Luận án Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam

MỞ ĐẦU.1

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.6

1.1. Các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa độc lập, tự

chủ và hội nhập quốc tế.6

1.2. Các công trình nghiên cứu nghiên cứu về thực trạng giải quyết mối quan hệ

giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam . 23

1.3. Các công trình nghiên cứu về giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự

chủ và hội nhập quốc tế. 27

1.4. Những vấn đề đặt ra cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu . 31

Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC

LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM. 35

2.1. Một số khái niệm cơ bản . 35

2.2. Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. 47

2.3. Sự phát triển lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa độc

lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. 62

2.4. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập của một

số nước trên thế giới. 78

Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIẢI

QUYẾT MỐI GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

CỦA VIỆT NAM . 92

3.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của

Việt Nam. 92

3.2. Những vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lâp, tự chủ và hội

nhập quốc tế của Việt Nam. 137

Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIẢI QUYẾT CÓ

HIỆU QUẢ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP

QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM . 148

4.1. Quan điểm cơ bản về giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập

quốc tế của Việt Nam hiện nay. 148

4.2. Giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc

tế của Việt Nam. 156

KẾT LUẬN . 184

DANH MỤC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ. 187

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 188

pdf201 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đối ngoại với các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội. Tăng cường ngoại giao nhân dân [37, 90] Thứ bảy, về lâu dài phải xây dựng được một hệ giá trị chung cho tất cả các dân tộc, để dân tộc nào cũng hết lòng hết sức cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây dựng một đất nước hoà hợp, phồn vinh, hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc trên đất nước mình và với các dân tộc khác trên thế giới. Nghĩa là quốc gia dân tộc vừa bảo vệ được độc lập, tự chủ, tôn vinh được những giá trị của riêng mình, vừa hội nhập thành công, hiệu quả với thế giới bên ngoài.[37,100] 91 Tiểu kết Chương 2 Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế tât yếu khách quan của sự vận động, phát triển lịch sử. Tích cực và chủ động hội nhập quốc tế là quá trình biện chứng phù hợp với quy luật khách quan. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chuyên đề đã phân tích, làm rõ khái niệm “độc lập, tự chủ”, “hội nhập quốc tế”, “mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” và khẳng định độc lập, tự chủ và hội nhạp quốc tế có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại. Trong đó, độc lập, tự chủ là cơ sở của hội nhập quốc tế, là tiền đề của hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ quyết định bước đi quyết định mức độ, phạm vi hội nhập. Không có độc lập, tự chủ, một nước có thể trở thành “sân chơi” cho các thế lực kinh tế, chính trị quốc tế trong quá trình hội nhập; độc lập, tự chủ là “ổ khóa” để giữ gìn bản sắc dân tộc, càng hội nhập sâu rộng càng cần bản sắc, càng có nhu cầu giữ giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc trong một hoàn cảnh quan hệ đã trở nên quốc tế hóa. Ngược lại, nếu đánh mất bản sắc trong quá trình hội nhập, thì nước đó sẽ bị lệ thuộc vào nước khác. Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thời kỳ quá độ. Việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan. Vì vậy, nghiên cứu, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, làm cho nó phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cự thể của Việt Nam, góp phần tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, trong quá trình hội nhập quốc tế cần giải quyết mối quan hệ này một cách linh hoạt, mềm dẻo, tránh chủ quan, nóng vội, áp đặt. Thước đo kết quả giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là lợi ích quốc gia dân tộc Việt Nam được đảm bảo và lợi ích chính đáng của mỗi người dân Việt Nam được nâng lên. 92 Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIẢI QUYẾT MỐI GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 3.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam 3.1.1. Những thành công và hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trên các lĩnh vực 3.1.1.1. Trên lĩnh vực kinh tế * Thành công Có thể khẳng định, việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, mấu chốt nhất của sự nghiệp hội nhập quốc tế nói riêng và đổi mới mọi mặt của đất nước nói chung. Đảm bảo hài hòa mối quan hệ này trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo giải quyết đúng đắn nhất các mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập trên các lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, an ninh – quốc phòng. - Xét trên phương diện lý luận Thành công của việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế đó là quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế được đảm bảo hài hòa: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ tạo điều cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Hội nhập kinh tế quốc tế thành công góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đây là một vấn đề dù chưa có trong tiền lệ nhưng nhất định giải quyết được. Cách giải quyết này phù hợp với Việt Nam – quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Điểm nổi bật của cách giải quyết này là vừa vận dụng và tận dụng nhân tố 93 khách quan là ưu thế của hội nhập quốc tế, vừa phát huy mạnh mẽ nhân tố chủ quan, tranh thủ ngoại lực kết hợp với nội lực tạo thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, khắc phục những mặt trái cố hữu của hội nhập quốc tế. Nhân tố quan trọng nhất quyết định thành công của vấn đề này là năng lực, trí tuệ của Đảng – đội ngũ tiên phong của giai cấp và của cả dân tộc - Những kết quả thực tế Thứ nhất, Việt Nam đã xây dựng và thực thi mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả thực tế đáng khích lệ tạo thế và lực, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Chúng ta đã được Liên hiệp quốc đưa ra khỏi nhóm nước kém phát triển, đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một trong số ít nước chuyển đổi thành công từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mà vẫn giữ được sự ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo số liệu của Tổng cục thống kê về tăng trưởng GDP qua các thời kỳ, thì giai đoạn 1986 - 1990 bình quân GDP chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt 7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao nhất trong vòng 11 năm trước đó). Từ năm 2008 trở đi, do ảnh hưởng từ những biến động của nền kinh tế thế giới, tăng trưởng GDP có xu hướng giảm. Cụ thể, giai đoạn 2011 - 2013 giảm xuống còn 5,6%. Tuy nhiên, năm 2014 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã tăng cao trở lại, đạt 5,98% (cao hơn năm 2013 là 5,42%), đưa Việt Nam trở thành nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao thứ 2 trên thế giới (sau Trung Quốc). Năm 2015, GDP của Việt Nam ước tính tăng 6,68% so với năm 2014. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2015 cao hơn mục tiêu 6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011- 2014, cho thấy nền kinh tế phục hồi rõ nét. Năm 2016 GDP ước tính tăng 6,21%. Mức tăng này thấp hơn 6,68% của năm 2015 và không đạt mục tiêu 94 đề ra là 6,7%. Tuy nhiên nếu xét trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới năm 2016 không thuận, giá cả và thương mại toàn cầu giảm, trong nước gặp nhiều khó khăn do thời tiết, môi trường biển diễn biến phức tạp, đây cũng là năm chuyển giao thế hệ lãnh đạo thì việc đạt được mức tăng trưởng như trên là cũng là một thành công. Năm 2017, là năm đột phá của nền kinh tế Việt Nam, tăng trưởng GDP ước tính đạt đạt 6,81%, cao nhất trong 10 năm trở lại đây và vượt chỉ tiêu 6,7% Quốc hội đề ra hồi đầu năm; [110] Từ chỗ hiếm lương thực, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Từ chỗ khan hiếm hàng hóa, hiện nay trên thị trường mọi thứ hàng hóa được mua bán, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và doanh nghiệp. Tốc độ tăng xuất khẩu gần như liên tục đạt 2 chữ số. Quy mô xuất khẩu bình quân đầu người tăng mạnh từ năm cao gấp gần 124 lần năm 1985. Hàng năm, Việt Nam đã có trên 20 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD và đứng thứ hạng cao trên thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ; Từ chỗ siêu lạm phát, hiện nay chỉ còn một chữ số. Một trong những thắng lợi lớn của nền kinh tế nữa, đó là sự bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư trong sản xuất nông nghiệp; đông thời phát huy tính tự chủ của các hộ nông dân, nhờ vậy mà giải phóng được sức sản xuất, tăng nhanh sản lượng hàng hóa, nhất là lương thực – thực phẩm để xóa đói, giảm nghèo và đẩy mạnh xuất khẩu. Bộ mặt nông thôn Việt Nam đã được thay đổi rõ rệt nhiều mặt, tuy chưa đều giữa các vùng. Việt Nam đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn tài trợ và đầu tư vào Việt Nam không ngừng gia tăng. Với ưu thế ổn định chính trị, lao động, vị thế địa kinh tế và môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn gián tiếp nước ngoài (FII). 95 Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các tổ chức kinh tế quốc tế hàng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ASEAN, APEC Việt Nam cũng đã ký các Hiệp định thương mại tự do (FTA), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (CTTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP) Bên cạnh đó, Việt Nam hiện cũng có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB). Vì vậy, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Doanh Nghiệp Việt Nam ngày càng tăng. Thống kê cho thấy, tổng lượng vốn đăng ký của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tuy chưa lớn (bình quân 1 năm đạt 887,5 triệu USD, bình quân 1 dự án đạt 23,9 triệu USD), song đã bằng gần 1/10 tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp mà Việt Nam thu hút từ nước ngoài)....Cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO. Dự kiến trong giai đoạn 2011 – 2020 việc làm mới tạo ra tiếp tục tăng bình quân 2,4 – 2,8%/ năm (tương đương 1,1-1,3 triệu việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 4,23% vào năm 2020. [1] Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với các quốc gia, mở rộng thị trường, thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu, thu hút nguồn lực quốc tế. Phục vụ đắc lực phát triển và chuyển dịch cơ cấu, nâng cao tiềm lực kinh tế tạo điều kiện “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng” [27, 104]. Việt Nam đã là thành viên của các tổ chức thương mại, tài chính toàn cầu như WB, IMF, WTO, các tổ chức hợp tác kinh tế - xã hội trong khuôn khổ Liên hợp quốc và nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực như ASEAN, 96 APEC, GMS. Việt Nam cũng ký kết nhiều FTA song phương và FTA quan trọng như CTTPP, Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) Trong khuôn khổ ASEAN Hội nhập ASEAN bao gồm hai lĩnh vực lớn là hợp tác nội khối và hợp tác với các đối tác bên ngoài. Về Nội khối, từ năm 2003, Việt Nam đã chính thức tham gia AEC, thực hiện các cam kết tự do hóa trên các ngành: nông sản, ô tô, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, điện tử, dệt may, thủy sản, vận tải hàng không, du lịch và y tế. Kết hợp với việc hài hòa cơ chế điều hành thương mại giữa các thành viên. Về ngoại khối, Việt Nam với tư cách thành viên đã tham gia các khuôn khổ FAT ASEAN+1, ASEAN+3, các Hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ. Đây là một số bước đi lớn để Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập trong ASEAN và thông qua ASEAN đã đem lại cho Việt Nam những lợi ích cụ thể như mở rộng thị trường xuất khẩu, tiếp cận được thị trường nội khối với thuế suất hầu hết ở mức 0%, vươn tới các thị trường lớn và các khu vực mà ASEAN đã thiết lập FTA. Đây cũng là con đường tối ưu để nước ta có thể tham gia vào mạng phân công lao động toàn cầu trên cơ sở sử dụng lợi thế cạnh tranh. Cho phép nước ta thu hút ngoại lực và tạo thuận lợi cho sự lưu chuyển vốn, công nghệ, nhân lực để phát triển nhanh, đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Với WTO Sau 11 năm đàm phán, năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này, đánh dấu bước hội nhập sâu của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế toàn cầu, thể hiện cam kết mở cửa, hội nhập và cải cách kinh tế mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam.Việc trở thành thành viên chính thức của WTO có tác động lớn đến kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường và tiếp cận yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ mới với chi phí rẻ hơn; giúp người tiêu dùng hưởng lợi từ việc đa dạng hóa nguồn cung; kim ngạch xuất 97 khẩu tăng đều đặn; cơ cấu xuất khẩu thay đổi tích cực, chuyển dịch dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế biến và kể cả sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao hơn. Với Quỹ tiền tệ thế giới IMF, Việt Nam có mối quan hệ rất tốt đẹp kể từ sau khi nối lại quan hệ. Mặc dù, hiện nay giữa hai bên không còn quan hệ vay vốn, nhưng IMF vẫn rất tích cực tiến hành nhiều hoạt động tư vấn chính sách, hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam hàng năm trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước, ngoại hối, thị trường mở, thanh tra ngân hàng, xác định mục tiêu lạm phát, chống rửa tiền.Ngoài ra IMF còn cử nhiều đoàn tới Việt Nam giúp đánh giá, tư vấn về nhiều lĩnh vực chính sách, cán cân thanh toán, xây dựng dự thảo luật phòng chống rửa tiền. Tư vấn, khuyến nghị chính sách cho Chính phủ và các cơ quan của Việt Nam trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đề ra. Với khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng MeKông và các tam, tứ giác phát triển tiểu vùng, qua đây Việt Nam đã thu hút được nguồn vốn ODA đáng kể cho phát triển hạ tầng, giúp phát triển hệ thống giao thông, thủy điện, thủy lợi, thúc đẩy thương mại, đầu tư trong khu vực, đồng thời triển khai có hiệu quả hơn các chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế, xã hội ở các địa phương Chỉ tính riêng lĩnh vực giao thông - vận tải, có thể kể hàng loạt dự án lớn, có vai trò quan trọng như quốc lộ 1A, quốc lộ 3, 5, 10; đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây; đường xuyên Á TP.HCM - Mộc Bài kết nối với hệ thống đường bộ Campuchia và Thái Lan trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng Mê Kông (GMS); hay hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy, cảng Tiên Sa, Sân bay quốc tế Nội Bài...tạo nguồn lực và môi trường để tăng tiềm lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ. Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế là “tấm vé” để kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam sẽ phát huy vai trò và tiềm năng của đất nước trong quá trình hợp tác 98 và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ mở rộng thị trường, tăng cường hợp tác cùng có lợi để tận dụng tối đa các nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học – công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, giúp Việt Nam phát triển ngày càng nhanh và bền vững. Ví dụ như, các dự án và chương trình được triển khai với nguồn vốn hỗ trợ và vay của WB không chỉ đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, mà còn là sự hỗ trợ hiệu quả đối với Việt Nam trong việc phát triển quan hệ với các tạo định chế kinh tế - tài chính, thương mại khác ở khu vực và trên thế giới như ADB, IMF, WTO, nhất là các hội nghị cam kết tài trợ hàng năm cho Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Trong thời đại ngày nay, thực ra, không quốc gia nào sự phát triển không gắn liền với các quốc gia khác trong và ngoài khu vực. Việc giải quyết vấn đề của đất nước luôn gắn liền với yếu tố quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thì yếu tố bên ngoài, yếu tố ngoại lực đang, vẫn và sẽ tiếp tục là bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển và những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực kinh tế nói riêng và của đất nước ta nói chung trong thời gian qua không thể thiếu trong vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, của ngoại lực. Chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Hội nhập tạo điều kiện cho các quốc gia, không chỉ tham gia vào “sân chơi chung” mà còn có thể liên kết với nhau xây dựng luật chơi, cuộc chơi. Thậm chí, đấu tranh với các quốc gia khác vì lợi ích chung và bình đẳng. Vì vậy, trong hội nhập, về hành động phải chủ động tích cực, khẩn trương không được phép “trì hoãn”. Về nhận thức phải thông suốt, coi hội nhập để phát triển, phát triển để hội nhập tốt hơn, phải có tư duy mới về nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập. Cụ thể là không nên quá đề cao vai trò tự lực, tự cường dẫn tới biệt lập, khép kín. Trái lại, phải có 99 chính sách mềm dẻo, phù hợp với luật pháp, thông lệ, cam kết quốc tế. Muốn vậy, phải tích cực cải cách chính mình cả về phía nhà nước lẫn doanh nghiệp. * Hạn chế Bên cạnh những thành công đã đạt được, giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế của Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất đinh, thể hiện qua những điểm dưới đây: Thứ nhất, trong hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta chưa làm tốt việc đảm bảo độc lập, tự chủ, còn phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường. Chẳng hạn, chúng ta quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc .Theo số liệu của ngành hải quan, năm 2016, tổng giá trị kim ngạch giữa Việt Nam và Trung Quốc cán mức 72 tỉ USD. Còn theo công bố của Tham tán Thương mại Trung Quốc, con số này cao hơn nhiều: 87,84 tỉ USD. Theo đó, Việt Nam xuất 32,96 tỉ USD trong khi nhập từ Trung Quốc 54,88 tỉ USD, nhập siêu lên đến 22 tỉ USD. Dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu song phương Việt - Trung sẽ cán mức 100 tỉ USD/năm vào những năm tới.Trong những sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, Việt Nam nhập đến gần 17 tỉ USD nguyên, phụ liệu dệt may. Trong sản phẩm may mặc của Việt Nam, giá trị nguyên, phụ liệu từ Trung Quốc chiếm đến 50%-65%, tùy theo mặt hàng. Còn về xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản tươi sống của Việt Nam, thị trường Trung Quốc chiếm tỉ lệ áp đảo với dưa hấu, chuối, sắn, cá, thịt heo Có thể thấy Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, thị trường nhập khẩu lớn nhất và nguồn nhập siêu lớn nhất của Việt Nam. Theo Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc, việc phụ thuộc quá mức vào một thị trường xuất - nhập khẩu là một yếu tố rủi ro không thể xem thường. Nếu có biến động từ thị trường đó về nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất thì việc làm, thu nhập của người lao động sẽ gặp khó khăn lớn, kim ngạch xuất khẩu bị giảm sút, tác động tiêu cực đến cân đối thương mại và thanh toán quốc tế. 100 Ngoài ra, nếu thị trường xuất khẩu bị giảm sút hay hạn chế, hàng hóa ứ đọng cũng gây thiệt hại lớn. Thứ hai, từ Trung ương đến địa phương, giữa các bộ ngành, trong giới doanh nghiệp và nhân dân nói chung còn chưa đạt được sự nhất trí cao trong nhận thức và hành động trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số có biểu hiện chủ quan, nóng vội, đơn giản trong khi một số bảo thủ, cầm chừng, lo ngại nhiều đến lợi ích cục bộ. Hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ về mặt kinh tế là sự nghiệp chung của toàn xã hội, song việc triển khai mới chỉ được thực hiện chủ yếu ở một số bộ ngành ở Trung ương. Việc phối hợp giữa các bộ ngành chưa thật chặt chẽ và đồng bộ, do đó quá trình triển khai còn thiếu sự thống nhât, đôi khi còn nặng nề về coi trọng lợi ích cục bộ của bộ ngành mình, làm ảnh hưởng chung đến quá trình hội nhập. Vì vậy, thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tuy đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi lúng túng. Có những biểu hiện của mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tức là phát triển thiếu bền vững của nền kinh tế quốc dân. Ví dụ như nước ta có vùng biển rộng dài, có nhiều đồng mía, có nhiều dân làm muối, có nhiều nhà máy đường, mà có năm phải nhập 200.000 tấn muối, 200.000 tấn đường, mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng. Thứ ba, chúng ta vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, do đó chưa thật sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm độc lập, tự chủ trong quan hệ kinh tế thương mại. Chẳng hạn như, vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu, khiến Việt Nam bị “thua” ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh như gạo, cà phê. Có thể nói, trong những năm qua việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực kinh tế của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hội nhập kinh tế quốc tê đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ 101 bản của nền kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản. Trên thực tế, Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng đẳng cấp không cải thiện. Năng suất, năng lực cạnh tranh chưa có sự cải thiện rõ rệt, nguồn nhân lực vừa thừa (lao động chưa qua đào tạo, thiếu kỹ năng) vừa thiếu (lao động chất lượng cao), chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Thực tế này là một trở lực đối với mục tiêu độc lập, tự chủ về kinh tế. Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện các dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô: các khoản nợ công, nợ của Chính phủ có xu hướng gia tăng, đe dọa trực tiếp an ninh tài chính quốc gia; tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm; hiệu quả đầu tư thấp; sức cạnh tranh của nền kinh tế không được cải thiện... Những điểm đó nói lên rằng, nền kinh tế đã có những bước phát triển nhanh, nhưng nội lực nền kinh tế quốc gia vẫn còn yếu kém và dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi từ bên ngoài. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không luôn đồng nghĩa với nền kinh tế mạnh, nhất là khi Việt Nam đang ở trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt. 3.1.1.2. Trên lĩnh vực Chính trị - Ngoại giao * Thành công Trong những năm qua giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao của Việt Nam đã gặt hái được thành công nhất định như: bình thường hóa và phát triển quan hệ với những nước lớn; đảm bảo được độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế về chính trị - ngoại giao. Cụ thể: - Thứ nhất, bình thường hóa và phát triển quan hệ với các nước lớn: - Quan hệ Việt - Mỹ, chuyển từ đối đầu sang hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình Từ đại hội VII, Đảng ta xác định bình thường hóa quan hệ với Mỹ là chủ trương đối ngoại quan trọng, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Cải thiện 102 quan hệ với Mỹ tạo cơ hội cho nước ta tiếp cận một nền kinh tế thị trường lớn, tiềm lực kinh tế, khoa học – công nghệ mạnh, đồng thời góp phần tạo dựng một môi trường quốc tế hòa bình, ổn định cho nước ta thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế. Mặt khác, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để cải thiện và thúc đẩy quan hệ với các nước khác để nâng cao hơn vị thế trên trường quốc tế. Trên thực tế, sau khi chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam, lập tức các động thái về giao lưu Việt – Mỹ, về quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước được xúc tiến và triển khai. Ngày 3/7/2000 Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chính thức được ký kết, tạo ra một khung khổ pháp lý cần thiết và rõ ràng cho quan hệ hợp tác Việt – Mỹ, đưa quan hệ hợp tác hai nước chính thức đi vào hoạt động trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích của mỗi bên. Hiệp định này thể hiện sự nỗ lực đổi mới và đẩy mạnh mở cửa hội nhập của Việt Nam, sự lựa chọn ưu tiên về hợp tác kinh tế - thương mại và hình thành quan hệ đối tác với các nước lớn và các nước phát triển. Từ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực (11/11/2002), theo báo cáo của Tổng cục Thuế, thuế nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam vào Mỹ giảm 30% đến 40% đã tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Mỹ và chỉ sau 1 năm, xuất khẩu của Việt Nam từ con số 50 triệu USD năm 1994 đã tăng vọt lên gần 1 tỷ USD năm 2001 và 11,4 tỷ USD năm 2009. Điều đáng kể hơn, dưới ảnh hưởng của Hiệp Định hệ thống pháp luật điều tiết nền kinh tế và thương mại Việt Nam đã được sửa đổi, hoàn thiện theo hướng đầy đủ, minh bạch, hợp thông lệ quốc tế và cả khả năng dự báo cao. Từ tăng trưởng quan hệ thương mại, tạo tiền đề để quan hệ hợp tác Việt – Mỹ phát triển mạnh trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, kể cả về quốc phòng an ninh. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO (2006) và Mỹ đã công bố dự luật cấp cho Việt Nam bình thường vĩnh viễn, quan hệ hợp tác hai bên đã đạt tới chuẩn mực chung như mọi quan 103 hệ của Mỹ với nước khác. Chất lượng của quan hệ hợp tác Việt – Mỹ cũng thay đổi căn bản, nhiều trở ngại trong quan hệ thương mại – chính trị giữa hai nước đã được cởi mở. Đáng chú ý là trong những năm gần đây, hai bên trao đổi khá thường xuyên các chuyến thăm viếng chính thức cấp cao nhất. Về phía Việt Nam có các chuyến thăm của Chuyến thăm Mỹ của cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 6/2007; của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 6/2008; của cựu Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tháng 7/2013; của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 7/2015. của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_moi_quan_he_giua_doc_lap_tu_chu_va_hoi_nhap_quoc_te.pdf
Tài liệu liên quan