Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục bảng, hình vẽ v
Danh mục viết tắt xv
Mở đầu xviii
Chương I: Tổng quan 1
I. Giới thiệu về cảm biến sinh học điện hóa 1
I.1 Định nghĩa về cảm biến sinh học điện hóa 1
I.2 Phân loại cảm biến sinh học điện hóa 6
I.2.1 Cảm biến trên cơ sở thế điện cực 6
I.2.2 Cảm biến dòng điện 8
I.2.3 Cảm biến độ dẫn 8
I.2.4 Cảm biến hiệu ứng trường 9
I.3 Một số tính chất của cảm biến sinh học điện hóa 10
II. Vật liệu polyme dẫn sử dụng trong cảm biến sinh học điện hóa 11
II.1 Giới thiệu về Polyanilin 13
II.2 Giới thiệu về polydiaminonaphthalen 18
II.2.1 Poly(1,8-diaminonaphthalen) 18
II.2.2 Poly(1,5-diaminonaphthalen) 18
II.3 Một số vật liệu cấu trúc nano được pha tạp/kết hợp với polyme dẫn 20
II.3.1 Hạt nano Fe3O4 20
II.3.2 Ống nano cácbon (CNTs) 22
II.3.3 Vật liệu màng graphen 22
III. Ứng dụng của cảm biến sinh học điện hóa 23
III.1 Ứng dụng trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe 23
III.1.1 Xác định nồng độ glucôzơ 23
III.1.2 Xác định nồng độ cholesterol 24
180 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu chế tạo hệ vi cảm biến điện hóa trên cơ sở polyme dẫn biến tính để ứng dụng trong y sinh và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sau khi các màng compozít trên cơ sở màng polyme dẫn đa chức năng (được biến
tính bằng vật liệu cấu trúc nano) được tổng hợp điện hóa trên bề mặt vi điện cực làm
việc (của hệ vi điện cực tích hợp), các phần tử sinh học (đầu dò sinh học như: enzym,
aptamer, chuỗi ADN hoặc kháng thể đơn dòng) cần được cố định lên bề mặt màng
compozít để phát triển cảm biến sinh học điện hóa. Các đầu dò sinh học được cố
định lên bề mặt màng compozít thông qua các liên kết hóa học (-NH-COO-) bằng
kỹ thuật sinh học. Các đầu dò sinh học được sử dụng trong luận án này là các đầu
dò sinh học có độ đặc hiệu cao như: enzym (Glucose oxidase, Cholesterol
oxidase), kháng thể đơn dòng, chuỗi ADN, chuỗi aptamer.
III.1 Cố định các phần tử sinh học trên màng polyanilin biến tính
III.1.1 Cố định các phân tử enzym lên màng PANi biến tính
Kỹ thuật sử dụng để cố định enzym là một trong những vấn đề quyết định cho
việc chế tạo một cảm biến sinh học [81]. Từ trước tới nay đã có nhiều phương pháp
khác nhau để cố định enzym được sử dụng. Nhưng phổ biến nhất vẫn là 4 phương
pháp:
Phương pháp hấp thụ vật lý enzym lên các vật liệu cố định không hòa tan
có mang hoặc không mang điện tích.
Phương pháp nhốt enzym ở bên trong polyme tạo thành xung quanh enzym
một hệ thống lưới có lỗ nhỏ để không cho phân tử enzym đi khỏi màng,
nhưng các lỗ đủ lớn để cơ chất và sản phẩm tạo ra đi qua được dễ dàng.
Phương pháp hóa học : liên kết cộng hóa trị và liên lết ion.
Phương pháp khâu mạch.
Trong luận án này, các loại đầu dò sinh học enzym đã được cố định lên màng
polyanilin biến tính bằng phương pháp hóa học (liên kết chéo – cross linkage)
thông qua chất liên kết Glutaraldehít.
54
a. Cố định enzym Glucose oxidase (GOx) trên vi điện cực
Lấy 5 μl dung dịch enzym GOx 1 U/l được pha trong đệm PBS 1x tiến hành nhỏ
phủ (drip coating) lên bề mặt vi cực điện hóa tích hợp (có một trong các màng PANi-
MWCNTs; PANi-Fe3O4-COOH; điện cực PANi-Fe3O4/Graphen), sau đó điện cực
được ủ trong hơi bão hòa glutaraldehít 25 % trong 1 h, sau đó làm khô trong không
khí ở nhiệt độ thường. Điện cực sau khi cố định enzym được rửa bằng dung dịch
đệm PBS 1x (pH = 7 ) để loại bỏ glutaraldehít dư và các enzym không được cố định
vào màng. Vi điện cực điện hóa sau khi cố định enzyme được bảo quản trong dung
dịch đệm PBS 1x (pH = 7) ở 4 0C [44-45, 78-79].
b. Cố định enzym Cholesterol Oxidase (ChOx) trên vi điện cực
Vi điện cực điện hóa có phủ màng nanocomposite PANi/MWCNT-c hoặc PANi-
Fe3O4-COOH hoặc PANi-Fe3O4/Graphen được ngâm trong K3[Fe(CN)6] 0,1 M
trong 24 h. Ta lấy 5 μl dung dịch ChOx 24 U/ml (được pha trong đệm PBS 1x tiến
hành nhỏ phủ (drip coating)) lên bề mặt màng và ủ trong dung dịch glutaraldehít 25
% trong 1 h. Sau đó, rồi làm khô trong không khí ở nhiệt độ thường. Điện cực sau
khi cố định enzyme ChOx được rửa bằng dung dịch đệm PBS 1x (pH = 7) để loại
bỏ glutaraldehít dư và các enzym không được cố định. Bảo quản điện cực trong dung
dịch đệm PBS 1x ở 4 0C [77, 79]. Phản ứng cố định enzym Cholesterol oxidase lên
bề mặt vi điện cực điện hóa được biểu diễn trong Hình II.14 dưới đây.
Hình II.14. Cố định enzym qua liên kết chéo sử dụng tác nhân glutaraldehít [77]
III.1.2 Cố định phần tử sinh học aptamer lên màng PANi biến tính
Aptamer là phân tử ADN hay ARN tái tổ hợp, có cấu trúc đặc biệt, có khả năng
gắn kết với các phân tử đích có kích thước khác nhau (protein, tế bào ung thư, phân
tử nhỏ hapten) [82]. Các aptamer đặc hiệu với phân tử đích nhận được bằng chu
55
trình chọn lọc in vitro trên phân tử đích có tên gọi SELEX (Systematic Evolution of
Ligands by Exponential Enrichment) [83]. So với các kháng thể đơn dòng thì các
phân tử aptamer có các ưu điểm sau: i) phân tử nhỏ hơn kháng thể; ii) khả năng nhận
biết phân tử đích tương đương hoặc hơn kháng thể; iii) chế tạo đơn giản, nhanh, hiệu
quả, vượt trội so với phương pháp chế tạo kháng thể; iv) độ bền với các tác nhân
hóa, lý, môi trường cao hơn kháng thể. Vì vậy aptamer là một trong những hướng
nghiên cứu mới của công nghệ gen, có thể áp dụng trong cả chẩn đoán (chế tạo cảm
biến) và điều trị miễn dịch.
Hình II.16 Sàng lọc aptamer đặc hiệu theo chu trình SELEX
a. Cố định aptamer của HPV
Trong luận án này, aptamer đặc hiệu của virút HPV–16–L1 đã được cố định lên
điện cực điện hóa có phủ màng PANi/MWCNTs. Việc cố định phần tử đầu dò sinh
học (như là aptamer) là bước quyết định trong việc chế tạo cảm biến sinh học điện
hóa. Aptamer HPV–16–L1 là một chuỗi peptide nhỏ (với MW = 1825 Da) vì vậy có
thể cố định mà không quá quan trọng với việc bảo vệ bề mặt điện cực. Chúng ta có
thể tiến hành gắn peptide aptamer lên bề mặt cảm biến với nồng độ thấp [48].
56
Để cố định phân tử HPV-16-L1 lên bề mặt vi điện cực, ta pha dung dịch chứa
0,15 mM EDC và 0,3 mM NHS pha trong nước khử ion. Sau đó, ta thêm 50 nM
aptamer HPV-16-L1 vào dung dịch. Nồng độ 50 nmol/L là nồng độ thường được sự
dụng trong các thí nghiệm phổ quang kế; nồng độ HPV–16–L1 này đảm bảo cho
phản ứng miễn dịch giữa HPV–16–L1 và kháng HPV có hiệu quả hoàn toàn. 0,1
nmol/L HPV–16–L1 sẽ sinh ra các tín hiệu SWV không đáng kể sau khi gắn. Điện
cực PANi/MWCNT-c được ngâm trong dung dịch trong 2 h (tại nhiệt độ 37 0C, có
khuấy đều). Sau đó, điện cực được rửa trong nước khử ion trong 30 phút, tại nhiệt
độ 37 0C có khuấy đều để loại bỏ các phân tử aptame dư khỏi bề mặt điện cực.
b. Cố định aptamer Anti-Aflatoxin M1
Dung dịch Aptamer Aflatoxin M1 (APT) nồng độ 180 pM được nhỏ lên điện cực
Pt/PANi/Fe3O4, sau đó màng được ủ trong hơi bão hòa glutaraldehít trong 1 h tại
nhiệt độ phòng. Cuối cùng, điện cực được rửa bằng nước DI nhằm loại bỏ các liên
kết không đặc hiệu. Điện cực được bảo quản trong nước DI tại 4 0C [36].
III.1.3 Cố định kháng thể Atrazin
Kháng thể đơn dòng Anti-Atrazin (-ATZ) (Mw = 150 kDa) được cố định lên bề
mặt điện cực PANi/Gr bằng kỹ thuật liên kết chéo sử dụng Glutraldehyde như sau:
- Pha chế dung dịch -ATZ có nồng độ 10-6 bM trong dung môi nước khử ion
có chứa BSA (tỷ lệ -ATZ:BSA là 1:2)
- Nhỏ 1 l dung dịch -ATZ lên bề mặt vi điện cực Pt/PANi/Graphen
- Ủ vi điện cực trong môi trường hơi bão hòa của Glutaraldehít trong 1 h.
- Sau đó, vi điện cực được rửa sạch bằng dung dịch PBS 1x để rửa trôi các phân
tử kháng thể không liên kết, điện cực được làm khô bằng N2 và bảo quản trong
dung dịch PBS 1x tại 4 0C.
III.2 Cố định phần tử sinh học enzym trên màng PDAN biến tính
- Pha chế dung dịch tổ hợp 2 enzym trong dung dịch PBS 1x: 10 mg enzym -
Galactosidase và 90 mg enzym Glucose oxidase được pha trong 1 ml dung
dịch PBS 1x.
57
- Nhỏ giọt 10 l dung dịch enzym lên bề mặt vi điện cực làm việc Pt/Gr/P(1,5-
DAN), ủ trong môi trường hơi bão hòa Glutaraldehít trong 1 h, rửa sạch bằng
dung dịch PBS 1x. Điện cực được để khô 12 h trong môi trường khô tại 4 0C,
trước khi sử dụng [84].
IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐIỆN HÓA
Trong luận án này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp phân tích điện hóa
khác nhau để khảo sát tính chất của màng compozít (trên cơ sở polyaniline và
polydiaminonaphthalen) và xác định hàm lượng chất cần phân tích trong dung dịch
như: Vôn-Ampe tuần hoàn, xung sóng vuông, đo dòng, phổ tổng trở điện hóa. Các
thực nghiệm điện hóa được thực hiện trên thiết bị điện hóa đa năng Autolab
PGS/TAT 30 (Ecochimie, Hà Lan) tại Viện Khoa học vật liệu (VAST), Viện Kỹ
thuật nhiệt đới (VAST), Trung tâm CETASD (Trường Đại học Khoa học tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội).
IV.1 Phương pháp Vôn-Ampe tuần hoàn (CV – Cyclic Voltammetry)
Trong luận án này, phương pháp Vôn-Ampe tuần hoàn được sử dụng để khảo sát
tính chất điện hóa của các màng compozít (PANi và PDAN) trong quá trình chế tạo
cảm biến.
- Với màng compozít trên cơ sở polyanilin: phổ CV của màng thường được
quét trong khoảng từ -0,8 ÷ +0,8V (có thể thay đổi theo cấu trúc vật liệu bề mặt
màng), tốc độ quét 50 mV/s, bước thế là 10 mV trong dung dịch PBS hoặc HCl 0,1
M. Cảm biến enzym ban đầu được quét trong dung dịch PBS 50 mM, sau đó cơ chất
là glucose hoặc cholesterol tương ứng với cảm biến GOx hoặc ChOx được thêm vào
bình điện hóa, khuấy trong 10 s. Quan sát sự thay đổi giữa các vòng quét và ghi lại
khi các vòng quét tương đối ổn định.
- Với màng compozít trên cơ sở polydiaminonapthalen: phổ CV của màng
thường được quét trong dải thế từ dải thế -0,02 ÷ +0,95 V, tốc độ quét 50 mV/s,
bước quét 10 mV trong dung dịch PBS 1x. Cảm biến enzym ban đầu được quét trong
dung dịch PBS 50 mM, sau đó cơ chất là glucôzơ hoặc cholesterol tương ứng với
58
cảm biến GOx hoặc ChOx được thêm vào bình điện hóa, khuấy trong 10 s. Quan sát
sự thay đổi giữa các vòng quét và ghi lại khi các vòng quét tương đối ổn định.
IV.2 Phương pháp đo dòng thời gian thực (Chronoamperometric)
Trong thực nghiệm của luận án, phương pháp đo dòng thời gian thực
(Chronoamprometric) được sử dụng trong phân tích định lượng Glucôzơ,
Cholesterol hoặc Lactôzơ như sau:
- Phân tích định lượng glucôzơ: điện áp đặt vào là +0,7 V, bình điện phân là 10
ml dung dịch PBS 50 mM, dung dịch glucôzơ (nồng độ chuẩn trước) được thêm liên
tiếp (injection) vào trong bình điện phân (sau khi cường độ dòng đạt được 95 % giá
trị cân bằng). Đồ thị mô tả mối tương quan giữa đáp ứng dòng và thời gian được ghi
lại liên tục trên máy.
- Phân tích định lượng cholesterol: điện áp được đặt vào hệ điện hóa là -0,3 V,
bình điện phân là 5 ml dung dịch PBS 50 mM, dung dịch cholesterol (nồng độ chuẩn
trước) được thêm liên tiếp (injection) vào trong bình điện phân (sau khi cường độ
dòng đạt được 95 % giá trị cân bằng).
- Xác định hàm lượng D-lactôzơ bằng phương pháp đo dòng
(Chronoamperometric) của cảm biến sinh điện hóa Pt/Gr/PDAN: thêm liên tục các
nồng độ D-lactôzơ vào dung dịch, đo dòng đáp ứng ra với điện thế áp là +0,55 V
hoặc +0,4 V (sau khi cường độ dòng đạt được 95 % giá trị cân bằng).
IV.3 Phương pháp xung sóng vuông (SWV – Square Wave Voltammetry)
Kỹ thuật xung sóng vuông (SWV) là kỹ thuật phân tích điện hóa rất phù hợp để
nghiên cứu và đánh giá các liên kết sinh học của cảm biến sinh học điện hóa sử dụng
phản ứng miễn dịch [85]. Trong luận án này, dòng điện hóa được đo bằng cả xung
dương và xung âm của phổ điện hóa, và dòng ra là hiệu số của đỉnh ô xi hóa và đỉnh
khử; do đó mật độ dòng lớn hơn rất nhiều so với phương pháp Vôn-Ampe vòng. Bên
cạnh đó, dòng điện dung (tụ điện) cũng được loại trừ do sự giảm của ôxy hòa tan;
chúng tôi sử dụng sự giảm tín hiệu của xung sóng vuông SWV để xác định sự tạo
phức của phản ứng miễn dịch giữa phân tử dò sinh học (kháng thể ATZ, aptamer...)
59
và chất cần phân tích (Atrazin, Aflatoxin M1...), từ đó, nồng độ của chất cần phần
tích sẽ được nhận biết tương ứng với độ suy giảm tín hiệu điện hóa.
- Quét xung sóng vuông (SWV) của cảm biến trong dung dịch (có chứa các
nồng độ của chất cần phân tích): tần số xung 12,5 Hz, biên độ xung 25 mV, thế bắt
đầu là -0,6 V, thế kết thúc +0,75 V, bước thế 10 mV.
- Sau mỗi lần quét xung sóng vuông, cảm biến được rửa bằng nước khử ion
và làm khô bằng dòng khí N2.
IV.4 Phương pháp phổ tổng trở điện hóa
Nguyên tắc của phương pháp phổ tổng trở là đưa vào hệ điện hóa 1 tín hiệu nhỏ
tuần hoàn hình sin nên hệ điện hóa luôn được giữ ở trạng thái cân bằng. Do đó ưu
điểm nổi bật của phương pháp này là độ ổn định cao, cho phép phân tích không chỉ
tổng toàn bộ quá trình điện hóa mà cả các hoạt động điện hóa riêng rẽ xảy ra trong
hệ nghiên cứu [86]. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng phương pháp phổ tổng trở
điện hóa để nghiên cứu – đánh giá đặc tính điện hóa của cảm biến GOx và ChOx.
- Nghiên cứu phổ tổng trở của cảm biến GOx được tiến hành trong dung dịch
đệm PBS 50 mM (pH = 7 có chứa NaCl 0,9 %) tại điện thế +0,7 V. Dòng xoay chiều
(amplitude) đặt vào có biên độ Uo = 5 mV, tần số biến thiên f = 0,01 tới 105 Hz.
- Nghiên cứu phổ tổng trở của cảm biến ChOx được tiến hành trong dung dịch
đệm PBS 50 mM (pH = 7 có chứa NaCl 0,9 %) tại điện thế -0,3 V. Dòng xoay chiều
(amplitude) đặt vào có biên độ Uo = 5 mV, tần số biến thiên f = 0,01÷ 105 Hz.
Trong thực nghiệm phân tích điện hóa, các kết quả đều được ghi lại và lưu trữ
bằng phần mềm GPES 4.9 và được xử lý bằng phần mềm Origin. 8.0.
V. CÁC KỸ THUẬT PHÂN TÍCH BỀ MẶT VÀ CẤU TRÚC MÀNG
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các kỹ thuật phân tích bề mặt và cấu trúc
để khảo sát hình thái bề mặt (chiều dày, độ rỗng, xốp) của các màng vật liệu trên
bề mặt vi điện cực như:
- Phân tích hình thái bề mặt bằng kỹ thuật hiển vi điện tử quét (FESEM) trên
thiết bị kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FESEM S4800, Hitachi, Nhật Bản)
60
tại Viện Khoa học vật liệu. Thiết bị có độ phóng đại đến 100.000 lần, độ phân giải
~ vài nm.
- Khảo sát hình thái bề mặt màng compozít, màng graphene bẳng kỹ thuật hiển
vi lực nguyên tử (AFM) trên thiết bị hiển vi đầu dò nguyên tử (SPM, Aligent, Mỹ )
tại Viện Khoa học vật liệu. Thiết bị có độ phân giải ~ 1 nm, có khả năng đo nhiều
thông số bề mặt khác nhau: độ dày màng, độ mấp mô bề mặt màng, kích thước
màng
- Các liên kết hóa học của màng compozít (pha tạp hạt nano Fe3O4 và ống
CNTs) được khảo sát bằng phổ hấp thụ hồng ngoại (FTIR) trên thiết bị FTIR-6700
(Nicolet, Mỹ) tại Viện Kỹ thuật nhiệt đới theo phương pháp ép viên với KBr. Dải
số sóng là 400 – 4000 cm-1 với độ phân giải 4 cm-1.
- Cấu trúc bề mặt màng compozít biến tính bằng graphen được khảo sát bằng
phổ Raman trên thiết bị LabRAM (Horiba, Nhật Bản) sử dụng nguồn phát laze He-
Ne với bước sóng 623.8 nm.
- Cấu trúc màng graphen được đánh giá bằng ảnh hiển vi điện tử truyền qua
trên thiết bị kính hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HRTEM, FEI TECNAI
G20, Hàn Quốc) với độ phân giải ~ 0,14 nm và độ phóng đại đến 500.000 lần.
VI. KẾT LUẬN
Quy trình thực nghiệm nghiên cứu – chế tạo cảm biến sinh học điện hóa trên cơ
sở vật liệu polyme dẫn (PANi, PDAN) được biến tính bởi các vật liệu cấu trúc nano
đã được trình bày chi tiết trong chương này. Các cảm biến sinh học điện hóa đã được
chế tạo thành công bằng cách kết hợp nhiều công nghệ và kỹ thuật chế tạo khác nhau
từ công nghệ Vi điện tử, công nghệ Vi cơ điện tử (MEMS), kỹ thuật lắng đọng màng
mỏng, phương pháp tổng hợp điện hóa màng polyme dẫn:
- Các hệ vi điện cực điện hóa tích hợp (gồm 3 điện cực trên cùng 1 chíp: điện cực
làm việc và điện cực đối là Pt, điện cực so sánh là Ag/AgCl) đã được chế tạo thành
công bằng công nghệ Vi điện tử và Công nghệ Vi cơ điện tử. Điện cực làm việc có
thể thay đổi đường kính từ 100 – 500 m.
61
- Màng compozít trên cơ sở vật liệu polyme dẫn (PANi, PDAN) biến tính các vật
liệu nano (CNT, Fe3O4, Graphen) đã được tổng hợp điện hóa thành công trên bề mặt
vi điện cực điện hóa tích hợp.
- Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp phân tích điện hóa hiện đại để khảo sát
tính chất điện hóa màng polyme dẫn biến tính và xác định hàm lượng các chất cần
phân tích như: phương pháp CV, phương pháp SWV, phương pháp đo dòng, phổ
tổng trở điện hóa.
- Tính chất và hình thái bề mặt của vật liệu và màng polyme dẫn biến tính được
nghiên cứu khảo sát bằng các phương pháp phân tích: FESEM, TEM, AFM, FTIR
và Raman..
Các kết quả về tính chất và ứng dụng cảm biến sinh học điện hóa sẽ được trình
bày trong các chương sau.
62
CHƯƠNG III:
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VI CẢM BIẾN SINH HỌC ĐIỆN HÓA
TRÊN CƠ SỞ VẬT LIỆU POLYME DẪN
Trong chương này, các kết quả về chế tạo và phát triển vi cảm biến sinh học điện
hóa trên cơ sở biến tính – pha tạp các loại màng polyme dẫn (polyanilin, poly(1,5-
diaminonapthalen) sẽ được trình bày và thảo luận.
I. PHÁT TRIỂN VI CẢM BIẾN SINH HỌC ĐIỆN HÓA TRÊN CƠ SỞ
POLYME DẪN - POLYANILIN
I.1. Pha tạp màng PANi bằng ống nano cácbon (CNTs)
Tổng hợp điện hóa màng PANi pha tạp MWCNTs
Phổ tổng hợp điện hóa của màng PANi pha tạp MWCNTs được trình bày trong
Hình III.1 dưới đây.
Hình III.1. Phổ tổng hợp điện hóa theo phương pháp CV của màng
PANi/MWCNTs trên điện cực tích hợp
Từ Hình III.1, ta thấy các cặp đỉnh ôxy hóa-khử đặc trưng của polyanilin được
thể hiện đầy đủ trong từng chu kỳ (tại các điện thế oxi hóa là : +0,2 V, +0,4 V và
+0,7 V). Điều đó, chứng tỏ màng polyme được trùng hợp trên bề mặt điện cực Pt là
polyanilin. Các cặp đỉnh này tương ứng với sự chuyển dạng từ Leucoemeraldin
63
thành muối Emeraldin, từ dạng muối Emeraldin thành dạng bazơ Emeraldin và cuối
cùng là chuyển dạng Pernigranilin. Dạng cuối cùng của màng polyaniline trên bề
mặt điện cực là muối Emeraldin, đây là dạng dẫn tốt của polyanilin.
Hình III.2. Phổ tổng hợp điện hóa theo phương pháp CV của màng PANi (a) và
màng PANi/MWCNTs (b) tại chu kỳ thứ 20 trên điện cực tích hợp
Phổ CV thu được trong cả hai trường hợp được trình bày trên hình II.2 có hình
dáng tương tự như nhau, đây chính là phổ CV đặc trưng của quá trình tổng hợp điện
hóa màng PANi. Tuy nhiên một điều rất lý thú là cường độ dòng điện thu được của
màng PANi/MWCNTs lớn hơn cỡ gần 10 lần so với màng PANi thuần. Như vậy
với sự pha tạp MWCNT trong màng có thể đã làm tăng : (i) độ dẫn điện của màng
và/hoặc (ii) bề mặt tiếp xúc giữa màng với dung dịch chứa monome.
Với độ dẫn cao, quá trình tổng hợp điện hóa vẫn tiếp diễn ngay cả khi PANi đã
phủ kín bề mặt Pt. Ảnh chụp điện cực có màng PANi/MWCNTs được đưa ra tại
hình III.3 dưới đây.
a
b
64
Hình III.3. Ảnh chụp vi điện cực tích hợp có/không có màng PANi/MWCNTs
Từ hình III.3, ta quan sát thấy: chíp trắng (bên phải) không được phủ màng
polyme dẫn và màng PANi/MWCNTs (màu xanh-đen) đã được tổng hợp thành công
trên bề mặt vi điện cực làm việc của chíp (bên trái), các vi điện cực đối và so sánh
không có màng trên bề mặt (chế tạo bằng công nghệ vi điện tử - đã trình bày trong
Chương II)..
Hình thái bề mặt của màng PANi/MWCNTs bằng ảnh FESEM
Hình thái bề mặt của ống MWCNTs, màng PANi thuần và màng PANi/MWCNTs
được khảo sát bằng FESEM, được thể hiện trong hình III.4 dưới đây. Dựa trên kết
quả chụp FE-SEM (Hình III.4 a,b) có thể thấy MWCNTs thể hiện rõ cấu trúc dạng
ống, đường kính ống khá đồng đều khoảng 80 ÷ 100 nm.
Kết quả chụp ảnh FE-SEM màng PANi và màng PANi/MWCNTs tổng hợp theo
phương pháp CV trong cùng điều kiện cho thấy có sự khác biệt về mặt hình thái học.
Màng PANi thuần có kích thước sợi lớn hơn, cấu trúc đặc hơn (Hình III.4 c,d). Sự
có mặt của MWCNT-COOH trong quá trình tổng hợp đã được pha tạp (doping) vào
mạng lưới PANi (hình III.4 e,f). Màng PANi/MWCNTs có cấu trúc một chiều dạng
sợi rõ rệt hơn, đường kính các sợi vào khoảng từ 100 ÷ 120 nm và được phân bố đều
trên toàn bộ điện cực, màng có cấu trúc rỗng hơn so với PANi thuần. Cấu trúc này
có thể tạo cho vật liệu có bề mặt riêng lớn hơn nhiều so với màng PANi thuần, điều
này cho thấy khả năng màng PANi/MWCNTs có thể cố định được nhiều phần tử
Màng
PANi/MWCNTs
65
sinh học hơn, có thể mở rộng được giới hạn đo, giảm thời gian đáp ứng cho cảm
biến sinh học.
Hình ảnh của MWCNTs với a) độ phóng đại 11.000 lần và b) độ phóng đại
50.000 lần
Hình ảnh màng PANi tổng hợp theo phương pháp CV với (c) độ phóng đại
10.000 lần và (d) độ phóng đại 100.000 lần
Ảnh FE-SEM màng PANi/MWCNTs tổng hợp theo phương pháp CV với (e) độ
phóng đại 10.000 lần và (f) độ phóng đại 50.000 lần
Hình III.4. Ảnh FESEM của ống MWCNTs, màng PANi thuần và màng
PANi/MWCNTs
a b
c d
e f
66
Với kết quả phổ tổng hợp điện hóa và so sánh hình thái học bề mặt như trên, ta
có thể thấy rằng sự có mặt của MWCNTs trong dung dịch trùng hợp không chỉ hỗ
trợ cho quá trình tổng hợp điện hóa mà còn tạo ra màng vật liệu có cấu trúc rỗng (độ
xốp) cao hơn.
Hình III.5. Ảnh FESEM của phóng đại cấu trúc bề mặt PANi/MWCNTs
Hình ảnh phóng đại (hình III.5) trên một sợi PANi/MWCNTs có thể thấy cấu trúc
dạng hoa lơ của vật liệu, hình thái học này rất thuận lợi cho việc cố định các phần
tử sinh học nói chung và enzym hoặc DNA nói riêng.
Phân tích hình thái bề mặt màng PANi/MWCNTs bằng ảnh AFM
Hình thái học màng PANi/MWCNTs quan sát được bằng phương pháp hiển vi
lực nguyên tử AFM (Atomic Force Microscopy) (trên thiết bị SPM, Agilent, USA)
được thể hiện trong Hình III.6. Kết quả cho thấy màng PANi/MWCNTs (bên phải)
có chiều dày vào khoảng 500 nm và có ranh giới rõ ràng giữa màng PANi và màng
PANi/MWCNTs. Điều đó chứng tỏ màng PANi/MWCNTs đã được tổng hợp trên
điện cực.
Bề mặt màng PANi/MWCNTs có độ mấp mô bề mặt (roughness) (~150 nm) lớn
hơn hẳn so với màng PANi (~50 nm), tương tự như kết quả thu được với kết quả
phân tích FESEM. Như vậy, việc pha tạp ống nano cácbon (MWCNTs) làm cho
diện tích hiệu dụng bề mặt của màng sẽ lớn hơn, khả năng bắt cặp các phần tử sinh
học sẽ lớn hơn và độ nhạy của cảm biến, dải đo của cảm biến sẽ được cải thiện [48].
67
Hình III.6. Ảnh AFM của màng PANi và màng PANi/MWCNTs
Phổ hấp thụ hồng ngoại của màng PANi/MWCNTs
Hình III.7. Phổ hấp thụ hồng ngoại FTIR của màng PANi và màng PANi/MWCNTs
Trên phổ hồng ngoại của PANi (thể hiện trong Hình III.7), ta thấy xuất hiện vân
phổ tại số sóng 1635 cm-1 và 1498 cm-1 có cường độ trung bình. Đây là các vân đặc
trưng cho dao động hóa trị của liên kết cácbon-cácbon (dao động khung) trong nhân
thơm. Tại số sóng 3455 cm-1, xuất hiện một vân hấp thụ mạnh đặc trưng cho dao
PANi/MWCNTs PANi
68
động hóa trị của liên kết NH. Thêm vào đó, tại số sóng 1149 cm-1, phổ có một vân
với cường độ mạnh là đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết CN. Với phổ
hồng ngoại của màng PANi/MWCNTs, các vân phổ đặc trưng cho PANi tại các số
sóng 3455 cm-1, 1635 cm-1, 1498 cm-1 và 1149 cm-1 vẫn quan sát thấy. Tuy nhiên,
trên phổ hồng ngoại của màng PANi/MWCNTs xuất hiện thêm vân tại số sóng 2923
cm-1 của CNTs và vân tại số sóng 1735 cm-1, đặc trưng cho dao động hóa trị của liên
kết C=O trong nhóm -COOH là nhóm chức năng hóa của ống nano cácbon [48].
Với các kết quả phân tích phổ FTIR như trên, ta có thể khẳng định rằng
MWCNTs-COOH đã được pha tạp thành công vào màng PANi bằng phương pháp
tổng hợp điện hóa. Từ các kết quả trên, chúng tôi đề xuất cơ chế của quá trình pha
tạp MWCNTs-COOH vào màng PANi như sơ đồ Hình III.8 dưới đây.
Hình III.8. Sơ đồ hình thành liên kết giữa màng PANi dạng ES với MWCNTs
thông qua các liên kết: (a) π-stacking (xếp lớp liên kết π của vòng thơm), (b) liên
kết ion và (c)liên kết Hiđrô
69
Các phân tử PANi (dạng ES) liên kết với ống nano cacbon đã chức năng hóa
thông qua ba kiểu liên kết. Thứ nhất là kiểu xếp lớp liên kết π (π-stacking) của các
vòng thơm của PANi và MWCNTs-COOH; thứ hai là liên kết ion tạo ra giữa ion
COO- của MWCNTs-COOH và NH+ của PANi và thứ ba là liên kết hiđrô H-O---H-
N. Ba loại liên kết này giúp cho MWCNTs-COOH được pha tạp vào PANi để tăng
độ dẫn cho màng polyme.
I.2. Pha tạp màng PANi bằng hạt nano Fe3O4
Tổng hợp điện hóa màng PANi-Fe3O4
Phổ tổng hợp điện hóa của màng PANi pha tạp Fe3O4 được thể hiện trong Hình
III.9 dưới đây.
-0,2 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0
-600
-400
-200
0
200
400
600
800
1000
I /
A
E /V vs. Ag/AgCl
Hình III.9: Phổ tổng hợp điện hóa CV của màng PANi pha tạp Fe3O4
Từ Hình III.9, ta thấy màng PANi pha tạp Fe3O4 được tổng hợp thành công, các
cặp đỉnh điện hóa đặc trưng của PANi xuất hiện đầy đủ, rõ ràng trên phổ tổng hợp.
Cường độ dòng lớn (đạt ~ 1000 A tại chu kỳ 20 của quá trình tổng hợp) chứng tỏ
màng có độ dẫn lớn và độ hoạt động điện hóa lớn.
Khi so sánh cường độ dòng của quá trình tổng hợp điện hóa màng PANi pha tạp
Fe3O4 với màng PANi thuần, ta thu được kết quả như trong Hình III.10 dưới đây.
70
-0,2 0,0 0,2 0,4 0,6 0,8 1,0
-800
-600
-400
-200
0
200
400
600
800
1000
I /
A
E /V vs. Ag/AgCl
Fe3O4/PANi
PANi
Hình III.10. So sánh phổ tổng hợp điện hóa tại chu kỳ 20 của màng PANi-
Fe3O4 và PANi
Từ hình III.10, ta thấy sự tăng cường độ dòng điện hóa của màng PANi pha tạp
Fe3O4 (đường liền nét) khi so sánh với màng PANi (đường đứt nét); điều đó có nghĩa
là hạt nano Fe3O4 có thể đã làm tăng cường độ dòng của màng PANi trong cùng điều
kiện thực nghiệm (thiết kế của điện cực và tính chất màng PANi như nhau), chứng
tỏ sự pha tạp Fe3O4 vào màng PANi làm tăng độ hoạt động điện hóa hoặc bề mặt
tiếp xúc giữa màng với dung dịch chứa monome; điều đó dẫn đến việc tăng khả năng
truyền điện tử trong cấu hình của vi cảm biến điện hóa.
Phổ hấp thụ hồng ngoại của PANi-Fe3O4
Phổ hấp thụ hồng ngoại FTIR của màng PANi-Fe3O4 được khảo sát trên thiết bị
6700 FT-IR Spectrometer (Nicolet) sử dụng viên KBr trong dải phổ từ 400 ÷ 4000
cm-1, với độ phân giải là 4 cm-1 (như biểu diễn trong Hình III.11 dưới đây). Trên phổ
hồng ngoại của PANi xuất hiện dao động tại số sóng 1120 cm-1 và 1296 cm-1 có một
vân với cường độ mạnh là đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết C-N. Các vân
hấp thụ ở số sóng 1490 cm-1 và 1537 cm-1 đặc trưng cho dao động hóa trị củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nghien_cuu_che_tao_he_vi_cam_bien_dien_hoa_tren_co_s.pdf