Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển du lịch: Nghiên cứu trường hợp Cát Bà

PHẦN MỞ ĐẦU. 1

CHưƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU . 8

1.1. Các nghiên cứu nước ngoài về nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm

phát triển du lịch. 8

1.2. Các nghiên cứu của Việt Nam về nâng cao năng lực cạnh tranh du

lịch điểm đến . 13

1.3. Khoảng trống nghiên cứu có thể bổ sung và phát triển . 20

CHưƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC

CẠNH TRANH DU LỊCH. 22

2.1. Khái niệm về du lịch, sản phẩm du lịch và điểm đến du lịch . 22

2.1.1. Khái niệm về du lịch. 22

2.1.2. Sản phẩm du lịch. 23

2.1.3. Điểm đến du lịch . 24

2.2. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh du lịch . 26

2.2.1. Năng lực cạnh tranh . 26

2.2.2. Năng lực cạnh tranh du lịch . 27

2.2.3 Năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch. 29

2.3. Các mô hình lý thuyết về năng lực cạnh tranh du lịch. 32

2.3.1. Mô hình của Kim C. và Dwyer L. (2003). 32

2.3.2. Mô hình của Crouch G.I. (2007) . 34

2.3.3. Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh và tính bền vững của

một điểm đến du lịch của Goffi G. (2012) . 37

2.3.4. Mô hình cạnh tranh điểm đến từ các bên có liên quan Yoon

(2002) . 39

2.3.5. Năng lực cạnh tranh của các hòn đảo du lịch nhỏ đang phát

triển tại Mỹ (Craigwell and More, 2008) . 40

2.3.6. Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh du lịch và lữ hành

(2013 . 40

pdf174 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 368 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển du lịch: Nghiên cứu trường hợp Cát Bà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hùa còn có một số lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm thu hút đông đảo du khách và người dân địa phương tham tham gia như: Lễ hội làng cá Cát Bà, lễ hội cầu ngư của nhân dân thị trấn Cát Hải, lễ hội Xa Mã ở xã Hoàng Châu Lễ hội Làng cá Cát Bà gắn với sự kiện Bác Hồ về thăm làng cá và kỷ niệm ngày truyền thống ngày truyền thống ngành thủy sản Việt Nam được tổ chức và ngày 31.3 và ngày 1.4 dương lịch hàng năm. Lễ hội Làng cá được tổ chức với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống đ c trưng của người dân vùng biển là đua thuyền rồng, đua thuyền thúng, lễ cầu ngư, rước nước, rước kiệu và nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ khác. Lễ hội cầu ngư Cát Bà là lễ hội có truyền thống lâu đời, được tổ chức vào ngày 21 tháng giêng hàng năm. Lễ hội được tổ chức với nhiều hoạt động như: Lễ tế Thủy Thần Long Vương, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa biển bội thu. Vào ngày lễ hội diễn ra, nhân dân ở các xã có tục làm bánh trôi nước để thờ cúng thần linh, tổ tiên và mời bạn bè, du khách ở nơi xa đến chơi và thưởng thức. Hình 3.2. Lễ hội cầu ngƣ Cát Bà 66 - Lễ hội Xa Mã xã Hoàng Châu diễn ra vào ngày 1 .6 âm lịch là hoạt động lễ hội tâm linh lâu đời của của người dân xã Hoàng Châu – Cát Bà. Hoạt động của lễ hội là trò thi kéo ngựa chiến hay còn gọi là xa mã (rước kiệu) giữa các trai tráng trong làng. Lễ hội là sự kiện văn hóa tâm linh để cúng thành hoàng làng, các thanh niên trai tráng trong làng thể hiện sức mạnh và tinh thần thượng võ của dân tộc trong cuộc đấu tranh sinh tồn với tự nhiên và chống ngoại xâm. Các lễ hội của Cát Bà là một trong những tiềm năng nhân văn có giá trị văn hóa đ c sắc để thu hút khách du lịch. Sản phẩm du lịch Các sản phẩm du lịch của Cát Bà hiện nay tập trung chủ yếu vào các nhóm sau: du lịch tham quan, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dư ng, du lịch thể thao, mạo hiểm và du lịch lịch sử văn hóa. Du lịch tham quan Du khách khi đến du lịch Cát Bà s tham quan cảnh quan rừng trong khu vực Vườn quốc gia (VQG) và tham quan cảnh quan biển đảo chủ yếu ở khu vực vịnh Lan Hạ, vụng Việt Hải, vụng Tùng Gấu, khu cửa Cái và quần đảo Long Châu. Tham quan các hang động: Trung Trang, hang Quân Y, động Thiên Long, động Hoa Cương, hang Quả Vàng Tham quan các di tích lịch sử - văn hóa trên đảo (Pháo đài Thần công, di chỉ Cái Bèo, Thành nhà Mạc...) và tham quan một số điểm nuôi trồng thủy sản ở các bè cá khu vực Cái Bèo, vịnh Lan Hạ. Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái dành cho du khách s là những trải nghiệm hệ sinh thái rừng ngập nước trên địa hình núi đá vôi ở Ao Ếch, trên hành trình tuyến tracking Vườn Quốc gia Cát Bà - Việt Hải. 67 Bên cạnh đó, du khách còn được trải nghiệm hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên núi đá vôi bằng việc tham quan rừng Kim Giao; Đỉnh Cao Vọng , Đỉnh Mây Bầu và một số tuyến tracking. Trải nghiệm hệ sinh thái rừng ngập m n Phù Long, quan sát Voọc Cát Bà hiện nay chủ yếu phục vụ phân khúc thị trường rất hẹp là các nhà nghiên cứu, các nhà bảo tồn, l n biển ngắm san hô quanh một số đảo nhỏ ở khu vực hòn Tai Kéo, hòn Ba Rang... trong khu bảo tồn biển Cát Bà. Du lịch cộng đồng Sản phẩm du lịch cộng đồng hướng đến các nội dung chính sau: Tham quan phương thức nuôi trồng thủy, hải sản, trải nghiệm cuộc sống người dân và thưởng thức ẩm thực địa phương ở Phù Long, tham quan phương thức nuôi thủy sản trên các nhà bè, trải nghiệm ẩm thực hải sản ở khu vực vịnh Cát Bà. Tham quan cuộc sống cộng đồng và tìm hiểu phương thức lao động, sản xuất (trồng cây ăn quả, nuôi ong lấy mật) ở Gia Luận. Tham quan cuộc sống cộng đồng và tìm hiểu phương thức canh tác nông nghiệp trồng lúa, trồng rau của cộng đồng ở Việt Hải, du khách được trải nhiệm ở tại nhà dân tại Phù Long, Việt Hải. Du lịch thể thao, mạo hiểm Đối với du lịch thể thao mạo hiểm du khách s được trải nghiệm hoạt động leo vách núi tại khu vực Việt Hải và trên một số đảo nhỏ ở vịnh Lan Hạ. L n biển ở khu vực hòn Tai Kéo, Ba Rang và chèo thuyền Kayak ở Vịnh Lan Hạ. Du lịch nghỉ dƣỡng Cát Bà là nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ dư ng kết hợp chữa bệnh, có thể khai thác các dịch vụ như chèo thuyền Kayak, bóng chuyền bãi biển, câu cá... Cho đến nay, các khu du lịch nghỉ dư ng cao cấp còn chưa nhiều, quy mô hạn chế. Du lịch lịch sử, văn hóa 68 Cát Bà hiện có nhiều sự kiện tín ngư ng, văn hóa, lễ hội đã và đang thu hút đông đảo du khách và nhân dân địa phương tham gia, đây c ng là lợi thế của du lịch Cát Bà. Đến Cát Bà du khách s được tham gia dự các lễ hội như lễ hội ngày Bác Hồ về thăm Làng cá Cát Bà - Cát Hải, lễ cầu Ngư, lễ hội cầu tài cầu lộc đầu năm Đền Hiền Hào) Đối với sản phẩm du lịch thăm quan vẫn còn thiếu những phương tiện vật chất để phục vụ khách hàng như cầu tàu, đường đi bộ, nhà vệ sinh, phương tiện thu gom rác thải, hệ thống bảng chỉ dẫn, cơ sở phục vụ ăn uống. Du lịch sinh thái ở Cát Bà còn đơn điệu và chưa khai thác được hết những tiềm năng của du lịch sinh thái trong khu vực VQG. Cát Bà chưa tổ chức được các hoạt động vui chơi giải trí gắn với những hoạt động giáo dục môi trường, du lịch chuyên đề, hội thảo hội nghị. Các hình thức du lịch cộng đồng của Cát Bà còn đơn giản, chưa thu hút được đông khách du lịch đến tham quan, khách du lịch đến Cát Bà chủ yếu là tắm biển chưa có cơ hội trải nghiệm đầy đủ hơn về các giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng của người dân Cát Bà. Du lịch nghỉ dư ng của Cát Bà còn nghèo nàn, ngoài khu nghỉ dư ng tiêu chuẩn trên đảo Cát Dứa và 2 khu du lịch tiêu chuẩn 4 sao tại thị trấn Cát Bà (khu du lịch đảo Cát Bà và Sunrise) thì các dịch vụ du lịch nghỉ dư ng trên đảo Cát Bà còn đơn giản, chất lượng thấp. Với du lịch thể thao mạo hiểm các cơ quan du lịch ở địa phương chưa có đủ năng lực tổ chức do thiếu những hiểu biết về chuyên môn. Du lịch Cát Bà chưa có sự đầu tư trọng điểm và thích đáng, các cơ sở vui chơi, giải trí, thể thao tổng hợp còn nghèo nàn, lạc hậu. Các tuyến du lịch trên đảo Cát Bà và giữa Cát Bà với Hạ Long chưa được đầu tư và khai thác hiệu quả. Điều này đã làm hạn chế tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn của Cát Bà. 3.1.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch Cát Bà thông qua tiêu chí các nguồn lực phụ trợ 69 Tiêu chí này được đánh giá gồm các khía cạnh: Kết cấu cơ sở hạ tầng, và xúc tiến quảng bá du lịch. - Kết cấu cơ sở hạ tầng Kết cấu hạ tầng tổng thể là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trong phát triển du lịch. Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, điện, nước, bưu chính, viễn thông là những điều kiện tiên quyết trong quá trình khai thác tài nguyên phục vụ du lịch. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, những năm gần đây huyện Cát Hải đã chú trọng đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật: đường giao thông, điện, nước để phát triển du lịch. + Về giao thông Giao thông đường bộ: Huyện Cát Hải có 119,125 km đường bộ, trong đó có 28,04 km đường tỉnh, 48,38 km đường huyện và 29,5 km đường xã. Hệ thống giao thông đường tỉnh, huyện đã được nâng cấp rải nhựa. Toàn bộ hệ thống đường giao thông xã và liên xã đã được bê tông hóa. Hệ thống đường giao thông cơ bản đã đáp ứng phần nào nhu cầu phục vụ dân sinh và phát triển các dịch vụ du lịch. Các tuyến đường giao thông chính ở Cát Bà gồm: Đường du lịch ven biển từ thị trấn Cát Bà đến Cái Viềng qua các xã Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào, Phù Long dài trên 30 km. Đây là tuyến đường du lịch kết hợp dân sinh, là tuyến giao thông chính của huyện Cát Hải. Tuyến đường xuyên đảo Cát Bà – Gia Luận là tuyến đường đạt tiêu chuẩn đường giao thông miền núi có chiều dài 2 km. Tuyến đường Vườn Quốc gia Cát Bà – Cái Viềng có chiều dài 14 km, tuyến đường này góp phần nối tuyến đường du lịch ven biển từ thị trấn Cát Bà đến Cái Viềng tạo thành tuyến giao thông thứ 2 từ Hải Phòng đi đến trung tâm du lịch Cát Bà. 70 Bên cạnh hệ thống đường bộ trên đảo, một số hạ tầng giao thông quan trọng đối với phát triển du lịch Cát Bà bao gồm: Cầu Đình V – Cát Hải (khánh thành tháng 9 năm 2 17,) một trong những cầu vượt biển dài nhất Việt Nam với tổng chiều dài 5,44km đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đường Tân V – Lạch Huyện, thành phố Hải Phòng là một trong hai hợp phần chính của Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cảng Lạch Huyện, cảng cửa ngõ quốc tế và tương lai s là cảng trung chuyển quốc tế đầu tiên của miền Bắc Việt Nam.. Dự án có tổng chiều dài là 15,63km với điểm đầu tại nút giao Tân V giao với đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, điểm cuối tiếp giáp với cổng cảng Lạch Huyện, trong đó riêng phần cầu vượt biển dài 5,443km. Đường Tân V – Lạch Huyện góp phần kết nối và phát triển kinh tế ven biển của thành phố, góp phần làm tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư cho những dự án nằm trong chương trình phát triển khu kinh tế Đình V - Cát Hải. Tuyến đường góp phần giảm chi phí và thời gian đi lại, giảm tai nạn, rủi ro do vận chuyển bằng phà và sà lan, giảm tai nạn và sự tắc ngh n giao thông hàng hải tại kênh Nam Triệu, qua đó thúc đẩy các hoạt động du lịch tại đảo Cát Bà – khu dự tữ sinh quyển thế giới đã được UNESCO công nhận. Bên cạnh đường bộ, đường thủy và đường hàng không c ng là sự lựa chọn của nhiều du khách khi đi du lịch Cát Bà. Giao thông đường thủy: do điều kiện tự nhiên của Cát Bà đ c thù là biển đảo nên giao thông đường thủy là nét đ c sắc của du lịch Cát Bà. Giao thông đường thủy đến với Cát Bà bao gồm các tuyến: Bến Bính – thị trấn Cát Bà; Hải Phòng – Cát Hải – Cát Bà đi qua 2 phà Đình V – Ninh Tiếp và Bến Gót – Cái Viềng; Gia Luận – Tuần Châu; Liên vận kết hợp chạy xe ô tô và tàu thủy ở tuyến Hải Phòng – Cát Bà. So với trước đây, đội tàu vận tải du lịch đã phát triển theo hướng hiện đại và hoạt động có hiệu quả. Chủ các phương tiện đã tích cực đóng mới, nâng cấp các phương tiện phục vụ đa dạng như cầu dịch vụ của du khách, 71 nhiều tàu vận tải đã có buồng cho du khách lưu trú qua đêm, thăm quan và thưởng thức ẩm thực trên Vịnh. Đường hàng không, tại đỉnh cao 177 cách trung tâm thị trấn Cát Bà 1km có một sân bay trực thăng bảo đảm đầy đủ các yêu cầu về kỹ thuật để các máy bay trực thăng hoạt động an toàn, hiện nay sân bay trực thăng này vẫn đang được sử dụng. Hiện nay trên địa bàn huyện c ng có 196 phương tiện tàu, xe ô tô vận chuyển khách du lịch, trong đó có 31 tàu lưu trú nghỉ đêm trên vịnh. Đ c biệt sau khi có cầu Đình V – Cát Hải, nhiều doanh nghiệp vận tải c ng đã chuyển sang khai thác tuyến mới Cát Bà – Hà Nội, Cát Bà – Lào Cai, Cát Bà – Nam Định góp phần kết nối du lịch các vùng miền, tạo sự thuận tiện về giao thông cho du khách và dân cư trên đảo. + Hệ thống bưu chính viễn thông và cung cấp điện, nước: Hệ thống bưu chính viễn thông: hiện nay trên địa bàn huyện Cát Hải có 1 các xã có điểm bưu điện – văn hóa xã, hệ thống mạng lưới thông tin liên lạc từ thành phố tới huyện và từ huyện đến xã được đảm bảo thông suốt. Trong đó, mạng di động Vinaphone, Mobile phone và mạng Viettel đã được phủ sóng toàn bộ trên địa bàn đảo của quần đào Cát Bà. Bên cạnh đó, hệ thống đường truyền cáp quang internet tốc độ cao c ng đã được kết nối đến Cát Bà, bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ sử dụng Internet cho người sử dụng. Từ năm 2013, tại trung tâm du lịch Cát Bà WiFi tốc độ cao miễn phí cho người sử dụng đã được lắp đ t. Toàn huyện Cát Hải cho đến thời điểm năm 2 17 có 3.426 máy điện thoại, bình quân 12.5 máy 1 dân. Tuy nhiên các sản phẩm bưu chính viễn thông và chất lượng phục vụ còn hạn chế, tính chuyên nghiệp chưa cao. Hệ thống cung cấp điện và cấp thoát nước: kể từ năm 2008, dự án đường giây tải điện 35 KV đã hoàn thành và đưa điện lưới quốc gia về Cát Bà. Hiện nay dự án đường dây tải điện 110kv Chợ Rộc (Quảng Ninh) - Cát Bà đang được gấp rút hoàn thành, s bảo đảm nguồn cung cấp điện ổn 72 định cho khu vực đảo Cát Bà. Dịch vụ điện nếu cung ứng tốt s góp phần tạo động lực thúc đẩy ngành du lịch Cát Bà phát triển. Nguồn nước sử dụng ở Cát Bà hiện nay, chủ yếu là nguồn nước ngầm và nước suối được khai thác trực tiếp tại đảo Cát Bà. Tuy nhiên, lượng nước ngọt này không đủ cung cấp cho người dân và du khách trên quần đảo Cát Bà, một số giếng nước tại khu Suối Gôi, Liên Xô, Áng Vả, Núi Một và các hồ chứa nước ngọt đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Đ c biệt, hồ Trân Châu đã cạn trơ đáy vào mùa hè năm 2 18 do ít mưa, trong khi đó lượng khách du lịch tăng đột biến nên nguồn nước ngọt đã không cung cấp đủ cho nhu cầu sử dụng của người dân và du khách. Trước thực trạng trên, công ty cấp nước Hải Phòng đã phải khoan hai giếng khoan tại khu vực xã Hải Sơn, nằm trong vườn quốc gia Cát Bà, đồng thời sử dụng tàu vận chuyển nước ngọt từ nội thành ra đảo. Quãng đường di chuyển xa hơn 4 km nên mỗi ngày đơn vị c ng chỉ vận chuyển được 6 m3 nước ngọt song ưu tiên cho các bãi tắm: Cát Cò 1 và Cát Cò 2. Hiện nay trên địa bàn huyện có 4 hồ chứa nước ngọt, trong đó có một hồ chứa đã hoàn thành và đưa vào sử dụng với dung tích hồ chứa từ 250.000m 3 đến 28 . m3. Có 3 hồ chứa đang được triển khai xây dựng tại xã Trân Châu, Xuân Đám và Phù Long theo Quyết định số 439 QĐ – TTg ngày 3 1 2 9 của Thủ tướng Chính Phủ. Các dự này sau khi hoàn thành s nâng tổng dung tích các hồ chứa nước ngọt trên đảo Cát Bà là 1. 24.85 m3, với trữ lượng này nguồn nước s đảm bảo cung cấp đầy cho nhu cầu sử dụng của người dân c ng như du khách ở khu vực đảo Cát Bà. Những hạn chế của kết cấu hạ tầng du lịch: + Hệ thống đường cống ngầm thoát nước tại khu trung tâm du lịch Cát Bà được xây dựng đưa vào sử dụng đã nhiều năm, công suất thiết kế chỉ đạt hơn 1 nghìn m3 ngày và chỉ đáp ứng , xử lý tiêu thoát nước thải cùng lúc tối đa cho khoảng 1 nghìn người. Tuy nhiên, do lượng khách du lịch đến Cát Bà 6 tháng đầu năm 2 18 tăng đột biến, có ngày cao điểm lên đến 2 nghìn lượt 73 khách. Đ c biệt, thời gian từ 17h đến 19h, do lượng khách đi tắm biển về các cơ sở lưu trú đông, đều sử dụng nước để tắm tráng nên nước xả ra hệ thống đường cống ngầm cùng một lúc dẫn đến quá tải, hệ thống trạm xử lý nước thải không kịp xử lý, tiêu thoát. Điều này đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở Cát Bà. Không những hệ thống thoát nước xuống cấp mà lượng nước cung ứng c ng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng thực tế. Năm 2 18 do ít mưa, trong khi đó lượng khách du lịch lại tăng đột biến nên nguồn nước ngọt đã không cung cấp đủ cho nhu cầu sử dụng của người dân và du khách. + Giao thông đường bộ tiếp cận đảo hiện là một trong những “nút thắt” kìm hãm sự phát triển của du lịch Cát Bà. Trong 6 tháng đầu năm 2 18, khách du lịch đổ về đảo Cát Bà (qua phà Gót (nối giữa đảo Cát Hải với đảo Cát Bà) tăng đột biến, từ thứ 2 đến thứ 5 mỗi ngày có khoảng 6 - 700 ôtô qua phà, 400 - 5 môtô, xe máy và khoảng 5. - 8. khách đến Cát Bà. Vào những ngày cuối tuần, từ sáng sớm thứ sáu đến chiều muộn, lúc cao điểm có tới cả nghìn ô tô các loại vượt qua cầu Tân V - Lạch Huyện để tới bến phà Gót. Có thời điểm lượng xe và khách tăng lên 1 lần so với trước khiến phà Gót luôn trong tình trạng quá tải, người xe xếp hàng dài cả vài cây số, hình ảnh ùn xe diễn ra tương tự với chiều về vào ngày chủ nhật. Từ thứ 6 đến chủ nhật là thời gian cao điểm, lượng khách tăng đột biến từ 1.3 đến 1.5 người mỗi ngày. Các phương tiện di chuyển c ng tăng gấp đôi so với ngày thường khiến đường vào thị trấn Cát Bà tuần nào c ng trong tình trạng “quá tải”. Tình trạng ùn tắc thường diễn ra tại bến phà Gót - Cái Viềng, du khách thường bị kẹt lại ở khu vực này do phải xếp hàng chờ lên phà. Hiện tại đường xuống phà hẹp, dài 1 m, m t bến chỉ có thể đáp ứng hai phà to và một phà bé vào bến cùng lúc5. 5 VNExpress, Vì sao Cát Bà “thất thủ” vào cuối tuần, https://dulich.vnexpress.net/tin-tuc/viet-nam/hai- phong/vi-sao-cat-ba-that-thu-vao-cuoi-tuan-3763560.html (16/6/2018). 74 Hình 3.3. Giao thông “ùn tắc” ở Cát Bà Kết cấu hạ tầng du lịch trên đảo còn thiếu đồng bộ; công tác cứu hộ, cứu nạn tại các bãi tắm còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn; lao động ngành du lịch còn thiếu tính chuyên nghiệp Thời gian tới nếu Cát Bà không tiếp tục có những nỗ lực để cải thiện những điều kiện về kết cấu hạ tầng như giao thông, điện nước thì đây s là nhân tố làm giảm năng lực cạnh tranh của du lịch điểm đến Cát Bà. - c tiến quảng á du lịch Trong thời gian qua Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã có nhiều nỗ lực trong việc tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến các hoạt động du lịch để du khách có nhiều cơ hội nhận biết hình ảnh điểm đến hơn. Huyện Cát Bà đã phối hợp Sở Du lịch Hải Phòng và Công ty TNHH Truyền thông Chuyển động trên VTV1, VTV3; Trung tâm Sản xuất chương trình Giáo dục (VTV7) để thực hiện nhiều chương trình quảng bá cho hoạt động du lịch ở Cát Bà như: sản xuất chương trình “Follow us” về “Du lịch biển đảo”; Ban Truyền hình Đối ngoại (VTV4) sản suất chương trình “Núi sông bờ cõi”; Kênh truyền hình Nông nghiệp-Nông thôn (VTC16) chương trình “Cuộc sống nhà nông”; Kênh 75 VTV4 chương trình “Món quà của biển”; Kênh VTC14 (Đài truyền hình kỹ thuật số VTC) chương trình “Biển đảo Việt Nam”. Cho đến hết năm 2 17 Cát Bà đã thực hiện trên 2 phóng sự quảng bá về du lịch Cát Bà trên các kênh Đài truyền hình Việt Nam, Đài truyền hình Hải Phòng, 12 chuyên đề trên các báo Trung ương, báo Hải Phòng, báo An ninh Hải Phòng. Không những thế huyện Cát Hải đã có chủ trương chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho Hội doanh nghiệp - doanh nhân huyện Cát Hải tham gia quản lý các hoạt động du lịch dịch vụ trên địa bàn, tuyên truyền xây dựng thương hiệu “Cát Bà xanh”, tham gia xây dựng văn hóa giao tiếp, văn minh với khách du lịch; quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp. Tham gia Hội chợ Du lịch quốc tế thành phố Hồ Chí Minh (ITE-HCMC) từ ngày 6 8 đến ngày 1 8 2 17. Phát hành 2 đ a DVD “Cát Bà xanh - Điểm hẹn mùa Thu”, hàng trăm tờ gấp song ngữ Anh - Việt giới thiệu về du lịch, bản đồ du lịch, sách thuyết minh giới thiệu các điểm du lịch Cát Bà tại Hội chợ. Huyện Cát Hải c ng đã phối hợp với Hội Kiến trúc sư Việt Nam tổ chức chấm thi vòng 3 Chung khảo Cuộc thi sáng tác Biểu trưng và Logo du lịch Cát Bà. Tổ chức thành công các hoạt động trong dịp Lễ đón vị khách du lịch thứ 2 triệu đến Cát Bà năm 2 17 và xuất bản cuốn sách song ngữ Anh- Việt “Cẩm nang thuyết minh giới thiệu các điểm du lịch lịch Cát Bà”. Trong những năm gần đây Cát Bà đã thu hút được du khách trong nước và quốc tế đến thăm quan nghỉ dư ng nhiều hơn giai đoạn trước. Giai đoạn 2013 – 2 17, Cát Bà đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng phục vụ, xây dựng môi trường du lịch văn minh, lịch sự, mang lại sự hài lòng cao nhất cho du khách bằng việc nâng cấp cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch, đẩy mạnh việc xúc tiến và quảng bá du lịch, quản lý ch t ch về giá cả thị trường, giá phòng lưu trú c ng như dịch vụ ăn uống, đẩy mạnh công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn bãi tắm, an toàn vệ sinh thực phẩm, 76 vệ sinh môi trường và chỉnh trang cảnh quan khu du lịch. Những giải pháp đồng bộ này đã khiến cho lượt du khách đến Cát Bà tăng nhanh qua các năm. Năm 2017, lượng khách đến Cát Bà đạt 2.160.000 lượt, tăng 25,43% so với năm 2016. Trong đó, khách quốc tế tăng mạnh với 477.500 lượt, tăng 23,96% so với năm 2016. Tính đến hết tháng 5 2 18, đảo Cát Bà đón 935. lượt khách, tăng 6 so với cùng kỳ, đ c biệt trong dịp nghỉ lễ 3 .4 và 1.5 Cát Bà đã đón gần 9 vạn lượt khách du lịch. Tổng lượt khách du lịch vượt chỉ tiêu 2 triệu lượt khách trước 3 năm so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Cát Hải nhiệm kỳ 2015-2 2 đề ra. Hình 3.4. Khách du lịch nội địa đến Cát Bà giai đoạn 2013 - 2017 (lƣợt khách) Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải Không những lượng khách nội địa lượng khách quốc tế đến Cát Bà c ng tăng mạnh trong giai đoạn 2 13 – 2 17. Năm 2 17, lượng khách quốc tế đến Cát Bà đạt 477.500 lượt người, tăng 23,96% so với năm 2016. 77 Hình 3.5. Khách du lịch quốc tế đến Cát Bà giai đoạn 2013 - 2017 (lƣợt khách) Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải Du lịch Cát Bà có sự tăng trưởng hơn so với giai đoạn trước cả về lượng khách lẫn cơ sở vật chất du lịch, tạo ra nguồn thu cho ngân sách của huyện Cát Hải. Nếu như năm 2 13 doanh thu từ du lịch chỉ đạt 541 tỷ đồng đến năm 2 17 doanh thu từ du lịch đã tăng hơn 2 lần đạt 1.25 tỷ đồng (Hình 3.6). Hình 3.6. Doanh thu từ du lịch Cát Bà 2013 – 2017 (tỷ đồng) Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải 78 M c dù đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên cho đến nay khả năng tiếp cận điểm đến Cát Bà chưa thuận lợi vì vậy nhìn chung sự phát triển du lịch Cát Bà còn dưới mức tiềm năng. Khách du lịch biết đến Cát Bà chủ yếu qua kênh thông tin “truyền miệng” là chính, còn qua các kênh khác như triển lãm hội trợ du lịch, internet, tờ rơi sách báo và đại lý các công ty du lịch vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. 3.1.4. Đánh giá năng lực cạnh tranh du lịch thông qua tiêu chí Chính sách du lịch, hoạch định, phát triển Tiêu chí này được đánh giá gồm quản lý nhà nước về du lịch, quản lý quảng bá du lịch địa phương, xây dựng và ban hành chính sách, lập kế hoạch và quản lý phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực, quản lý môi trường. - Quản lý nhà nước về du lịch Hiện nay ở Việt Nam, du lịch đã được Đảng và Nhà nước xác định là ngành kinh tế m i nhọn góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để cụ thể hóa mục tiêu này, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường thể chế để thúc đẩy các hoạt động du lịch phát triển. Cụ thể, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 8 2 17 NQ - TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế m i nhọn. Nghị quyết 8 chỉ rõ: “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác”. Nghị quyết 8 đã sự chuyển biến lớn về nhận thức khi coi trọng vị trí của kinh tế du lịch với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế. Để cụ thể hóa Nghị quyết số 8 của Bộ Chính trị, ngày 6 1 2 17 Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết số 1 3 2 17 NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính Phủ thực hiện Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 16 1 2 17 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du lịch trở thành ngành 79 kinh tế m i nhọn. Nghị quyết số 1 3 đã xác định tám nhiệm vụ cần triển khai thực hiện để thúc đẩy du lịch phát triển gồm:  Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch.  Cơ cấu lại ngành du lịch.  Hoàn thiện thể chế, chính sách.  Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch.  Xúc tiến quảng bá du lịch.  Tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng và doanh nghiệp phát triển du lịch.  Phát triển nguồn nhân lực du lịch.  Tăng cường quản lý nhà nước về du lịch. Bên cạnh đó, Luật Du lịch sửa đổi năm 2 17 đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam phát triển. Điểm mới của Luật du lịch sửa đổi 2 17 đã coi khách du lịch là trọng tâm trong mọi hoạt động du lịch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, coi trọng trình độ và trách nhiệm của hướng dẫn viên du lịch. Với những đổi mới về thể chế trong ngành du lịch, nhiều nguồn lực xã hội đã được huy động, sử dụng phục vụ sự nghiệp phát triển du lịch và thực tế đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đồng thời, các địa phương được trao khá nhiều quyền tự chủ trong việc lên kế hoạch khai thác những lợi thế của mình để phát triển du lịch. Là một địa phương có nhiều tiểm năng phát triển du lịch, giai đoạn 2014 – 2 17 Hải Phòng đã có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường thể chế để thúc đẩy các hoạt động du lịch phát triển du lịch của thành phố nói chung và đ c biệt là du lịch cát Bà, theo đó: 80 Ngày 5 12 2 14, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã phê duyệt Quyết định số 2732 2 14 QĐ – UBND về quy hoạch tổng thể phát triển du lịch bền vững quần đảo Cát Bà đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Tiếp theo, tháng 8 2 16, Hải Phòng đã công bố quy hoạch xây dựng Cát Hải thành “Đảo thông minh”. Tổng diện tích được quy hoạch trên 5. 7 ha, trong đó, khu đảo Cát Hải (cả diện tích tự nhiên và phần lấn biển) khoảng 2.65 ha; khu cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng và khu phi thuế quan khoảng 2.357 ha. Cát Hải được xác định s trở thành thành phố công nghiệp với các cảng, công trình quy mô lớn, đóng vai trò là cửa ngõ của miền Bắc. Cảng Lạch Huyện là cảng quốc tế có công suất lớn, chiều dài bến 75 m, có thể đón được tàu có trọng tải hàng trăm ngàn tấn. Đồ án quy hoạch c ng đề ra mục tiêu phát triển “Đảo thông minh” theo mô hình hợp nhất và cân bằng ở 3 phương diện xã hội, kinh tế và môi trường, nhằm hướng tới phát triển bền vững... Quy hoạch này s được thực hiện theo 4 giai đoạn, từ năm 2017-2 3 và sau năm 2 3 . Ngày 19 1 2 17, UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành Quyết đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_de_phat_trien_du_lich_n.pdf
Tài liệu liên quan