MỤC LỤC
Lời cam đoan .i
Lời cảm ơn!. ii
Mục lục . iii
Danh mục chữ viết tắt. vii
Danh mục bảng . viii
Danh mục hình.ix
Trích yếu luận án .xi
Thesis abstract. xiii
Phần 1. Mở đầu .1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.1
1.2. Mục tıêu nghıên cứu .3
1.2.1. Mục tiêu chung .3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể .3
1.3. Phạm vı nghıên cứu .3
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu .3
1.3.2. Địa điểm nghiên cứu.4
1.3.3. Thời gian nghiên cứu .4
1.4. Những đóng góp mớı của luận án.4
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tıễn của luận án .4
1.5.1. Ý nghĩa khoa học .4
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn.4
Phần 2. Tổng quan tài liệu .5
2.1. Vị trí, cấu tạo và chức năng của tử cung.5
2.1.1. Vị trí và cấu tạo tử cung chó.5
2.1.2. Chức năng.6
2.1.3. Cấu trúc tử cung.6
2.1.4. Mạch quản và thần kinh.6
2.2. Bệnh viêm tử cung trên chó.7
2.2.1. Khái quát bệnh viêm tử cung.7
2.2.2. Nguyên nhân và tiến trình sinh bệnh viêm tử cung ở chó .8iv
2.2.3. Dấu hiệu lâm sàng bệnh viêm tử cung ở chó.12
2.2.4. Chẩn đoán bệnh viêm tử cung ở chó .12
2.2.5. Điều trị .14
2.3. Chẩn đoán hình ảnh bằng sıêu âm .20
2.3.1. Định nghĩa siêu âm .20
2.3.2. Cấu tạo máy siêu âm.20
2.3.3. Nguyên tắc hoạt động .21
2.3.4. Cơ sở vật lý của siêu âm .21
2.3.5. Các loại kỹ thuật siêu âm.23
2.3.6. Những thuật ngữ sử dụng trong siêu âm.24
2.3.7. Ứng dụng siêu âm trong chẩn đoán .25
2.4. Kỹ thuật sıêu âm tử cung chó .26
2.5. Tình hình nghiên cứu bệnh vıêm tử cung ở chó trong và ngoàı nước .33
2.5.1. Tình hình nghiên cứu về bệnh viêm tử cung chó trên thế giới .33
2.5.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh viêm tử cung chó ở Việt Nam.36
Phần 3. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu.38
3.1. Vật lıệu nghıên cứu.38
3.2. Nộı dung nghıên cứu.38
3.2.1. Thực trạng bệnh viêm tử cung trên chó mang đến khám và điều trị tại
phòng khám.38
3.2.2. Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá hiệu quả chẩn đoán hình ảnh bằng siêu
âm bệnh viêm tử cung ở chó.39
3.2.3. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung ở chó.39
3.3. Phương pháp nghıên cứu .39
3.3.1. Phương pháp chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm tử cung.39
3.3.2. Phương pháp phân loại các dạng viêm tử cung .39
3.3.3. Phương pháp phân loại giống chó nội và giống chó ngoại.40
3.3.4. Phương pháp phân chia mùa vụ.40
159 trang |
Chia sẻ: thinhloan | Ngày: 13/01/2023 | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng, ứng dụng siêu âm chẩn đoán và điều trị bệnh viêm tử cung trên chó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ogue de Bordeaux) mặc dù người ta cho rằng quần thể nghiên
cứu có thể bị sai lệch do sở thích nuôi các giống chó lớn hơn. Sự tương quan
55
giữa các giống chó theo trọng lượng cơ thể và dạng viêm tử cung cũng đã
được nghiên cứu, những giống chó nhỏ thường có xu hướng mắc bệnh viêm tử
cung dạng mở cao hơn so với giống chó lớn và trung bình. Tỷ lệ mắc bệnh cao
hơn ở một số giống chó cho thấy chúng có khuynh hướng do di truyền, vì vậy
thiết lập các chương trình nhân giống để kiểm soát bệnh cần được xem xét
(Rivera & cs., 2009).
Phương thức nuôi khác nhau giữa nhóm giống chó ngoại và nội cũng được
cho là liên quan đến gia tăng nguyên nhân gây bệnh viêm tử cung trên chó, đặc
biệt là việc kiểm soát sinh sản trên đàn chó. Giống chó ngoại, người nuôi thường
xuyên nuôi nhốt trong nhà với sự chăm sóc chu đáo hơn nên ít có cơ hội tiếp xúc
với chó đực. Hơn thế nữa, nhiều chủ nuôi không muốn cho sinh sản hoặc cho
sinh sản rất ít, nên sau mỗi lần đến chu kỳ động dục mà không cho giao phối
thường dẫn đến rối loại hormone sinh dục. Giống chó ngoại có tỷ lệ thụ tinh nhân
tạo hoặc can thiệp khi đẻ cao hơn so với giống chó nội, quá trình can thiệp và thụ
tinh không đảm bảo vệ sinh có thể gây nhiễm khuẩn từ dụng cụ ảnh hưởng đến
cơ quan sinh dục của chó. Rối loạn nội tiết và nhiễm trùng là nguyên nhân cơ bản
của quá trình bệnh lý chính xảy ra trong tử cung. Sự bất thường của buồng trứng
và rối loạn nội tiết được cho là nguyên nhân chính của viêm nội mạc tử cung
(Kida & cs., 2006). Những thay đổi về nồng độ hormone steroid buồng trứng
trong máu và trong các thụ thể trong tử cung với viêm tử cung đã được nghiên
cứu (De Bosschere & cs., 2002). Trong khi đó, các giống chó nội thường được
nuôi thả rông, không nuôi nhốt, vì vậy chúng được tự do giao phối cũng như sinh
sản theo chu kỳ, nên ít khi bị rối loạn hormone.
4.1.3. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo mùa vụ
Bệnh viêm tử cung thường xảy ra giai đoạn sau sinh, trong khi đó mùa
xuân thường là mùa sinh sản ở chó. Tuy nhiên, khi đánh giá mối liên quan giữa
tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung và mùa sinh sản qua bảng 4.3 cho thấy, tỷ lệ mắc
bệnh viêm tử cung cao nhất vào mùa hè 31,62%, trong khi đó mùa xuân và mùa
thu có tỷ lệ mắc thấp hơn và không có sự khác biệt giữa hai mùa này (22,79% và
21,32%).
Tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung có liên quan đến mùa sinh sản trên chó, mùa
sinh sản ở chó thông thường vào mùa xuân, sự mở cổ tử cung trong quá trình đẻ
tạo cơ hội cho vi khuẩn gây bệnh xâm nhập, sau một thời gian ủ bệnh và phát
triển thì đến mùa hè mới xuất hiện các triệu chứng rõ ràng. Mùa xuân cũng là
56
thời điểm chủ nuôi thực hiện phối giống nhiều cho chó, tăng nguy cơ nhiễm
khuẩn tử cung gây ra quá trình viêm. Quá trình mang thai thường diễn ra trong
khoảng 2 tháng sau khi phối nhưng cho đến khi khám thai bằng siêu âm ở giai
đoạn cuối thai kỳ mới phát hiện bệnh. Theo Antonov & cs. (2015) phân tích sự
xuất hiện của viêm tử cung theo mùa cho thấy bệnh xảy ra thường xuyên nhất
vào tháng 9 (11,98%), tháng 5 (11,52%) và tháng 10 (10,6%). Số trường hợp
mắc bệnh được quan sát thấy vào mùa đông không có sự khác biệt với các mùa
còn lại (24,27%). Kết quả của chúng tôi tương tự với báo cáo của Laurusevicius
& cs. (2009) khi tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung cao nhất vào mùa hè và thường
được quan sát thấy nhiều nhất ở chó sau khi động dục được khoảng một tháng.
Theo Egenvall & cs. (2001), điều này là do các yếu tố địa lý của địa phương với
sự khác biệt về khí hậu và nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến nguyên nhân gây bệnh
viêm tử cung theo mùa.
Bảng 4.3. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo mùa vụ
Mùa Số ca bệnh (con) Tỷ lệ (%)
Xuân 31 22,79
a
Hạ 43 31,62b
Thu 29 21,32
a
Đông 33 24,27ab
Tổng 136 100
Chú thích: Các chữ cái trên cùng một cột khác nhau là tỉ lệ viêm tử cung khác nhau có ý nghĩa (P<0,05)
4.1.4. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa đẻ
Qua khảo sát trực tiếp 136 chó đến khám và phát hiện bị viêm tử cung, chỉ
có 119 ca bệnh chúng tôi thu thập được thông tin về lứa đẻ và kết quả được trình
bày ở bảng 4.4.
Qua bảng 4.4 cho thấy, những chó đẻ nhiều lứa thì ít bị viêm tử cung hơn
những chó không cho sinh sản hoặc chó đẻ ít lứa (sinh sản không đều đặn). Cụ
thể, chó ở lứa đẻ 0 (chưa từng sinh sản) hoặc không được sinh sản có tới 55,46%
mắc viêm tử cung, chó đã đẻ 1 lứa có tỷ lệ mắc bệnh là 25,21%, chó đẻ hai lứa có
57
tỷ lệ mắc 14,29% và chó đã đẻ 3 và 4 lứa có tỷ lệ mắc bệnh rất thấp (3,36% và
1,68%).
Bảng 4.4. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa đẻ
Lứa đẻ Số ca (con) Tỷ lệ (%)
0 66 55,46
d
1 30 25,21
c
2 17 14,29
b
3 4 3,36
a
4 2 1,68
a
Tổng 119 100
Chú thích: Các chữ cái trên cùng một cột khác nhau là tỷ lệ viêm tử cung khác nhau
có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Kết quả trên tương đương với kết quả nghiên cứu của Fukuda (2001), khi
thực hiện đánh giá trên 25 chó Beagle viêm tử cung, tỷ lệ mắc bệnh đạt 60% ở chó
chưa sinh sản và 40% chó đã đẻ từ 1 đến 3 lứa. Tương tự, nghiên cứu Niskanen
&Thrusfield (1998) trên 953 chó mắc viêm tử cung đã báo cáo rằng chó cái chưa
đẻ (925/9865 chó) có nguy cơ mắc viêm tử cung cao hơn những chó cái đã đẻ một
lứa hoặc nhiều lứa (10/635 chó) (tỷ số OR khoảng 6,63). Kết quả này cho thấy
nguy cơ gia tăng viêm tử cung ở những chó chưa sinh sản, gồm cả những chó đã
bỏ qua nhiều lứa đầu tiên không cho sinh sản sau mới cho sinh sản lại.
Theo Smith (2006), trước đây thường định nghĩa viêm tử cung xảy ra chỉ
khi tử cung bị nhiễm trùng. Nhưng thời gian gần đây, đã phát hiện ra nguyên
nhân nguyên phát là do sự bất thường về hormone trên những chó không sinh sản
hoặc sinh sản không đều đặn, còn nhiễm trùng chỉ là thứ phát.Viêm tử cung điển
hình phát triển sau khi động dục, trong giai đoạn thể vàng, 20-70 ngày sau khi
kết thúc động dục (Bigliardi & Pamigiani, 2004), và được mô tả là xảy ra ở 93%
ca bệnh trong vòng 12 tuần sau khi động dục. Những thay đổi trong nội mạc tử
cung thứ phát sau khi tăng sinh tuyến tử cung và thoái hóa nang trứng dẫn đến
viêm tử cung. Người ta cho rằng những thay đổi tăng sinh và bài tiết được đề cập
do ảnh hưởng của phản ứng quá mức của nội mạc tử cung đối với oestrogen và
58
progesterone (hyperoestrogenisation). Ngoài ra, rối loạn chức năng của buồng
trứng ở chó cái thường góp phần vào những thay đổi thoái hóa trong tử cung.
Thêm vào đó, vào giữa những năm 1980, một thực thể bệnh đã được mô tả,
được gọi là phức hợp viêm nội mạc tử cung - viêm tử cung tích mủ, bao gồm ba
dạng lâm sàng: (a) viêm tử cung tích mủ, (b) viêm nội mạc tử cung mãn tính và
(c) tăng sản nội mạc tử cung dạng nang (Zdunczyk & cs., 2006 ). Bệnh vẫn chưa
được giải thích đầy đủ cho đến nay, nhưng người ta biết rằng rối loạn nội tiết và
nhiễm trùng do vi khuẩn là nguyên nhân cơ bản của phức hợp này và các quá
trình bệnh lý chính xảy ra trong tử cung. Các bất thường buồng trứng và rối loạn
nội tiết do ảnh hưởng kéo dài của estrogen (động dục kéo dài, u nang buồng
trứng) được cho là nguyên nhân chính của phức hợp viêm nội mạc tử cung -
viêm tử cung tích mủ (Kida & cs., 2006). Những hormone này thúc đẩy sự sản
sinh quá mức của nội mạc tử cung và kéo dài thời gian mở cổ tử cung.
Progesterone cũng góp phần vào sự phát triển của bệnh viêm tử cung, việc sử
dụng progesterone để động dục và đồng bộ hóa rụng trứng ở chó cái cũng có thể
là nguyên nhân gây bệnh. Tác động của progesterone lên tử cung chó bao gồm
làm giảm phản ứng miễn dịch tại chỗ, thúc đẩy sự bài tiết trong các tuyến nội
mạc tử cung, giảm tính linh hoạt và đóng cổ tử cung. Sự xâm nhập của vi khuẩn
E. coli vào trong tử cung, đi lên từ âm đạo trong giai đoạn thể vàng, gây ra tình
trạng viêm bên trong cơ quan này. Người ta đã chứng minh rằng progesterone
gây ra sự phát triển của các thụ thể nội mạc tử cung, cho phép sự bám dính của
các khuẩn lạc E. coli. Ngoài ra, sử dụng quá muộn progestagens trong giai đoạn
trước động dục để gây động dục ảnh hưởng đến các quá trình viêm trong tử cung
chó, hơn 20% các trường hợp EPC là do sử dụng hormone.
Một thực tế cho thấy, nhiều chủ chó không muốn cho chó sinh sản, nhưng
cứ 4-6 tháng chó lại xuất hiện chu kỳ động dục, khi đó máu cùng niêm dịch từ cơ
quan sinh dục thường chảy ra ngoài, chủ chó thường gọi bác sỹ thú y đến để tiêm
thuốc ức chế động dục. Các bác sỹ thú y thường sử dụng loại thuốc ngừa thai của
người là Depo-provera với thành phần là Medroxyprogessterone acetate để ức
chế động dục ở chó. Khi sử dụng thuốc này làm cho hàm lượng progesterone
tăng cao, trong khi đó lớp nội mạc tử cung rất nhạy cảm với progesterone sẽ hình
thành các nang dẫn đến tăng tiết dịch, nhất là ở thời điểm sau động dục, làm cho
tế bào dễ bị cảm nhiễm, từ đó nguy cơ bệnh viêm tử cung tăng cao. Điều này giải
thích tại sao những chó không sinh sản hoặc sinh sản không đều đặn thường bị
59
mắc viêm tử cung cao hơn những chó sinh sản bình thường (Sử Thanh Long &
Trần Lê Thu Hằng, 2015).
Việc tăng nguy cơ mắc viêm tử cung ở những chó chưa đẻ lứa nào so với
những chó đã đẻ một hoặc nhiều lứa cũng được trình bày trong một số nghiên
cứu như Sử Thanh Long & Trần Lê Thu Hằng (2015) đã cho thấy mối quan hệ
nhất định giữa việc chưa đẻ lần nào và viêm tử cung ở chó cái.
Theo Baithalu & cs. (2010), các nghiên cứu trước đây cho rằng chó cái
chưa sinh sản, chó cái bất thường về chu kỳ động dục và mang thai giả làm tăng
nguy cơ mắc viêm tử cung, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây khuyến nghị rằng
không có mối liên quan giữa chu kỳ động dục bất thường và mang thai giả và
viêm tử cung. Tuy nhiên, có mối quan hệ nhất định giữa chó chưa đẻ lần nào và
bệnh viêm tử cung. Các yếu tố nguy cơ đối với viêm tử cung bao gồm việc chó
chưa sinh sản lứa nào và liệu pháp nội tiết (estrogen và progesterone)
(Whitehead, 2008; Niskanen & Thrusfield, 1998) trong khi mang thai giả đã
được được đề xuất như một yếu tố an toàn. Ảnh hưởng của một số yếu tố nguy
cơ chẳng hạn như việc chó chưa sinh sản có thể khác nhau giữa các giống chó
(Hagman & cs., 2011; Jitpean, 2015). Như vậy, cần xem xét những trường hợp
chó đã quá tuổi sinh sản, đã qua nhiều lần động dục nhưng chưa được phối giống,
mang thai và số lần đẻ, ngoài ra bác sỹ cũng cần tư vấn cho chủ nuôi khi không
muốn chó sinh sản cần tiến hành triệt sản sớm để phòng ngừa nguy cơ viêm tử
cung trên chó.
4.1.5. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa tuổi
Để tìm hiểu mối liên hệ giữa tuổi và bệnh viêm tử cung, chúng tôi sắp xếp
những chó bệnh vào trong 3 nhóm tuổi, số liệu cụ thể được trình bày ở bảng 4.5.
Từ kết quả của bảng 4.5 cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh viêm tử cung tăng dần
theo lứa tuổi của chó, cao nhất gặp ở chó từ 5 năm tuổi trở lên với 49,26% thấp
nhất ở chó từ 1-2 năm tuổi với 25,45%. Nguyên nhân do những chó lớn tuổi
không cho sinh sản mà không được cắt bỏ tử cung và buồng trứng, lúc này
progesterone vẫn được buồng trứng tiết ra, lớp nội mạc tử cung của chó rất nhạy
cảm với progesterone nên sẽ hình thành những nang, những nang này tiết nhiều
dịch và lưu lại bên trong tử cung làm gia tăng kích thước của tử cung. Khi bệnh
tiến triển, dịch tràn ra ngoài âm đạo, lúc này vi khuẩn có sẵn ở âm đạo đi vào bên
60
trong qua cổ tử cung và gây nhiễm trùng. Cơ thể đáp ứng lại với sự nhiễm trùng
bằng cách huy động nhiều tế bào bạch cầu đến tử cung, mặt khác tử cung vẫn gia
tăng sự tiết dịch, từ đó càng làm cho tử cung căng lớn ra.
Bảng 4.5. Thực trạng chó đến khám bị viêm tử cung theo lứa tuổi
Tuổi (năm) Số chó bị bệnh (con) Tỷ lệ (%)
Dưới 2 21 25,45a
Từ 2 - 5 48 35,29b
Trên 5 67 49,26
c
Tổng cộng 136 100
Chú thích: Các chữ cái trên cùng một cột khác nhau là tỷ lệ viêm tử cung khác nhau có ý nghĩa (P<0.05)
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu thực hiện đánh giá tỷ lệ mắc bệnh ở
các độ tuổi của chó nhưng cho kết quả khác nhau.
Trong nghiên cứu của Fakuda (2001), lứa tuổi trung bình mắc bệnh viêm tử
cung của giống chó Beagle là 9,36 0,38, tất cả các chó mắc bệnh đều lớn hơn 4
tuổi. Chó cái bị viêm tử cung có thể do quá trình phối giống, do chó đực bị bệnh
về đường sinh dục nên gây viêm nhiễm cho chó cái trong quá trình giao phối,
hoặc do kĩ thuật thụ tinh nhân tạo còn kém, gây sây sát niêm mạc đường sinh dục
cũng như vệ sinh bẩn đã làm cho vi khuẩn phát triển gây bệnh.
Theo Baithalu & cs. (2010) cũng báo cáo bệnh viêm tử cung thường xảy ra
ở nhiều lứa tuổi sau lần động dục đầu tiên, thông thường là tình trạng từ chó
trung tuổi đến chó già, độ tuổi trung bình báo cáo 7,25 năm tuổi trong khoảng từ
4 tháng tuổi đến 16 năm tuổi. Nghiên cứu Antonov & cs. (2015) cho thấy tuổi
trung bình chó cái mắc viêm tử cung dao động tử 1 đến 17 năm tuổi (trung bình
7,55±3,45 năm tuổi), trong đó chó cái 7 năm tuổi chiếm đến 11,98% trong tất cả
các trường hợp. Thời gian khởi phát của bệnh viêm tử cung thường xuyên nhất là
4 tuần sau lần động dục gần nhất (33,18% trong tất cả các trường hợp). Tuy
nhiên, độ tuổi có nguy cơ phát triển viêm tử cung là khác nhau giữa các giống.
Các giống chó nhỏ như Bolognese, Miniature Pinscher (Fox Min Pin), Pekingese
(chó Bắc Kinh) thường phát triển bệnh viêm tử cung muộn trong thời gian sống
(12,57 ± 2,44, 8,44 ± 4,12 và 8,22 ± 3,80 năm) so với những giống chó lớn như
61
Caucasian Shepherd và Bulgarian Shepherd (6,00 ± 3,24 và 6,25 ± 1,67 năm).
Trong khi đó, chó Siberian Husky bị viêm tử cung phát triển trong khoảng 5,67 ±
3,98 năm tuổi. Việc sử dụng hormone điều trị bao gồm sử dụng progestins để ức
chế động dục hoặc estrogens để gây động dục hoặc loại bỏ thai có thể giải thích
cho sự phát triển bệnh viêm tử cung ở những chó ít tuổi.
Thêm vào đó, nhiều trường hợp chó mắc mắc bệnh phức hợp tăng sản nội
mạc tử cung dạng nang (CEH/P), trước đó được gọi là phức hợp viêm nội mạc tử
cung-viêm tử cung tích mủ (EPC), là một trong những bệnh tử cung nghiêm
trọng nhất và phổ biến nhất ở chó cái (Kida & cs., 2006). Người ta ước tính rằng
phức hợp CEH/P là rối loạn sinh sản phổ biến nhất ở chó và có thể ảnh hưởng
đến 25% tổng số chó cái trước 10 tuổi (Egenvall & cs., 2001). Tuổi trung bình
của một chó cái với phức hợp CEH/P thay đổi từ 6 đến 10 năm tuổi (Niskanen &
Thrusfield, 1998) và 5,5 năm ở những chó cái được điều trị bằng oestrogen.
Nghiên cứu Hagman (2004) đã báo cáo khi tuổi sinh học được thêm vào, hầu
hết các rủi ro riêng dành cho các giống chó đều giảm ngoại trừ giống Golden và
Retriever lại tăng lên. Giống chó này rõ ràng có nguy cơ phát triển bệnh viêm tử
cung cao hơn và ảnh hưởng thậm chí còn rõ ràng hơn khi được điều chỉnh theo tuổi
sinh học vì rất ít chó Golden và Retrievers chết sớm. Khi điều chỉnh tuổi sinh học
của hai giống chó German Shepherd và Drever phân tích trong mô hình đa biến cho
thấy nguy cơ phát triển bệnh viêm tử cung thấp hơn so với dữ liệu cơ sở. Rủi ro thấp
có thể phản ánh thực tế nhiều chó thuộc các giống này chết sớm hơn (ví dụ: Drevers
là chó săn thường chết vì chấn thương). Kết quả có thể khác nhau và những giống
này được đưa vào dữ liệu cơ sở nếu biến tuổi sinh học chỉ bao gồm chết do bệnh
(trái ngược với chết do chấn thương hoặc bệnh). Các tương tác với tuổi sinh học có
thể được hiểu như ở một số giống (Rottweiler, Collie lông xù, Golden Retriever và
Cavalier King Charles Spaniel), nguy cơ mắc bệnh viêm tử cung thực sự tăng nhiều
hơn và ở độ tuổi sớm hơn so với các giống khác, những giống này có thể mang gen
di truyền mắc viêm tử cung cao hơn các giống khác. Nhìn chung, sự khác biệt về
giống có thể phản ánh sự khác biệt di truyền thực sự hoặc chỉ đơn thuần là sự phản
ánh tuổi thọ trung bình kéo dài khác nhau ở các giống khác nhau. Một số chủ nuôi
có thể mong muốn triệt sản chó cái ở tuổi sớm hơn để ngăn ngừa sự phát triển viêm
62
tử cung. Với độ tuổi khác nhau thì nguy cơ khác nhau, tuổi tối đa hoặc tối ưu để lựa
chọn triệt sản khác nhau giữa các giống chó. Có vẻ như khuynh hướng mắc bệnh
viêm tử cung là giống nhau giữa các quốc gia, nhưng việc tạo thói quen triệt sản ở
độ tuổi sớm hơn để phòng bệnh viêm tử cung làm giảm tỷ lệ tần số mắc bệnh thực tế
khác nhau. Sự phát triển của bệnh viêm tử cung phụ thuộc vào một số yếu tố, trong
đó giống là một trong những yếu tố quan trọng nhất để dự đoán nguy cơ phát triển
bệnh. Bệnh có nguy cơ phát triển cao ở một số giống chó lớn hoặc giống chó kích
thước rất lớn và cũng tăng theo tuổi tác (Jitpean, 2015). Do vậy, khi thực hiện phẫu
thuật triệt sản hay lựa chọn phương pháp điều trị cần xem xét các yếu tố giống và
tuổi chó để đưa ra phương án hiệu quả. Nói chung, sự khác biệt về giống có thể phản
ánh sự khác biệt về gen thực sự hoặc chỉ đơn thuần là sự phản ánh của vòng đời
khác nhau ở các giống khác nhau. Nếu tồn tại sự khác biệt di truyền thực sự trong dự
đoán, thì khả năng thành lập các chương trình nhân giống để kiểm soát bệnh có thể
được xem xét.
4.1.6. Tần suất xuất hiện triệu chứng biếng ăn ở chó bị viêm tử cung
Viêm tử cung là một căn bệnh có khả năng đe dọa tính mạng của chó ảnh
hưởng đến khoảng 25% ở giai đoạn trước 10 tuổi (Egenvall & cs., 2001) với các
biến chứng nghiêm trọng bao gồm nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm trùng, viêm
phúc mạc và rối loạn chức năng đa cơ quan (Fransson & cs., 2004; Jitpean & cs.,
2014a). Do đó, việc xác định bệnh sớm là rất quan trọng để điều trị giúp tăng cơ
hội sống sót.
Phương pháp chẩn đoán bệnh trước tiên căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng,
tuy nhiên bệnh viêm tử cung ở giai đoạn đầu thường khó phát hiện bởi các triệu
chứng thường không rõ ràng hoặc không đầy đủ. Vì vậy, nội dung này được thực
hiện nhằm xác định các dấu hiệu lâm sàng của chó mắc bệnh viêm tử cung để
làm cơ sở ban đầu cho chẩn đoán bệnh sớm. Kết quả tần suất xuất hiện triệu
chứng lâm sàng biếng ăn được thể hiện ở bảng 4.6.
Trong tổng số 136 chó được mang đến khám và có thông tin rõ ràng về chỉ
tiêu thu nhận thức ăn trên chó bị mắc bệnh viêm tử cung (Bảng 4.6) cho thấy,
triệu chứng biếng ăn không xuất hiện thường xuyên trên chó mắc bệnh viêm tử
cung (38,24%) và tỷ lệ mắc bệnh ở dạng mở cao hơn so với dạng đóng (57,35%
so với 42,65%).
63
Bảng 4.6. Tần suất xuất hiện triệu chứng biếng ăn
ở chó biểu hiện viêm tử cung
Triệu chứng Tỷ lệ (%)
Viêm tử
cung
dạng
đóng
Viêm tử
cung dạng
mở
Tổng
Không biếng
ăn
Tần suất 44 40 84
Tỷ lệ (%) giữa các dạng
viêm tử cung
52,38
a
47,62
a
61,76
I Tỷ lệ (%) trong dạng viêm
tử cung
75,86
I
51,28
I
Tỷ lệ (%) so với toàn bộ 32,35A 29,41A
Biếng ăn
Tần suất 14 38 52
Tỷ lệ (%) giữa các dạng
viêm tử cung
26,92
a
73,08
b
38,24
II Tỷ lệ (%) trong dạng viêm
tử cung
24,14
II
48,72
I
Tỷ lệ (%) so với toàn bộ 10,29B 27,94A
Tổng trong
dạng viêm
Tần suất 58 78 136
Tỷ lệ (%) 42,65a 57,35b 100
Chú thích: Trong cùng một hàng của tỷ lệ các dạng viêm tử cung theo triệu chứng biếng ăn hoặc không
biếng ăn, nếu các giá trị có ký hiệu chữ in thường nhỏ phía trên bên phải khác nhau thì khác nhau có
ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trong cùng một cột tỷ lệ của cùng dạng viêm tử cung giữa triệu chứng
biếng ăn so với với không biếng ăn, nếu các giá trị có ký hiệu chữ số la mã nhỏ phía trên bên phải
khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Trong cùng bảng về tỷ lệ từng dạng viêm
tử cung theo từng triệu chứng so với tổng thể, nếu các giá trị có ký hiệu chữ in hoa phía trên
bên phải khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Khi đánh giá tỷ lệ mắc từng dạng bệnh viêm tử cung trong cùng triệu
chứng, chó có biểu hiện biếng ăn thường mắc viêm tử cung dạng mở (73,08%).
Trong khi chó mắc bệnh nhưng không có triệu chứng biếng ăn thì tỷ lệ mắc bệnh
dạng mở và dạng đóng không có sự khác biệt (47,62% và 52,38%).
Đánh giá theo từng dạng bệnh viêm tử cung, ở những ca bệnh dạng đóng
phần lớn không xuất hiện triệu chứng biếng ăn (75,86%) trong khi dạng mở
64
không có sự khác biệt về mặt thống kê giữa chó mắc viêm tử cung có hoặc không
biếng ăn (48,72% và 51,28%).
Biếng ăn là một trong những triệu chứng lâm sàng toàn thân cổ điển của
bệnh viêm tử cung ở chó. Rối loạn tiêu hóa là một trong những tác động gây ra
của bệnh viêm tử cung trên chó cái, cụ thể các biểu hiện như biếng ăn, nôn mửa,
tiêu chảy... Kết quả của nghiên cứu này tương tự với một số báo cáo trước đây
khi đánh giá về triệu chứng lâm sàng chó mắc viêm tử cung cho thấy, tỷ lệ ca
bệnh xuất hiện triệu chứng biếng ăn dao động trong khoảng 42 - 87% (Jitpean &
cs., 2017). Theo nghiên cứu Lika & cs. (2011) khi đánh giá về các đặc điểm lâm
sàng trên các nhóm chó mắc viêm tử cung dạng đóng và viêm tử cung dạng mở,
tỷ lệ ca bệnh xuất hiện triệu chứng biếng ăn ở nhóm viêm tử cung dạng mở là
73,3% (11/15 chó) và ở nhóm viêm tử cung dạng đóng là 30% (6/20 ca bệnh).
Tương tự nghiên cứu Jitpean & cs. (2014b) khi tiến hành đánh giá trên 356 ca
bệnh mắc viêm tử cung cho thấy tỷ lệ xuất hiện triệu chứng biếng ăn chiếm 69%
(193/280 chó). Ngoài ra, tác giả Jitpean & cs. (2014b) cũng tiến hành phân tích
mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, kết quả khám sức khỏe và kết quả xét
nghiệm phòng thí nghiệm và nguy cơ nhập viện kéo dài sau phẫu thuật (≥ 3
ngày) ở chó cái mắc bệnh viêm tử cung, kết quả không cho thấy sự khác nhau có
ý nghĩa thống kê giữa nhóm xuất hiện biểu hiện biếng ăn (20%, 34/167 chó) và
nhóm không xuất hiện triệu chứng biếng ăn (11%, 9/79 chó). Tuy nhiên, khi
đánh giá mối liên quan giữa các dấu hiệu lâm sàng, kết quả khám sức khỏe và kết
quả xét nghiệm ở phòng thí nghiệm và sự hiện diện của viêm phúc mạc ở chó cái
mắc bệnh viêm tử cung đã cho thấy nhóm chó xuất hiện triệu chứng biếng ăn có
tỷ lệ mắc viêm phúc mạc là 13% (22/166 chó) cao hơn so với nhóm chó không
xuất hiện triệu chứng biếng ăn 5% (4/79 chó).
Theo Jitpean & cs. (2017) nghiên cứu trong thời gian không liên tục trong
giai đoạn 2005-2012, khi đánh giá trên 111 chó cái mắc viêm tử cung bao gồm
72 chó (65%) mắc viêm tử cung dạng mở, và 39 chó (35%) mắc viêm tử cung
dạng đóng. Kết quả cho thấy tình trạng chung các ca bệnh từ mức trung bình đến
mức suy yếu thường phổ biến ở những chó mắc viêm tử cung dạng đóng so với
viêm tử cung dạng mở. Nhiễm trùng huyết thường phổ biến với những chó mắc
viêm tử cung dạng đóng so với viêm tử cung dạng mở, kết quả này cho thấy chó
mắc viêm tử cung không xuất hiện dịch âm đạo có mức độ bệnh nặng hơn so với
65
những chó mắc viêm tử cung dạng mở và có dịch âm đạo (Smith, 2006). Ngoài
ra, triệu chứng biếng ăn biểu hiện không có sự khác nhau có ý nghĩa về mặt
thống kê khi so sánh giữa nhóm chó mắc viêm tử cung dạng đóng (62%) so với
viêm tử cung dạng mở (54%) (Jitpean & cs., 2017).
Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra chó mắc bệnh viêm tử cung chủ yếu ở dạng
mở. Jitpean & cs. (2014b) nghiên cứu trên 11 chó cái mắc bệnh viêm tử cung, ông
đã chỉ ra có 35% chó mắc viêm tử cung dạng đóng trong khi tỷ lệ mắc bệnh viêm
tử cung dạng mở chiếm tới 65%. Ở những chó mắc viêm tử cung dạng đóng, tình
trạng chung bị trầm cảm từ mức độ trung bình đến nghiêm trọng thường được phát
hiện khi được đưa đến phòng khám hơn so với chó mắc viêm tử cung dạng mở.
Điều này có thể chỉ ra rằng viêm tử cung dạng đóng sẽ có tiên lượng bệnh xấu hơn,
lúc này chó có thể sẽ xuất hiện các triệu chứng biếng ăn. Tuy nhiên, trong nghiên
cứu của chúng tôi, mặc dù tỷ lệ chó biếng ăn xuất hiện tần suất ít hơn nhưng lại rơi
vào nhóm chó mắc bệnh viêm tử cung dạng mở. Điều này có thể được lý giải trong
trường hợp chó mắc bệnh viêm tử cung dạng mở, hiện tượng dịch tích trong tử
cung làm cho con vật khó chịu, khi mức độ dịch đủ lớn có thể kích thích gây mở
cổ tử cung và dịch chảy ra ngoài, giai đoạn mủ tích trong tử cung và chảy dịch có
thể đang là giai đoạn nhiễm trùng máu, nhiễm trùng tử cung. Nếu cổ tử cung đóng
lại, mủ và các sản phẩm vi khuẩn vẫn còn trong tử cung, thường dẫn đến bệnh
nặng hơn so với khi có một ít dịch chảy qua cổ tử cung (Macphail, 2013). Chẩn
đoán sơ bộ của viêm tử cung được xác định bằng dữ liệu bệnh sử, khám sức khỏe
tổng thể và kết quả xét nghiệm kết hợp với chụp X quang hoặc / và siêu âm cho
thấy tử cung phì đại chứa đầy dịch. Vì vậy, sẽ gây sốt cho con vật, khi sốt thường
kèm theo biểu hiện mệt mỏi và biếng ăn. Còn đối với dạng đóng có thể do mủ tích
trong tử cung nhưng chưa đủ lớn để có thể gây lên hiện tượng nhiễm trùng máu
nên con vật vẫn khỏe mạnh ăn uống bình thường.
Sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa các giống chó đã được mô tả (Jitpean &
cs., 2012; Niskanen & Thrusfield, 1998). Chẩn đoán dựa trên tiền sử bệnh, khám
sức khỏe và các phân tích trong phòng thí nghiệm, thường được kết hợp với chụp
X quang hoặc siêu âm tử cung và buồng trứng. Các dấu hiệu lâm sàng thay đổi
tùy theo mức độ bệnh. Bệnh viêm tử cung có thể gây tử vong với tỷ lệ 3-4% nếu
không được điều trị (Egenvall & cs., 2