MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1. Các công trình nghiên cứu về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý 5
2. Các công trình đề cập đến năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hà Giang nói riêng 15
3. Khái quát kết quả các công trình đã tổng quan và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu 26
Chương 1: NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 30
1.1. Khái niệm năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số 30
1.1.1. Khái niệm năng lực tổ chức thực tiễn 30
1.1.2. Thành tố cấu thành và nhân tố tác động đến năng lực tổ chức thực tiễn 34
1.1.3. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS 37
1.1.4. Khái niệm năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS 42
1.2. Đặc điểm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số 52
1.2.1. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý là quá trình bổ sung, hoàn thiện tổng thể các yếu tố cấu thành năng lực tổ chức thực tiễn ở người lãnh đạo, quản lý 52
1.2.2. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo quản lý cấp huyện người DTTS là quá trình tương tác hợp quy luật giữa chủ thể và khách thể trong lãnh đạo, quản lý 55
Tiểu kết chương 1 58
Chương 2: NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 61
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay 61
2.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiện và kinh tế - xã hội 61
2.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa tộc người và trình độ học vấn 63
2.2. Thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang 68
2.2.1. Đánh giá về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang 68
2.2.2. Ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang 76
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang 89
2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay 105
2.3.1. Mâu thuẫn giữa đổi mới nhận thức về nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS với thực tế còn hạn chế của các chủ thể trong quá trình thực hiện nội dung này 105
2.3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS với thực tế trình độ, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý 106
2.3.3. Mâu thuẫn giữa điều chỉnh, bổ sung về chính sách đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với thực tế, đồng thời khắc phục những bất cập trong thực hiện chính sách cán bộ ở tỉnh Hà Giang 108
2.3.4. Mâu thuẫn giữa cơ chế đào tạo, bồi dưỡng hiện nay với thực tế công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS 111
2.3.5. Mâu thuẫn giữa tính phân tán và tính tập trung trong việc thực hiện các nội dung phát triển nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS 112
2.3.6. Mâu thuẫn giữa yêu cầu, mục tiêu thực hiện dân chủ của Đảng và Nhà nước với thực tế thực hiện dân chủ ở tỉnh Hà Giang hiện nay 114
Tiểu kết chương 2 115
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY 117
3.1. Quan điểm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang 117
3.1.1. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS phải gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Hà Giang 117
3.1.2. Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS cần dựa trên nguyên tắc coi trọng về số lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ DTTS hợp lý, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, bền vững 119
3.2. Một số giải pháp nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang hiện nay 124
3.2.1. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi yếu tố quan trọng nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay 124
3.2.2. Nâng cao trình độ học vấn nói chung và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực tổ chức thực tiễn nói riêng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay 129
3.2.3. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập ở tỉnh Hà Giang nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS 135
3.2.4. Đổi mới cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ở tỉnh Hà Giang 137
3.2.5. Xây dựng Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và cơ chế tự chủ để tạo điều kiện nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang 141
3.2.6. Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS trong nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn hiện nay 144
Tiểu kết chương 3 147
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC
200 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở tỉnh hà giang hiện nay - Nguyễn Hoàng Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một là, thực trạng giải quyết vấn đề theo chức trách, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS được thể hiện thường xuyên qua hoạt động học tập, rèn luyện, những nội dung có liên quan đến công tác xây dựng đảng, công tác tư tưởng với nhận thức, hoạt động của cơ quan và vấn đề cấp bách đang nảy sinh cần giải quyết,... đạt được thành công nhất định. Qua khảo sát các cơ quan, đơn vị, địa phương có đến 80% phù hợp; có 20% chưa phù hợp (xem phụ lục 2). Việc giải quyết các vấn đề nảy sinh, đã được cán bộ lãnh đạo, quản lý thường xuyên giải quyết với tinh thần phát huy trách nhiệm, kiên trì, say mê và có phương pháp khoa học. Do đó, chất lượng, hiệu quả tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ngày càng được nâng lên. Họ có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc về nhiệm vụ, chức trách được giao, thường xuyên quan tâm và trực tiếp đến hoạt động quản lý điều hành chính quyền; đến tư tưởng, tâm lý, lập trường quan điểm của cán bộ, đảng viên dưới quyền. Kịp thời giải quyết vấn đề được nảy sinh trong học tập, rèn luyện, đồng thời chủ động phát huy nghệ thuật dẫn dắt, lôi cuốn cấp dưới và nhân dân tham gia tích cực các phong trào, hoạt động ở địa phương, do đó đã góp phần vào kết quả nhiệm vụ được giao. Qua khảo sát đánh giá, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS: “Tốt" 20%, “khá" là 46%, “trung bình" đạt 45%; “yếu" là 0,8% (xem phụ lục 2, mục I). Tính quyết đoán, sáng tạo trong giải quyết các tình huống của họ thể hiện trong việc xử lý mềm dẻo, linh hoạt các tình huống công tác xây dựng đảng, quản lý nhà nước ở địa phương, kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục, quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước với định hướng phát triển đạo đức, nhân cách cho cán bộ, đảng viên, công chức thực hiện các nhiệm vụ; giải quyết tốt mối quan hệ tại địa phương ngày càng thể hiện rõ năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, lãnh đạo quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang hiện nay.
Hai là, việc đánh giá của cán bộ có thẩm quyền cấp tỉnh về năng lực xử lý các tình huống lãnh đạo, quản lý ở cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang cụ thể như sau:
Biểu đồ 2.2. Đánh giá của cán bộ cấp trên có thẩm quyền về năng lực xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý ở cán bộ, lãnh đạo quản lý cấp huyện người DTTS
Biểu 2.3.Về hiệu quả (mức độ đáp ứng yêu cầu)
của việc xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý
Được đánh giá ở mức trung bình, không có yếu, so với một số năng lực khác, năng lực xử lý tình huống và hiệu quả thể hiện năng lực đó của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang được cán bộ cấp tỉnh đánh giá khá cao (xem phụ lục 1, mục I). Như vậy, về cơ bản, đa số họ thể hiện được năng lực xử lý tình huống lãnh đạo, quản lý. Điều này cũng đã được cấp tỉnh nhận xét tương đối tốt, nhờ vậy trong những năm qua miền núi ở tỉnh Hà Giang đã không diễn ra các “điểm nóng” chính trị từ khi mới manh nha và để lại hậu quả nghiêm trọng như một số vùng khác trong nước, mặc dù nơi đây vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ nảy sinh bất ổn về tôn giáo, xâm phạm biên giới trái phép, các hoạt động chống phá vùng biên,
Ba là, năng lực vận động quần chúng của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS đã có sự tiến bộ về mặt nhận thức, coi nội dung này có vị trí rất quan trọng, cụ thể:
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang tự nhận thức được vai trò quan trọng về năng lực vận động quần chúng nhân dân. Qua khảo sát có đến 74,51% cho rằng “rất cần thiết”, vì đây là yếu tố cơ bản khi người cán bộ nhận thức rõ và có khả năng phổ biến, giải thích, hướng dẫn đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ dưới quyền và nhân dân hiệu quả; chỉ có 23,53% cho rằng năng lực này là “cần thiết”. Ý kiến của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp tỉnh đánh giá về nội dung này đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang, có tới 100% số người được hỏi cho rằng đây là năng lực “cần thiết” và “rất cần thiết”, đánh giá nội dung này tương đối tốt ở địa phương. Có 47,05% đối tượng thuộc diện khảo sát ở cấp huyện cho rằng “rất cần thiết” và 50,99% cho rằng “cần thiết”; cho thấy đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ nhận thức đến hành động là cần phải có khả năng tập hợp, lôi cuốn, tác động đến tâm lý, hành vi quần chúng. Khi nêu câu hỏi:“Theo đồng chí, khả năng tập hợp các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham gia giải quyết các nhiệm vụ được giao cần thiết đến mức nào đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện là người DTTS miền núi Hà Giang”, có tới 45,1% trả lời “rất cần thiết”, và 52,94% cho rằng là “cần thiết”, chỉ có 1,96% cho rằng “không cần thiết”. Từ thực tiễn cấp huyện miền núi, biên giới ở tỉnh Hà Giang, yêu cầu nâng cao năng lực vận động quần chúng đặt ra rất quan trọng, các huyện biên giới tiềm ẩn các điểm nóng, trong đó, những điểm nóng thường xẩy ra lần lượt là: Tranh chấp đất đai, nhà cửa (70,0%); xâm lấn biên giới dưới các hình thức (49,02%); kinh tế (45,1%); an ninh (33,33%); tôn giáo (28,0%); tín ngưỡng, phong tục (20,0%); dân tộc (8,0%),..; những yếu tố tiềm ẩn “điểm nóng” đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS phải thực hiện tốt công tác vận động quần chúng và trực tiếp tác động đến nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Đánh giá năng lực vận động quần chúng của họ ở miền núi. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh cho rằng 17,0% có năng lực tốt; có 35,0% là khá và có 45,0% nhận xét ở mức trung bình; chỉ có 3,0% là yếu. Như vậy, phần lớn đã đáp ứng được yêu cầu công tác dân vận, thể hiện rõ như sau:
Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS được điều tra cho rằng biện pháp giải quyết điểm nóng đạt hiệu quả cao với 74,51% là tuyên truyền, giáo dục, hòa giải, vận động quần chúng, trong khi đó chỉ có 21,57% tán thành biện pháp hành chính và 17,65% tán đồng biện pháp kinh tế. Điều này phản ánh không chỉ nhận thức của cán bộ khi được hỏi mà còn phản ánh kinh nghiệm qua thực tế giải quyết điểm nóng ở bản thân họ. Dựa vào quần chúng, vận động, giải thích để giải quyết các yếu tố điểm nóng “ manh nha" trên thực tế ở các huyện cho thấy khi có phương pháp đúng và đạt hiệu quả cao trong vận dụng năng lực này. Sự lựa chọn các phương án của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang đã phản ánh ở trên nói lên một khía cạnh năng lực vận động quần chúng của họ ở mức khá.
Bốn là, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang thường xuyên sâu sát cơ sở. Qua khảo sát có đến 73,0% số người được hỏi thường xuyên xuống cơ sở, các đơn vị bản, làng, cư dân, có 91,0% xuống cơ sở khi tự mình nhận thấy nhu cầu phải xuống chứ không nhất thiết phải đợi cấp trên hoặc cơ sở yêu cầu, có 52% đến cơ sở để tìm hiểu ý kiến quần chúng chứ không nhất thiết phải theo kế hoạch, chương trình công tác,...; đây là điều đáng quan tâm khi điều kiện giao thông đi lại ở vùng cao miền núi, biên giới hết sức khó khăn, xa trung tâm, có 2% đi ngựa, xe máy là 60% xuống cơ sở, số cán bộ phụ trách địa bàn cách trung tâm thị trấn từ 10-60 km. Khi được hỏi:“Những hình thức công tác nào là quan trọng nhất khi thực hiện vận động quần chúng?”, có 82,05% cho rằng trực tiếp xuống cơ sở nắm tình hình, trong khi đó chỉ có 54,01% cho rằng phải lãnh đạo đoàn thể để nắm tình hình và 67,05% cho rằng thể hiện ở việc tiếp dân tại trụ sở làm việc. Điều này thể hiện sự đa dạng phong phú về hình thức trong vận động quần chúng nhân dân.
2.2.2.4. Năng lực kiểm tra và sơ - tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, các quyết định lãnh đạo, quản lý tại địa phương
Công tác kiểm tra không chỉ có ý nghĩa nâng cao hiệu quả, tiến độ tổ chức thực hiện mà còn là một kênh phản hồi quan trọng về tính đúng đắn của quyết định, bảo đảm cho quyết định được thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn đồng thời để người cán bộ kịp thời điều chỉnh và kiểm nghiệm các quyết định, có biện pháp uốn nắn quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể:
Một là, đánh giá về năng lực kiểm tra của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, các đồng chí lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh cho rằng: Có đến 81% đánh giá “tốt” và 46,3% ở mức“khá”; có 45,5% ở mức “trung bình” và chỉ có 8,1% “yếu”, không có “xuất sắc”, như vậy, đại đa số đạt ở mức đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nhận thức về tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát trong số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện được hỏi có 47,05% cho rằng đây là một năng lực “rất cần thiết”; có 50,99% cho rằng đây là năng lực “cần thiết”, chỉ 1,96% cho rằng đây là năng lực “không cần thiết”. Đáng chú ý là tỷ lệ cán bộ coi năng lực này là “rất cần thiết” thấp hơn nhiều so các năng lực khác. Bên cạnh đó, khi đề cập đến việc phát hiện các vụ việc vi phạm trên địa bàn nơi mình quản lý, số người cho rằng từ nguồn do quần chúng phát hiện đến 71,75% ; do cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện có 62,75%; cơ quan báo chí phát hiện có 15%; thấp nhất là do Kiểm tra Đảng phát hiện là 50,98%. Điều này cho thấy, cán bộ lãnh đạo, quản lý đã quan tâm dựa vào nhân dân và nhiều kênh khác trong việc phát hiện dấu hiệu vi phạm, song cũng phản ánh hiệu quả phát hiện dấu hiệu chưa cao của công tác kiểm tra Đảng. Bên cạnh đó, việc có đến 72,55% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS thường xuyên xuống cơ sở, tìm hiểu thông tin bức xúc về tình hình; cán bộ trực tiếp xuống cơ sở nắm tình hình là 82,35%, nội dung này đã minh chứng đã có sự sâu sát quan tâm tới công tác kiểm tra trong quá trình tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang. Về các hình thức kiểm tra mà cán bộ lãnh đạo, quản lý thường xuyên tiến hành thực hiện, qua khảo sát cho thấy, hình thức kiểm tra thường xuyên chiếm ưu thế là 88,24%, tiếp đến là kiểm tra đột xuất là 23,52% và kiểm tra định kỳ là 17,65%. Khi phát hiện các tình huống có vấn đề cần kiểm tra có 37,25% cán bộ lãnh đạo, quản lý được hỏi tự tiến hành kiểm tra, có 43,14% phân công cấp dưới thực hiện kiểm tra, có 88,24% chỉ đạo cơ quan chuyên trách tiến hành kiểm tra.
Hai là, công tác sơ - tổng kết việc chỉ đạo thực hiện là một khâu công việc quan trọng trong quy trình lãnh đạo quản lý và là năng lực rất cần thiết đối với cán bộ, lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang, qua khảo sát ý kiến đánh giá của lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, có 18,2% cho rằng cấp huyện có nhiều đóng góp kinh nghiệm, ý kiến đối với quyết sách của tỉnh và Trung ương, có đến 81,8% cho rằng cấp huyện có đóng góp ý kiến, song còn ít. Công tác sơ - tổng kết được phản ánh khá rõ trong các báo cáo tổng kết các nhiệm kỳ đại hội, có 74,51% số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS được hỏi và qua đánh giá của báo cáo chính trị các kỳ đại hội cấp huyện đã cụ thể hoá đường lối của Đảng vào tình hình thực tiễn địa phương, số còn lại cho rằng mức độ cụ thể hoá đạt trung bình. Đại đa số những người được hỏi ý kiến cho rằng kinh nghiệm tổng kết thực tiễn cấp huyện được cấp trên đánh giá tốt và nhân rộng phổ biến điển hình là 96,08%, trong đó có trên 20% khẳng định là có nhiều kinh nghiệm được cấp trên đánh giá tốt, số còn lại nêu mức độ hạn chế. Những kinh nghiệm hay được phổ biến rộng rãi lần lượt là lĩnh vực an ninh - quốc phòng có tới 52,94%; lĩnh vực phát triển kinh tế là 45,1% và giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội là 43,14%, điều này phù hợp từ đặc thù huyện miền núi ở tỉnh Hà Giang.
Ba là, kết quả tổng kết kinh nghiệm thực tiễn được thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS thể hiện việc phát huy những kinh nghiệm trong quá khứ, vận dụng vào công việc mà họ đảm nhiệm.
Qua thực tế, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang hiện nay đã nắm vững yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương và dành thời gian bám sát cán bộ dưới quyền, có tới 70% phát huy sức mạnh của cấp ủy đảng và chính quyền trong lãnh đạo, quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng các tổ chức đảng, chính quyền ngày một vững mạnh.
Về mặt tổ chức, họ đã chú trọng xây dựng sự đoàn kết, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung dân chủ, thống nhất, thực hiện nhất quán quan điểm tập thể lãnh đạo với phân công cá nhân phụ trách, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa lãnh đạo và cấp dưới, tương trợ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS đã thực hiện đúng chức trách, cụ thể hóa đường lối, nghị quyết các cấp vào học tập, rèn luyện tại cơ quan, địa phương, đồng thời họ đã chú trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rút kinh nghiệm trách nhiệm chính trị, năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng và trình độ cán bộ, đảng viên ở địa phương.
Trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, tích cực khai thác tiềm năng nội lực để phát triển kinh tế - xã hội nên đã giành được thắng lợi tương đối toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, văn hóa - xã hội phát triển tương đối tốt. Cơ sở hạ tầng được xây dựng khá, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện một bước đáng kể. Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững, hệ thống chính trị được củng cố một bước, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng cao. Công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS đã có nhiều tiến bộ, tăng cường một bước công tác giáo dục lý luận chính trị tư tưởng, tăng thêm nhiều cán bộ trẻ có trình độ học vấn, năng lực người DTTS. Tỉnh ủy đã quan tâm tạo điều kiện cho hàng ngàn cán bộ của tỉnh, huyện đi học tại chức và tập trung tại các trường trung ương và tỉnh, tạo nguồn cán bộ bổ sung cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngày một tiến bộ. Những kết quả đó tuy là bước đầu nhưng có ý nghĩa hết sức to lớn khảng định sự quan tâm đến đội ngũ lãnh đạo, quản lý nói chung và cán bộ người DTTS nói riêng, qua đó tạo tiền đề cho công tác xây dựng Đảng và chính quyền vững mạnh thời gian qua ở tỉnh Hà Giang.
2.2.2.5. Nguyên nhân của ưu điểm về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
Về nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, sự tác động tích cực trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng vai trò quan trọng về năng lực lãnh đạo của Đảng, sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó đã củng cố nâng cao và xây dựng lòng tin, sự tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, với chế độ, nhiệt tình cách mạng, ý chí tiến thủ, trách nhiệm trong học tập, rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS. Thực tiễn đã chứng minh sự phát triển về nhận thức, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, luôn gắn liền với quá trình củng cố niềm tin, ý chí cách mạng, lý tưởng cộng sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhờ đó, những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, văn hóa - truyền thống và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về điều kiện thuận lợi cho giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở tỉnh Hà Giang được đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện đáng kể, đã khích lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS an tâm công tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Kết quả thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc, các ngành, các cấp đã có chương trình hành động, thực sự đã đưa nghị quyết đi vào cuộc sống thu hút được cán bộ từ khắp mọi nơi đến tăng cường cho vùng đồng bào dân tộc, đồng thời bước đầu phát huy được nội lực của đội ngũ cán bộ DTTS cấp huyện ở tỉnh Hà Giang. Cùng với những chính sách thu hút cán bộ đến công tác tại vùng DTTS, Đảng và Nhà nước còn có những chính sách động viên, khuyến khích lực lượng tri thức trẻ, sinh viên mới ra trường tình nguyện đến công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, qua đó đã phát huy vai trò cán bộ quản lý cấp huyện người DTTS. Trong điều kiện thực tế, họ đã hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đào tạo đúng chương trình, nội dung, biện pháp, bồi dưỡng phù hợp từng giai đoạn, đảm bảo cho hoạt động tổ chức thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, lãnh đạo, quản lý thực hiện nhiệm vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đồng thời thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc phù hợp như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:“ Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ” [104, tr.547]. Với sự sắp xếp tổ chức chặt chẽ, tích cực, chủ động phối, kết hợp nhiều hình thức và loại hình đào tạo khác nhau, do vậy đa số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang được trang bị kiến thức cơ bản từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ hai, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, quan tâm xây dựng các nhân tố tạo động lực thúc đẩy cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tích cực nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn. Quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách trong đào tạo, bố trí sử dụng, bồi dưỡng năng lực tổ chức thực tiễn và đánh giá, đãi ngộ đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, tạo động lực thúc đẩy họ không ngừng vươn lên trong công tác. Sự thay đổi tiến bộ về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý thời gian qua là động lực thúc đẩy họ phấn đấu rèn luyện, tạo điều kiện để họ phát triển tri thức mới, về chức trách nhiệm vụ và bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm công tác, kỹ năng, nghệ thuật lãnh đạo, năng lực xử lý tình huống chính trị - xã hội, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở địa phương.
Thứ ba, sự phối hợp tương đối chặt chẽ giữa Đảng ủy, chính quyền cùng cấp ở địa phương với nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS ở tỉnh Hà Giang là một trong những nguyên nhân khách quan của quá trình này.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, chính quyền các cấp ở tỉnh Hà Giang đã có sự phối hợp, thống nhất về nội dung kế hoạch, chương trình nâng cao chất lượng, hình thức, biện pháp thực hành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện nói chung, cán bộ người DTTS ở tỉnh Hà Giang nói riêng, qua thực tiễn bồi dưỡng, phát hiện những nội dung, hình thức chưa hợp lý, đầy đủ để kịp thời bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện. Phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ và đánh giá kết quả lĩnh hội tri thức, quá trình rèn luyện, phát hiện kỹ năng công tác xây dựng đảng, lãnh đạo, quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện.
Về nguyên nhân chủ quan:
Một là, về cơ bản cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS đã thường xuyên quán triệt yêu cầu nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cấp ủy cấp trên, các cơ quan, tập thể và địa phương. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang là những người có tâm huyết, nhiệt tình, nhiều kinh nghiệm sống và có uy tín trong cộng đồng DTTS. Năng lực tổ chức thực tiễn của họ không phải tự có, đó là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện bền bỉ, sự trải nghiệm công phu ở mỗi người. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS trong Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, lãnh đạo các phòng, ban cấp huyện thường xuyên ý thức phấn đấu rèn luyện hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao phó.
Hai là, sự nỗ lực tự học, tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS phản ánh vai trò to lớn của chủ thể nhận thức, là nguyên nhân quyết định hình thành, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn đối với họ. Những kiến thức được trang bị và kinh nghiệm cuộc sống đã tích lũy, tạo tiền đề, động lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS khả năng tự học, tự rèn luyện kỹ năng trong công tác. Những chương trình tập huấn nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, tự rút kinh nghiệm sau mỗi công việc cụ thể đã trở thành vốn sống cho họ nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn bản thân.
Do tích cực, tự giác học tập, rèn luyện trong điều kiện hoàn cảnh còn khó khăn, tự đánh giá trình độ thực tế để điều chỉnh bản thân, khả năng tổ chức ở công tác xây dựng đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội tại địa phương đã phát huy điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, lựa chọn hình thức, phương pháp phù hợp. Do vậy, năng lực tổ chức thực tiễn của họ không ngừng được nâng cao, khi được hỏi về giải pháp để nâng cao trình độ thực tế, năng lực lãnh đạo tổ chức đảng và quản lý điều hành chính quyền hiệu quả, thì có đến 92% cho rằng “tự học tập và tự rèn luyện” là một trong những giải pháp cơ bản nhất (xem phụ lục 2).
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS tỉnh Hà Giang
2.2.3.1. Năng lực nắm bắt, cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương và nhiệm vụ công tác còn những hạn chế
Một là, quá trình vận dụng, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước còn yếu, biểu hiện ở một số nội dung trong công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn lúng túng, chưa sâu sát, thiếu kiên quyết dẫn đến sự phối hợp giữa các ngành, phòng, ban cấp huyện có thời điểm chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
Hai là, thực tế hiện nay vẫn còn một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS hạn chế về năng lực xây dựng chương trình hành động, kế hoạch trong cụ thể hoá các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp mình tại địa phương. Công tác này còn biểu hiện thụ động, thiếu sáng tạo, lúng túng trong điều hành quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương. Theo số liệu khảo sát tại thành phố Hà Giang, các huyện gồm, Bắc Quang, Vị Xuyên, Quản Bạ, Xín Mần, cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS đã có sự kết hợp giữa nhận thức với tổ chức thực tiễn, giải quyết các nhiệm vụ song còn thiếu hợp lý.
Ba là, việc cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyển từ nhận thức đúng đến hành động còn yếu ở một số công việc cụ thể, thí dụ như: Khả năng phát hiện mâu thuẫn và xử lý mâu thuẫn thiếu linh hoạt là 10%. Bên cạnh đó, khả năng tổ chức, tính sáng tạo ở một số cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của địa phương, đặc thù miền núi, biên giới,...; biểu hiện ở một số hoạt động cụ thể (nói chưa đi đôi với làm, năng lực thực hành kém, văn hóa ngoại giao yếu,...). Một số khác, quá trình rèn luyện năng lực tổ chức thực tiễn khi ở cương vị lãnh đạo chưa đáp ứng yêu cầu, do vậy trong công tác tư tưởng, tổ chức, dân vận... chưa sâu sát, thiếu tính thuyết phục, vẫn còn trên 1/3 thụ động chờ sự giải thích, hướng dẫn của cấp trên. Chất lượng công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, học tập, quán triệt và triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đã có sự đổi mới, nhưng chuyển biến còn chậm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức Đảng và đảng viên hạn chế, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở một số nơi vẫn còn biểu hiện hình thức, kết quả "làm theo" ít, chưa nhận thức đầy đủ và coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản và lâu dài. Việc khắc phục khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng đảng ở một số đảng bộ, chính quyền cấp huyện năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên có lúc, có nơi chưa đạt yêu cầu. Nói tóm lại, việc nắm bắt và cụ thể hoá đường lối, chủ trương của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS ở tỉnh Hà Giang vẫn ở giai đoạn nhận thức thụ động, thiếu sáng tạo, đây là một lý do đưa đến tình trạng nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mặc dù đã được quán triệt sâu sắc nhưng chậm được triển khai thực hiện tại cơ sở, thậm chí một số chủ trương triển khai thực hiện kiểu “nửa vời” hoặc “đá bóng” sang tổ chức, đơn vị khác. Công tác xây dựng Đảng và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh và huyện có khâu còn hình thức chưa định hướng rõ nét cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người DTTS nâng cao trình độ và năng lực xây dựng chương trình hành động. Công tác tuyên truyền về các vấn đề dân sinh có lúc, có nơi chưa phong phú, thiếu hiệu quả, nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai, công tác giải phóng mặt bằng, khai thác khoáng sản và bảo vệ rừng, an ninh tổ quốc, giữ mốc giới vùng biên của đất nước.
2.2.3.2. Năng lực ra quyết định và lựa chọn phương án tối ưu ở một số nội dung chất lượng còn thấp
Một là, hiệu lực, hiệu quả điều hành chính quyền của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện tồn tại một số bất cập, có lúc, có nơi chưa thực sự quyết liệt, cá biệt còn né trách, đùn đẩy trách nhiệm, buông lỏng quản lý. Từ đó phản ánh về trình độ, năng lực, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý người DTTS chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, còn thụ động trong giải quyết công việc. Một số cấp uỷ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tập thể cấp tỉnh và huyện chưa tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện phát huy vai trò và sở trường của họ, chưa thực sự quan tâm, chú trọng sự gắn kết phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp, các ngành và huy động các lực lượng, các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện thường xuyên, hiệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nang_cao_nang_luc_to_chuc_thuc_tien_cho_can_bo_lanh.doc