MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào 19
TIỂU KẾT CHưƠNG 1 29
Chương 2: VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG LÀO
30
2.1. Những vấn đề lý luận chung về văn hóa chính trị 30
2.2. Cơ sở hình thành và phát triển của văn hóa chính trị truyền thốngLào50
TIỂU KẾT CHưƠNG 2 66
Chương 3: NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRUYỀN THỐNG LÀO67
3.1. Những nét khái quát của văn hóa chính trị truyền thống Lào 67
3.2. Những giá trị: độc lập và tự chủ, tự lực và tự cường 80
3.3. Những giá trị: yêu nước và đoàn kết dân tộc 93
3.4. Những giá trị: đề cao đạo lý, tôn trọng chính nghĩa và bảo vệ cônglý103
3.5. Những giá trị: hòa bình và hữu nghị, hợp tác và phát triển 112
TIỂU KẾT CHưƠNG 3 125Chương 4: Ý NGHĨA CỦA NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRUYỀN THỐNG LÀO VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY126
4.1. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào góp phần định
hướng cho công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân làohiện nay126
4.2. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào với việc xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Làohiện nay135
4.3. Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào trong việc phát
triển văn hóa chính trị ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay146
TIỂU KẾT CHưƠNG 4 160
KẾT LUẬN 161
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 16
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Lào và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hạn chế những mặt trái của đời sống xã hội trong thời kỳ
đổi mới hiện nay.
Ngoài ra, khi xâm chiếm Lào, thực dân Pháp tiến hành truyền bá đạo Cơ
đốc do cha cố người Pháp truyền giáo. Tại một số đô thị như Viêng Chăn,
Luông Pha Bang, Xa Văn Na Khệt, Pác Sê xuất hiện một số nhà thờ. Sau khi
thực dân quay lại xâm lược Lào lần thứ hai (1946 - 1953), ở miền Nam Lào
xuất hiện một số cha cố người Mỹ, Ca Na Đa truyền bá đạo Tin lành. Nhưng
khi đế cuốc Mỹ can thiệp và xâm lược Lào, họ đã chủ động đưa một khoản
ngân sách lớn để sử dụng triển khai các hoạt động về tôn giáo. Một mặt, bọn
đế quốc bỏ tiền cho xây dựng nhiều nhà thờ, đưa cha cố vào truyền bá đạo tin
lành, thiên chúa giáo Ki - tô và các đạo Hồi ở phần lớn các đô thị ở Lào.
Những giá trị VHCT Lào truyền thống cũng như hiện đại được hình thành
từ Phật giáo với cả hai hướng tích cực và hạn chế. Ở hướng tích cực, Phật giáo
là trường học văn hóa và đạo đức của người Lào; góp phần hình thành nên hệ
thống các giá trị, niềm tin và chuẩn mực sống của người Lào theo tinh thần dĩ
hòa vi thượng, nhân ái và hòa hữu. Ở hướng hạn chế, Phật giáo hướng người
Lào đến lối sống an phận thủ thường hơn là phấn đấu vươn lên, chấp nhận thực
tế hơn là cải tạo thực tiễn, dường như thụ động và trông chờ (!).
79
3.2. NHỮNG GIÁ TRỊ: ĐỘC LẬP VÀ TỰ CHỦ, TỰ LỰC VÀ TỰ CƢỜNG
Lịch sử Lào trong quá trình dựng nước và giữ nước nhiều ngàn năm qua
là quá trình lịch sử trải qua nhiều thời kỳ hưng thịnh, thời kỳ đen tối và đất
nước bị chia cắt. Hơn hai phần ba thời gian phải đương đầu với các thế lực bên
ngoài luôn tìm cách thôn tính và đồng hoá. Con người Lào, với trí tuệ và sức
mạnh sáng tạo, nhân cách và bản lĩnh đã được hình thành trong các phong trào
giải phóng dân tộc; và đến lượt mình, chúng kết tinh trong tư tưởng và sức
mạnh đấu tranh cho độc lập tự do, trong quá trình đấu tranh xây dựng và bảo
vệ đất nước. Những giá trị và những tình cảm và tinh thần đó kết tụ thành các
giá trị văn hóa truyền thống, thành tư tưởng chủ đạo trong đường lối giữ nước
và khôi phục đất nước, thành nội dung chính trị của các nhà chính trị và các
triều đại trong lịch sử dân tộc Lào. Độc lập, tự chủ, tự lực và tự cường thực sự
trở thành những giá trị VHCT đặc sắc của truyền thống chính trị Lào.
3.2.1. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cƣờng của nhân dân
Lào trong thời kỳ Vƣơng quốc Lào Lạn Xạng (đầu thế kỷ XVI - cuối thế
kỷ XVIII)
Nhân dân Lào đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tử trong quá trình
dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử nhân loại, nhân dân các bộ tộc Lào
thuộc về các dân tộc phải chịu dựng nhiều thử thách khốc liệt và hy sinh to lớn
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Từ đấy, tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường của con người Lào đã được tôi luyện và được khẳng định một
cách thuyết phục. Tổng kết chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
NDCM Lào, có tác giả đã khẳng định, "từ trước đến nay, nhân dân các bộ tộc
Lào đều cùng sống trong tinh thần cộng đồng, hiền hòa, thanh bình, cần cù lao
động sáng tạo, yêu hòa bình, yêu đất nước, nhưng rất dũng cảm và không chịu
đầu hàng" [109, tr.69].
Nét nổi bật trong tư tưởng của người Lào là sự tự ý thức về vai trò và vị
trí của mình trước tổ tiên và cộng đồng dân tộc về độc lập và chủ quyền quốc
80
gia. Có thể thấy những thời kỳ lịch sử tiêu biểu như triều Chậu Phạ Ngừm từ
thế kỷ XIV, triều Xảm Xẻn Thay (1376 - 1418), triều Nạng Mạ Hả Thê Vi,
triều Vi Sun Lạ Rạt (1502 - 1520); thời kỳ kháng chiến chống Ayu Thaya và
quân A Vạ (Myama), triều vua Pho Thi Xa Rát (1520 - 1550), triều vua Xệt
Tha Thi Lát (1550 - 1598); thời kỳ toàn thịnh của Vương quốc Lào Lạn Xạng
dưới triều Xu Li Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt (thế kỷ XVII ); thời chống
quân xâm lược Xiêm thế kỷ XVIII, Phục hưng vương quốc Lào Lạn Xạng thế
kỷ XIX dưới triều Chậu A Nu Vông (1804 - 1828); phong trào đấu tranh của
nhân dân Lào chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; và thời xây dựng và phát
triển đất nước trong hòa bình và đổi mới hiện nay.
Nhìn lại lịch sử có thể thấy từ thế kỷ XIV, khi Chậu Phạ Ngừm trở về
đất Lào, nuôi chí lớn thống nhất đất nước và xây dựng chính quyền, củng cố
độc lập chủ quyền. Dưới thời Chậu Phạ Ngừm Phật giáo được du nhập và
hoằng dương đã làm cho tinh thần chính trị trong nước dịu đi, các cuộc chống
đối đều lắng xuống. Có thể nói Chậu Phạ Ngừm không chỉ là người thống nhất
quốc gia mà còn là người đã đưa Phật giáo lên địa vị quốc giáo ở Lào. Khi đạo
Phật trở thành quốc giáo của nhà nước Lạn Xạng, nó đã tạo điều kiện thống
nhất về tinh thần và tư tưởng, góp phần quan trọng vào việc củng cố nhà nước
thống nhất mới ra đời. Việc mở mang các bang giao với thế giới được thúc
đẩy, Chậu Phạ Ngừm phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt và việc
xây dựng, phát triển đất nước, nhưng nhà vua cũng vẫn chú ý tới việc đặt quan
hệ đối ngoại tốt với Cămpuchia và Đại Việt.
Sự thống nhất đất nước Lạn Xạng vào thời kỳ Chậu Phạ Ngừm là một
bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nước
Lào. Từ đấy, Lào Lạn Xạng đã bước vào một thời kỳ tiến triển mạnh mẽ và đã
viết nên nhiều trang sử vẻ vang. Tuy vậy, nhà nước Lạn Xạng thống nhất so
với các nước phong kiến tập quyền phương đông khác thì ít tính chất tập trung
hơn. Các mường hợp thành vương quốc này vẫn giữ được khá nhiều tính độc
81
lập của nó. Các chậu mường vẫn duy trì được quyền thế tập của mình. Vì thế
sự thống nhất chưa được vững chắc. Những người kế nghiệp Chậu Phạ Ngừm
sau này thường phải dựa vào một trong những nhóm quý tộc này để chinh phục
và trừng phạt một nhóm quý tộc khác. Ngoài ra, yếu tố địa hình tạo thêm điều
kiện để duy trì các tình trạng cát cứ địa phương trong hoàn cảnh kinh tế chưa
thật sự phát triển.
Từ đầu thế kỷ XVI, tình hình Lào Lạn Xạng tương đối ổn định, nhân
dân được sống trong hoà bình và xây dựng đất nước. Tinh thần độc lập vẫn
được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên, tinh thần tự lực, tự cường cũng thể hiện nổi
bật. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo có điều kiện để ngày càng phát triển ở Lào.
Dưới triều đại Vi Sun Lạ Rạt (1502 - 1520) Tam tạng kinh đã được chính nhà
vua dịch từ tiếng Pa Li Xăng Xcrít sang tiếng Lào. Bộ Ni Than Khún Bu Lôm
(bộ sử Lào đầu tiên) do Phạ Mạ Hả Thệp Luổng, Mạ Hả Mung Khun, vua Vi
Xun Lạ Rạt và các quan triều thần cùng tham gia biên soạn. Do cuộc sống hoà
bình, thơ ca cũng rất phát triển ở thời kỳ này. Đời sống tinh thần và tâm linh
một mặt thể hiện khát vọng hướng thiện của nhân dân Lào, song khát vọng về
một đất nước yêu hoà bình và thịnh vượng chiếm vị trí ưu thế.
Sau đó, Chậu Phô Thi Xả Rạt lên nối ngôi. Dưới triều đại của ông, Phật
giáo càng phát triển mạnh. Đặc biệt, Phật giáo có nguồn gốc Xiềng Mại được
ưu tiên phát triển hơn. Phô Thi Xả Rạt cũng là ông vua đầu tiên quy định các
nhà vua phải tu trước khi lên ngôi. Vai trò của Phật giáo được nhà vua nâng
cao, vua đồng thời là Phật, thần quyền và vương quyền được đồng nhất. Để
nâng cao hơn nữa vai trò của Phật giáo, năm 1527, vua Phô Thi Xả Rạt đã ra
sắc lệnh cấm thần dân trong nước thờ Phì, mà chỉ được phép thờ Phật. Với sắc
lệnh trên, việc thờ phì từ xa xưa của nhân dân Lào bị bãi bỏ. Các đền xưa miếu
cũ bị đập đi để xây dựng chùa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Lào, Phật giáo
được đưa lên địa vị độc tôn và hoàn toàn thắng thế đối với các tôn giáo khác ở
Lào, và đây cũng là thời kỳ Phật giáo có nguồn gốc Xiêng Mại, có điều kiện
82
phát triển ở Lào Lạn Xạng. Vua Phô Thi Xả Rạt sau một thời gian ở Xiêng
Mại, đã cho rước tượng Phật Kẹo Mo Là Cột (tượng phật ngọc bích) và tượng
phật xẹckhăm (tượng phật bằng vàng) về Xiêng Thoong. Các hoạt động mang
tinh chất sùng bái Phật giáo của vua Phô Thi Xả Rạt đã khiến cho Phật giáo
phát triển mạnh mẽ ở Lào Lạn Xạng. Cùng với giá trị tinh thần và tâm linh của
nhân dân, đạo Phật phát triển và trở thành quốc giáo đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc để thúc đẩy sự nghiệp chấn hưng đất nước, xây dựng xã
hội thanh bình. Điều đó chứng minh rõ, trong đời sống thực tế, ở thế kỷ XVII -
thời kỳ toàn thịnh của Vương quốc Lào Lạn Xạng, và nhất là khi vua Xu Li
Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt lên ngôi (1633) Lào Lạn Xạng bước vào thời
kỳ ổn định và phát triển phồn vinh.
Tinh thần độc lập, tự lực, tự cường của chính trị Lào cũng thể hiện sự lựa
chọn đời sống và giá trị tinh thần của dân tộc - đó là sự lựa chọn Phật giáo. Phật
giáo đã được người Lào tiếp nhận từ thời kỳ Lào còn là các mường địa phương.
Khi Chậu Phạ Ngừm thống nhất quốc gia, Phật giáo được tôn lên địa vị quốc
giáo. Thế kỷ XVI, dưới thời Phô Thi Xả Rạt, Phật giáo đã được đưa lên địa vị
độc tôn ở Lào Lạn Xạng. Với sự hưng thịnh của vương quốc dưới triều Xu Li
Nha Vông Xả Phật giáo đã được phát triển đến định cao với sự thống nhất của tổ
chức tăng giới Phật giáo toàn vương quốc. Người đứng đầu tổ chức tăng giới
Phật giáo là Phật vương. Chức Phật vương được gọi là Phạ Mạ Hả Xả Mị. Tăng
giới Phật giáo được phân cấp từ Trung ương đến địa phương.
Khi tăng giới Phật đã được thống nhất trên cả nước với sự hoằng dương
mạnh mẽ của Phật giáo thì Viêng Chăn cũng đã trở thành một trung tâm Phật
giáo của toàn khu vực. Bấy giờ ở Viêng Chăn đã có nhiều nhà sư học rộng,
thông hiểu giáo lý Phật. Các nhà sư rất có uy tín trong xã hội và từng tham gia
trọng trách của quốc gia như việc tham gia hoạch định biên giới Lào - Xiêm.
Trong số những nhà sư danh tiếng ở Lào Lạn Xạng thời kỳ này người được coi
là tài cao học rộng nhất là Phạ Mạ Hạ Yót Kẹo Phôn Sa Mệc.
83
Sự hưng thịnh của vương quốc là sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo
Lào thế kỷ XVI - XVII đã ảnh hưởng có tính chất quyết định đối với ngôn ngữ
- văn tự Lào. Cùng với sự phát triển của phật giáo và văn minh Ấn Độ, tiếng
Pali - Xăng Xcrit đã theo đường Xrilanca đến xứ sở của người Môn ở Nam
Myanma và Tây Lào. Tại đây, người Môn đã kết hợp giữa tiếng Pali Xăng Crit
với ngôn ngữ của mình để tạo nên một loại chữ dùng chép kinh Phật. Trên cơ
sở chữ Myanma và chữ Xiềng Mại, người Lào đã biết kết hợp với tiếng Lào để
tạo nên chữ Thăm dùng chép kinh Phật, nhưng đọc theo âm Lào. Từ đó, chữ
Lào chính thức ra đời và nó được dùng không chỉ để chép kinh Phật mà còn
được dùng trong sáng tác văn học. Mặc dù đã có chữ Thăm, song có lẽ do
muốn diễn đạt kinh Phật sát nghĩa hơn - hoặc là tầng lớp trên của xã hội Lào
muốn có một loại văn tự khác với quảng đại quần chúng, nên các trí thức Lào
đã sáng tạo ra một loại chữ chép kinh trên bia là chữ Thăm - Pali.
Giá trị VHCT độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đất nước của nền chính
trị Lào cũng thể hiện rõ và đậm nét trong đời sống luật pháp. Từ thế kỷ XVII,
bộ luật cổ đầu tiên của Lào ra đời. Đó là bộ luật dưới triều Xu Li Nha Vông Xả
Thăm Mi Kạ Lạt, dựa trên nền tảng giáo lý đạo Phật, răn dạy con người phải từ
bi bác ái và phải nhìn nhận tội trạng một cách khách quan, những người thi
hành luật phải xét xử đúng tội danh, không gây oan uổng cho người vô tội. Nói
chung các điều luật đều phù hợp với tâm lý, tình cảm vị tha của người Lào.
Năm tiêu đề lớn của bộ luật là ngũ giới của Phật như Pa Na Ti Bát (Luật về
những hành động sát sinh), A Thin Na Than (Luật về những hành vi trộm cắp),
Mút Xa Chan (Luật về sự dâm ô), Mu Xa Vạt (Luật về những sự lửa đào), Xu
Ra (Luật về rượu). Mặc dù mang tiêu đề ngũ giới Phật, nhưng nội dung của bộ
luật quy định về xét xử các hành vi phạm tội, các hành vi trái với tục lệ của
bản, mường và vương quốc. Bộ luật quy định những quyền lợi và nghĩa vụ của
vua quan và tướng lĩnh đối với nước, với dân và thể hiện chính sách tiến bộ
của vương triều Xu Li Nha Vông Xả Thăm Mi Ka Lạt.
84
Các giá trị VHCT truyền thống về độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của
Lào cũng được thể hiện trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật - mới phản ánh
một cách sâu sắc và sinh động tư tưởng và đời sống chính trị của dân tộc. Thời
kỳ hưng thịnh mọi mặt là chính trị - xã hội - văn hóa của vương quốc Lào cũng
là thời kỳ văn học nghệ thuật Lào phát triển rực rỡ. Do Phật giáo phát triển đến
đỉnh cao nên văn học Lào thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo.
Đó là các tác phẩm văn học Phật giáo mà phần lớn là các câu chuyện kể về tiền
kiếp của đức Phật (các Jataka) du nhập vào Lào và được biến đổi phù hợp với
tình cảm của người Lào. Đó là truyện về những người anh hùng xây bản lập
mường, bảo vệ đất nước, đánh đuổi các loài ác quỷ, bảo vệ cuộc sống cho nhân
dân, về thân phận của người phụ nữ, ca ngợi chính nghĩa, thấm đượm triết lý
và đạo đức nhà Phật.
Ở thế kỷ XVII, sự độc lập dân tộc và sự phồn thịnh của vương quốc thể
hiện rất rõ và đặc sắc trong đời sống nghệ thuật của dân tộc, đồng thời đó cũng
là nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật Lào. Đó là sự phát triển
mạnh mẽ của kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ Lào. Về kiến trúc, nền kiến trúc
Phật giáo Lào thời kỳ này là kết quả xây dựng của nhân dân Lào qua 3 thế kỷ -
từ thời Chậu Phạ Ngừm đến thời Xu Li Nha Vông Xả. Thế kỷ XVI, sau khi dời
đô về Viêng Chăn, Xay Xệt Thạ Thi Lạt đã cho xây dựng các cung điện, chùa
tháp, trong đó có Thạt Luổng Viêng Chăn và tháp Mạc Mô ở Luổng Phạ Bang.
Ngoài những kiến trúc chùa tháp là những kiến trúc chính của Phật giáo, dưới
thời Xu Li Nha Vông Xả, lâu đài cung điện của nhà vua cũng được xây dựng
rất nguy nga, tráng lệ, nhưng do thời gian và chiến tranh nên tất cả bị tàn phá.
Về mặt điêu khắc, nền điêu khắc Lào thế kỷ XVII chủ yếu thể hiện trên
điêu khắc gỗ và tượng tròn, trong đó nhiều pho tượng không chỉ là báu vật của
nhân dân Lào mà còn của nhân loại. Về hội hoạ Lào thế kỷ XVII, nền hội hoạ
Lào thời kỳ này thường được thể hiện trên trần hoặc tường các Aham, hoặc
trên các mảng tường trước cửa Aham hoặc đầu hồi các Aham của các chùa
85
Lào. Đề tài của các bức bích hoạ này thường được lấy từ các tích Phật, các câu
chuyện kể dân gian, và ở đó cũng toát lên tinh thần, khát vọng độc lập, tự chủ
của con người, v.v... Truyền thống hội hoạ đó còn được tiếp tục phát triển
trong các chùa Lào ở các giai đoạn sau.
Về văn hóa dân gian, đến thế kỷ XVII những lễ hội (bun) dân gian và lễ
hội Phật giáo ở Lào đã trở nên phổ biến và chịu ảnh hưởng của văn hóa cung
đình. Cư dân Lào là cư dân làm nông nghiệp, cho nên lễ hội Lào cũng chủ yếu
là những lễ hội nông nghiệp. Từ khi du nhập vào Lào, Phật giáo đã tự thích
nghi với đời sống của cư dân nông nghiệp ở đây và dần dần hòa nhập với các
lễ hội nông nghiệp khiến cho trong các lễ hội Lào có sự kết hợp giữa Phật giáo
và dân gian, làm cho đời sống tâm linh của nhân dân Lào càng thêm phong
phú. "Chúng ta thấy rằng, từ những nghi lễ tôn giáo cho đến nghi lễ tạ ơn, tống
tiễn hội mùa nông nghiệp bao giờ cũng xen kẽ vào đó và kết thức bằng cuộc
vui chơi trong quần chúng nhân dân. Nó trở thành ngày hội văn hóa dân tộc.
Cho đến nay, ngày hội vẫn được nhân dân Lào các bộ tộc bảo lưu bền vững và
thể hiện đậm nét bản sắc dân tộc" [53, tr.329,330].
Năm 1804 sau khi lên ngôi, Chậu A Nu Vông đã ra sức khuyến khích
nhân dân Lào xây dựng Viêng Chăn thành một mường thịnh vượng. Cùng với
việc xây dựng hoàng cung ở kinh đô Viêng Chăn, khắp nơi trong nước nhân
dân xây dựng chùa chiền, cầu cống. Dưới sự trị vì của Chậu A Nu Vông,
Viêng Chăn đã trở thành một nơi rất thịnh vượng, Ý tưởng của Chậu A Nu
Vông là Viêng Chăn có vững mạnh và hưng thịnh mới lật đổ được ách đô hộ
của Xiêm, giành độc lập cho Lào Lạn Xạng.
Những năm tiếp theo, mặc dầu cuộc nổi dậy của nhân dân Lào Lạn Xạng
do Chậu A Nu Vông lãnh đạo bị thất bại, nhưng cuộc nổi dậy đó mang ý nghĩa
lịch sử to lớn về tinh thần độc lập, tự chủ của nhân dân Lào. Cuộc nổi dậy đã
thể hiện ý chí ngoan cường chống kẻ thù xâm lược, mong muốn giành độc lập,
86
thống nhất tổ quốc của nhân dân Lào Lạn Xạng hồi đầu thế kỷ XIX. Vì những
mục tiêu cao cả đó mà nhân dân Lào Lạn Xạng không quản ngại gian nan,
không nhụt ý chí trước cảnh bản mường bị tàn phá, trước sự bạo ngược của kẻ
thù. Chậu A Nu Vông, vị vua đồng thời là người con ưu tú của nhân dân Lào
Lạn Xạng mặc dầu bị hy sinh, nhưng ông đã trở thành người anh hùng của
nhân dân Lào. Ông luôn sống mãi trong lòng dân và đất nước Lào Lạn Xạng.
Ông trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo trong các phong trào
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước.
3.2.2. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực và tự cƣờng của nhân dân
Lào trong thời kỳ đấu tranh chống thực dân xâm lƣợc (1890 - 1975)
Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là những giá trị VHCT truyền thống.
Chúng được thể hiện ngay từ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước xa
xưa. Song tinh thần độc lập dân tộc, tự lục tự cường đất nước của nhân dân các
bộ tộc Lào thể hiện đậm nét trong thời hiện đại. Trước hết, tinh thần độc lập
dân tộc thể hiện trong công cuộc chống ngoại xâm.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Lào chống thực dân Pháp trước khi
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930) đã diễn ra trên khắp đất nước Lào.
Nổi bật là Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Xa Vẳn Na Khết do sự lãnh đạo của
Phò Cà Đuột (1901 - 1902), cuộc khởi nghĩa của nhân dân cực Nam Lào dưới sự
lãnh đạo của Ông Kẹo và Ông Kôm Ma Đăm (1901 - 1937), cuộc khởi nghĩa ở
Bắc Lào dưới sự lãnh đạo của Chậu Phạ Pát Chay (1918 - 1922), v.v Với việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương và sau này là Đảng NDCM Lào, tổ
chức tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào, cách mạng
Lào bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn nhân dân và các dân tộc Lào đấu
tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, xây dựng một nước Lào hòa
bình, độc lập, thống nhất và phồn vinh. Khi Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân Lào ra đời đã gánh vác trách nhiệm lãnh đạo nhân dân Lào đấu tranh
87
chống Thực dân Pháp, Phát xít Nhật và Đế quốc Mỹ, giành độc lập và tự do
cho đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào, nhân dân các bộ tộc
Lào đã làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và
Chính phủ Lào Ít Xa La tuyên bố độc lập ngày 12 tháng 10 năm 1945. Thắng
lợi vĩ đại ấy có ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu một bước ngoặt cơ bản trong
quá trình phát triển của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và phát
triển đất nước Lào. Đồng chí Tổng Bí thư Đảng NDCM Lào Cay Xỏn
PhômViHản khẳng định:
"Thắng lợi đó có một ý nghĩa lịch sử vô cùng con trọng. Đây là lần
đầu tiên nhân dân ta trở lại làm chủ đất nước và vận mệnh của mình
sau hơn 100 năm sông dưới ách nô lệ và đất nước vì chia cắt. Thắng
lợi đó đã mở đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên mà nhân dân ta
được huy động và tự giác tham gia vào cuộc chiến đấu sống còn với
kẻ thù để cứu nhà, cứu nước" [89, tr.14,15].
Thắng lợi của nhân dân Lào đấu tranh chống thực dân Pháp quay trở lại
xâm lược và chống sự can thiệp Lào của đế quốc Mỹ (1945 - 1954). Chiến
thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam đã thúc đẩy cao trào tiến công và nổi dậy
mới trên khắp các chiến trường Đông Dương. Ở Lào, hơn một nửa đất đai và
nửa dân số được giải phóng. Cuộc đấu tranh của nhân dân Lào chống chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào và kết thúc
với thắng lợi vĩ đại ngày mùng 2, tháng 12, năm 1975.
Ngay trong thời kỳ đấu tranh chống xâm lược, giải phóng đất nước,
nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào đã vượt qua
mọi khó khăn thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Song, toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Lào đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, với truyền thống tự lực, tự
cường trong VHCT truyền thống, nhân dân các bộ tộc Lào đã hàn gắn vết
thương chiến tranh, xây dựng và phát triển nền kinh tế vốn nghèo nàn và lạc
88
hậu, cải tạo lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ xã hội, xây dựng và phát triển
nền văn hóa đậm đà bản sắc nhân dân các bộ tộc Lào. Vì vậy, cùng với thực
hiện đấu tranh giành độc lập, xây dựng nền hòa bình, nhân dân các bộ tộc Lào
đã khôi phục được nền kinh tế, xây dựng được đời sống văn hóa, xã hội, chính
trị ngày càng ổn định, ngày càng phát triển theo hướng XHCN.
3.2.3. Tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng của nhân dân Lào
trong thời kỳ đổi mới hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức lại và vận dụng sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Lào, nắm bắt và hội nhập
vào xu thế mới của thời đại. Đảng từng bước tìm tòi, thử nghiệm những giải
pháp nhằm phát triển kinh tế- xã hội, khắc phục sự trì trệ lạc hậu của nền
kinh tế truyền thống tự cung tự cấp, tình trạng bị cô lập của đất nước với thị
trường thế giới. Với tinh thần "kiên quyết từ bỏ thói quen và phương pháp
cũ mà thực tiễn chứng minh là không còn phù hợp và áp dụng những tư
tưởng mới", năm 1985, cải cách giá và lương, thử nghiệm cơ chế quản lý
kinh tế mới ở một số cơ sở quốc danh, v.v... đã bắt đầu một sự thay đổi thực
sự. Đại hội IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 đã mở đầu một giai đoạn
mới của quá trình xây dựng chế độ xã hội mới - giai đoạn phát triển trong
đổi mới, nhằm củng cố phát triển và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân,
từng bước quá độ lên CNXH.
Trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay, Lào đã trải qua các kế hoạch
5 năm phát triển kinh tế - xã hội (1986 - 1990; 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001
- 2005; 2006 - 2010 và đang thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã
hội lần thứ 7 2011 - 2015). Sau nhiều năm xây dựng chế độ mới theo định
hướng XHCN, Đảng NDCM Lào đã xác định vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội là phải đánh giá được
khách quan, chính xác trình độ phát triển kinh tế và thực trạng xã hội. Với tinh
89
thần đổi mới tư duy, Đảng đã từng bước tìm tòi thử nghiệm các biện pháp,
bước đi thích hợp đưa công cuộc đổi mới ở Lào giành được những thắng lợi
quan trọng và có ý nghĩa lịch sử.
Những cải tiến về chính sách và cơ chế kinh tế trong những năm trước
Đại hội IV (1979 - 1985) là tiền đề và cơ sở thực tiễn cho Lào thực hiện đổi
mới toàn diện. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Lào,
những bài học và kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới
v.v... là cơ sở hình thành quan điểm, đường lối đổi mới. "Với những bước đi
phù hợp, đổi mới kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, chính trị với quốc phòng an
ninh và đối ngoại; giữ vững sự ổn định về an ninh, chính trị để tập trung nỗ lực
phát triển kinh tế - xã hội " [64, tr.15].
Đại hội V (năm 1991), Đại hội VI (năm 1996), Đại hội VII (năm 2001)
và Đại hội VIII (năm 2006) của Đảng NDCM Lào đã khẳng định con đường
phát triển trong giai đoạn hiện nay là tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân
chủ nhân dân. Về kinh tế, thay đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ chế kinh tế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, sử dụng mọi thành phần kinh tế và quan
hệ tiền - hàng, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Sự thay đổi này có nghĩa là
xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu,
nhiều loại hình tổ chức, nhiều quy mô và trình độ phát triển, bình đẳng trước
pháp luật; xoá bỏ triệt đề cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng
cơ chế quản lý mới phát huy khả năng và vai trò của mọi thành phần kinh tế,
mọi tổ chức xã hội và mọi cá nhân vào phát triển đất nước, từng bước hiện đại
hoá nền kinh tế. Về chính trị, phát huy dân chủ mọi mặt trong đời sống xã hội,
nâng cao vai trò của tổ chức quần chúng và xã hội; xây dựng bộ máy Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, kiện toàn vai trò lãnh đạo của Đảng
trong hệ thống chính trị, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Về văn hoá -
xã hội, tăng cường chính sách đại đoàn kết trong mặt trận xây dựng đất nước,
kế thừa và phát huy di sản văn hóa của các bộ tộc, xoá bỏ phong tục tập quán
90
lạc hậu, tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn hoá hiện đại, nâng cao trình độ dân
trí, phúc lợi và công bằng xã hội.
Đại hội IX của Đảng NDCM Lào (năm 2011) tiếp tục khẳng định xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
thiết thực trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng - Nhà
nước, tạo được sự chuyển biến trong sự phát triển đảm bảo tốc độ tăng trưởng
thích hợp, ổn định và mang tính bền vững; kiên định lãnh đạo sự đổi mới toàn
diện một cách vững chắc; vừa kiên quyết, sáng tạo trong việc khai thác sức
mạnh tổng hợp và tận dụng mọi thời cơ để tạo cho được 4 bước đột phá:
"Trước hết là đột phá về mặt tư duy bằng việc giải phóng, xử lý
quan điểm, tư tưởng giáo điều, duy lý, lười biếng, cực đoan. Hai là
đột phá mạnh mẽ về phát triển nguồn nhân lực, nhất là trong đào
tạo và bổi dưỡng nâng cao trình độ năng lực mọi mặt của cán bộ
cho tương xứng với nhu cầu của phát triển. Ba là đột phá về mặt
cải thiện chế độ thủ tục hành chính, quản lý còn kìm hãm, cản trở
sản xuất kinh doanh và dịch vụ một cách triệt để và Bốn là đột phá
trong việc xóa nghèo cho nhân dân bằng cách khai thác các nguồn
vốn và với chính sách khuyến khích đặc b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- alounbounmixay_9429_1934090.pdf