viện. Nguồn thu chủ yếu là thanh toán BHYT, còn
thu từ các dịch vụ khác hầu như không đáng kể. Do đó mức thực hiện dự toán ngân
sách so với tổng số thu sự nghiệp trong năm 2013 của bệnh viện Hữu Nghị chiếm
58,6% và bệnh viện E là 33,1%. Kinh phí NSNN cho các bệnh viện này bảo đảm chi
phí hoạt động thường xuyên, trong đó mức hỗ trợ tiền lương và phụ cấp là 100%. Căn
cứ vào tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm 2013, nhu cầu khám chữa bệnh của
các đối tượng và xu hướng diễn biến các bệnh, Bộ Y tế giao dự toán ngân sách năm
2014 cho một số bệnh viện tăng so với năm 2013 như bệnh viện Hữu Nghị: 103%;
bệnh viện E: 101%; bệnh viện Nhi TW: 107%. (Bộ Y tế, 2014) [17]
Qua phân tích tình hình hoạt động tài chính của một số bệnh viện đại diện,
điển hình trong số các BVCL do Bộ Y tế quản lý trên địa bàn thành phố Hà Nội. Có
thể nhận thấy những bệnh viện quy mô lớn, tập trung đội ngũ các thầy thuốc có
trình độ chuyên môn cao, cung cấp đa dạng các loại DVYT nhất là những DVYT
chất lượng cao. Các BV này có nguồn thu từ hoạt động NSYT ngày càng tăng,
nguồn kinh phí ngân sách cấp cho bệnh viện giảm và chiếm tỷ lệ ngày càng nhỏ so
với tổng số thu sự nghiệp. Sự khác biệt về quy mô trình độ, về loại hình và tính chất
đặc thù của từng bệnh viện và do đó khả năng tự chủ tài chính của các bệnh viện rất
khác nhau. Vì vậy việc mở rộng tự chủ tài chính đối với BVCL phải căn cứ vào
điều kiện cụ thể của từng nhóm bệnh viện để có những biện pháp, phương thức và
lộ trình riêng đối với mỗi nhóm bệnh viện.
3.1.2.2. Tình hình hoạt động tài chính của BVCL do Sở Y tế Hà Nội quản lý
Theo báo cáo của Sở Y tế thành phố Hà Nội đến tháng 12 năm 2014 (Sở Y
tế, 2014), [52]. có 41 bệnh viện thuộc Sở Y tế Hà Nội quản lý trong đó 25 bệnh viện
đa khoa, 16 bệnh viện chuyên khoa được bố trí xây dựng ở hầu hết các quận, huyện
trên toàn thành phố.
81
Trong số các BVCL trên, nếu căn cứ vào mức độ tự bảo đảm chi phí hoạt
động: chỉ có 02 bệnh viện tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động, chiếm gần 5%. 34
bệnh viện bảo đảm một phần chi phí hoạt động chiếm hơn 83%. 5 bệnh viện do
NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động chiếm 12%. Nhìn chung các BVCL bảo
đảm toàn bộ hoặc một phần chi phí hoạt động là các bệnh viện đa khoa, chuyên
khoa tuyến thành phố, đó là các BV quy mô lớn và có trình độ chuyên môn cao, ở
nội thành hoặc các thị trấn, thị xã của thành phố. Còn một số các BVCL do NSNN
đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động chủ yếu là các bệnh viện chuyên khoa về tâm
thần như bệnh viện Tâm thần Hà Nội, bệnh viện Tâm thần Mỹ Đức v.v...
Tình hình hoạt động tài chính của một số BVCL do Sở Y tế Hà Nội quản lý
(đến hết tháng 12/2014) được phản ảnh ở bảng 2.3 sau. (Sở Y tế, 2014) [52].
Bảng 3.3. Tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch tài chính năm 2014 của một
số BVCL thuộc Sở Y tế Hà Nội
Tên các BVCL
Biên chế
LĐHĐ
(người)
Quỹ tiền
lương
(tr.đ)
Tổng kinh
phí (tr.đ)
Trong đó
NSNN
giao
TCTC
Thu phí lệ
phí
Thu dịch
vụ
1. Bệnh viện tự bảo đảm
CPHĐ
+ BV tim Hà Nội 421 577 502.446 0 502.449 0
+ BVĐK Hoè Nhai 179 1.267 55.249 249 47.700 7.300
2. Bệnh viện tự bảo đảm một
phần KPHĐ
+ BVĐK Xanh Pôn 905 33.434 369.547 42.737 260.000 66.860
+ BV Phụ sản Hà Nội 1.066 80.062 106.960 21.760 131.300 253.900
+ BVĐK Thanh Nhàn 793 84.068 310.574 56.950 201.946 51.678
+ BVĐK Đống Đa 394 24.282 82.747 22.300 58.270 2.177
+ BVĐK Hà Đông 548 39.621 153.183 41.052 108.245 3.841
+ BV Ung bướu Hà Nội 320 11.495 235.483 16.471 182.725 35.987
+ BVĐK Đức Giang 475 25.951 187.425 26.425 116.400 44.600
+ BVĐK H.Thạch Thất 230 6.665 39.569 12.759 26.600 210
+ BVĐK H.Hoài Đức 226 7.906 28.640 13.233 15.517 90
+ BVĐK H.Quốc Oai 235 11.331 38.138 12.788 25.000 350
3. Bệnh viện do NSNN bảo
đảm toàn bộ CPHĐ
+ BV tâm thần Hà Nội 336 27.611 57.495 46.874 9.421 1.200
+ BV tâm thần Mỹ Đức 220 6.920 21.819 19.597 2.240 0
+ BV tâm thần Mai Hương 54 4.298 5.097 4.947 150
Nguồn: Sở Y tế Hà Nội. Báo cáo tình hình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP của
các ĐVSN năm 2014.
82
Bảng trên cho thấy, những bệnh viện tự bảo đảm chi phí hoạt động hầu như
đã tự cân đối được thu - chi và có tích luỹ để mở rộng phát triển các hoạt động
SNYT. Phần NSNN giao cho chủ yếu thực hiện nhiệm vụ triển khai các đề tài
nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ y học tiên tiến và chỉ đạo tuyến v.v..
Đối với các BVCL tuyến thành phố tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động.
Tổng nguồn thu từ viện phí và dịch vụ khác chiếm tỷ lệ từ 75% đến 95% trong tổng
kinh phí hoạt động. Phần NSNN giao tự chủ tài chính trong khoảng từ 5% đến 25%.
Đặc biệt có những bệnh viện về cơ bản đã tự cân đối được thu - chi tài chính, tự chủ
về nguồn thu và tự bù đắp các khoản chi phí của bệnh viện như bệnh viện Phụ sản
Hà Nội, hiện tại kinh phí NSNN chỉ chiếm trên 5% trong tổng kinh phí, hay bệnh
viện Ung bướu Hà Nội kinh phí NSNN chiếm khoảng 7%. Thực hiện Nghị định
85/2012/NĐ-CP, số các bệnh viện này, trong kế hoạch từ 2015 - 2017 được xếp loại
ĐVSNYT nhóm 1 - đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt
động thường xuyên và kinh phí đầu tư phát triển. Căn cứ vào tình hình hoạt động tài
chính của từng bệnh viện, các cơ quan có thẩm quyền giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm đầy đủ, toàn diện hơn: tự chủ về nguồn thu,về các khoản chi, tự chủ phân phối
và sử dụng các quỹ v.v... và tự cân đối thu - chi một cách tích cực để tham gia đầy đủ
hơn vào thị trường DVYT, với tư cách như là những chủ thể kinh tế.
Những BVĐK tuyến huyện (quận), kinh phí NSNN cấp hàng năm chiếm
khoảng từ 35% đến 45% tổng kinh phí. Nguồn kinh phí NSNN cấp cho bệnh viện
chủ yếu tập trung cho các khoản chi thường xuyên trực tiếp gắn với công tác KCB.
Trong đó chi tiền lương, các loại phụ cấp và những đóng khoản góp khác chiếm hơn
70% kinh phí hoạt động thường xuyên.
Một số các bệnh viện thuộc nhóm được NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt
động, đó là các bệnh viện chuyên khoa tâm thần do Sở Y tế Hà Nội quản lý. Những
bệnh viện này thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, điều trị cho các bệnh nhân tâm thần,
giải quyết các vấn đề chính sách xã hội như bệnh viện Tâm thần Hà Nội, bệnh viện
Tâm thần Mỹ Đức. Vì vậy kinh phí NSNN chiếm từ 80% đến 90% tổng kinh phí
hoạt động của bệnh viện.
Theo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 43CP của Chính phủ giai
đoạn 2010 - 2014 của ngành y tế Hà Nội được phản ánh trên bảng 2.4tổng hợp về
kết quả hoạt động tài chính sau. (Sở Y tế, 2014) [52]
83
Bảng 3.4. Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu tài chính từ năm 2010 đến 2014
Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
Biên chế, lao động hợp đồng (người) 16.299 17.492 19.012 19.595 20.923
Quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ 434.311 631.579 741.722 884.091 1.022.104
Tổng kinh phí hàng năm 1.983.844 2.682.917 3.192.784 3.643.949 4.412.765
NS cấp giao tự chủ tài chính 718.322 1.091.1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- la_tranthecuong_8864_1854514.pdf