Luận án Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ

THUYẾT . 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án . 7

1.2. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu . 19

CHưƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI . 24

2.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi . 24

2.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm tiền gửi . 41

CHưƠNG 3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN

GỬI CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM .69

3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm

tiền gửi . 69

3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi về loại tiền gửi được bảo

hiểm, phí bảo hiểm tiền gửi, quản lý và sử dụng phí bảo hiểm tiền gửi . 84

3.3. Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật Bảo hiểm tiền gửi của

tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam . 114

CHưƠNG 4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN

GỬI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO HIỂM

TIỀN GỬI CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM. 129

4.1. Định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo hiểm tiền gửi .129

4.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi . 135

4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo hiểm tiền gửi của tổ chức bảo

hiểm tiền gửi Việt Nam .145

KẾT LUẬN . 158

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ . 160

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 161

pdf173 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang bảo vệ cho khoảng 5,4 triệu tỷ đồng tiền gửi của người gửi tiền tại 1.282 tổ chức tham gia BHTG, bao gồm 95 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 01 Ngân hàng hợp tác xã, 1.182 QTDND và 04 tổ chức tài chính vi mô. Thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG, như: Cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG được thực hiện kịp thời, đúng quy định bao gồm: BHTGVN thực hiện cấp mới Chứng nhận, cấp lại Chứng nhận và cấp bản sao Chứng nhận tham gia BHTG, thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG theo đề nghị của các tổ chức tham gia BHTG. 76 BHTGVN cũng thực hiện tốt công tác quản lý thu phí BHTG, tích cực đôn đốc, hướng dẫn, giải đáp các vướng mắc về việc tính và nộp phí BHTG; thực hiện miễn nộp phí BHTG theo quy định đối với một số tổ chức tham gia BHTG được kiểm soát đặc biệt. Công tác quản lý và đầu tư vốn được thực hiện đúng quy định, an toàn, hiệu quả, góp phần phát triển nguồn vốn, đem lại nguồn thu bổ sung cho quỹ dự phòng nghiệp vụ và nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN. Kết thúc năm 2019, tổng tài sản của BHTGVN đạt trên 59 nghìn tỷ đồng. Đây là nguồn lực tài chính đáng kể, giúp BHTGVN sẵn sàng chi trả khi cần thiết và tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính. BHTGVN đã thực hiện giám sát 100% các tổ chức tham gia BHTG, trong đó BHTGVN tập trung giám sát chuyên sâu để theo dõi xử lý đối với các QTDND có vấn đề, kiến nghị kịp thời với NHNN các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. BHTGVN cũng chủ động tăng cường vai trò trong việc giám sát, kiểm tra QTDND, đặc biệt là tham gia hỗ trợ xử lý các QTDND yếu kém được đặt vào tình trạng KSĐB theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các TCTD; triển khai có hiệu quả Chỉ thị 06 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường giải pháp nhằm đảm bảo an toàn hoạt động, củng cố vững chắc hệ thống QTDND... Trong thời gian gần đây, BHTGVN không phát sinh nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm đối với các tổ chức tham gia BHTG. Tuy nhiên, BHTGVN đã chủ động hoàn thiện các phương án chuẩn bị chi trả tiền bảo hiểm trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ chi trả để luôn sẵn sàng bảo tốt nhất vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Hoạt động thông tin truyền thông được BHTGVN đẩy mạnh theo hướng đa dạng về nội dung, hình thức, mở rộng các kênh truyền thông với mục tiêu hướng truyền thông về sự đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng; triển khai có hiệu quả, tiết kiệm chi phí và thu hút được sự quan tâm, tin tưởng của người dân, đặc biệt là người gửi tiền tại QTDND. Bên cạnh các hoạt động nghiệp vụ, BHTGVN cũng triển khai hiệu quả, đồng bộ các hoạt động hỗ trợ: Hoàn thiện Dự thảo Chiến lược phát triển BHTG đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030; Dự thảo Đề án Phí BHTG phân biệt. Hoàn thành Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật BHTG và đề xuất các nội dung liên quan để BHTGVN tham gia sâu hơn vào quá trình cơ cấu lại các TCTD; Ban hành Quy chế về phí BHTG. Đồng thời, đội ngũ nhân sự cấp cao và cơ cấu tổ chức của BHTGVN cũng được kiện toàn, ổn định; đội ngũ cán bộ chuyên môn được đào tạo chuyên nghiệp; triển khai tích cực và có hiệu quả hoạt động nghiên cứu ứng dụng; hoạt động hợp tác quốc tế được tăng cường nhằm chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả hệ thống BHTG tại Việt Nam. 77 3.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Từ khi Luật BHTG năm 2012 được triển khai thực hiện đến nay, có 100% TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân đã tham gia BHTG, điều này cho thấy việc thực thi Luật BHTG đã đạt được hiệu quả trong thực tế, đảm bảo được nguyên tắc BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Luật BHTG. Theo số liệu thống kê, đến tháng 12/2019, số tổ chức tham gia BHTG là 1.282 tổ chức, trong đó có: 95 ngân hàng thương mại, 01 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 quỹ tín dụng nhân dân và 04 tổ chức tài chính vi mô, số lượng người được bảo hiểm khoảng gần 54 triệu người [11]. Tổ chức tham gia BHTG là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, được nhận tiền gửi của cá nhân. Điều 4 Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật BHTG năm 2012 quy định: - Tổ chức tham gia BHTG là các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; - Tổ chức tài chính vi mô phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của cá nhân bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô. Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Ngoài việc quy định về các loại hình tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, pháp luật hiện hành cũng quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tham gia BHTG như sau: - Nộp hồ sơ đề nghị cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. - Được cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. - Nộp phí bảo hiểm tiền gửi đầy đủ và đúng thời hạn. - Yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. - Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. - Cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi”. Có thể nhận thấy, việc quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia BHTG đã tạo điều kiện hỗ trợ các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, cũng như khu vực 78 doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cách tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho các ngân hàng nhỏ cũng như ngân hàng lớn đều được BHTG, đã thúc đẩy niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng. Nhờ vậy, ngân hàng có động lực để tích lũy tiết kiệm nhiều hơn, từ đó cung cấp khoản vay, thúc đẩy tăng trưởng và lợi nhuận, bên cạnh đó BHTG cũng thúc đẩy khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng đến công chúng. Bảng 3.1. Số lƣợng tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi giai đoạn từ năm 2013 - 2019 STT Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 1 Ngân hàng thương mại 92 89 90 95 93 94 95 2 TCTD phi Ngân hàng 0 0 0 0 0 0 0 3 Ngân hàng Hợp tác xã 1 1 1 1 1 1 1 4 Quỹ tín dụng nhân dân 1.144 1.145 1.147 1.168 1.177 1.183 1.182 5 Tổ chức tài chính vi mô 0 0 3 3 4 4 4 Tổng cộng 1.237 1.235 1.241 1.267 1.275 1.282 1.282 Nguồn: Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG trong việc cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm: Khoản 6 Điều 12 Luật BHTG năm 2012 quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG như sau: “Cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo định kỳ hoặc theo yêu cầu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi”. Trên thực tế, qua quá trình triển khai việc chi trả tiền bảo hiểm, ngoài những thông tin về tiền gửi được bảo hiểm, BHTGVN cần có những thông tin có liên quan khác như thông tin về tiền gửi không được bảo hiểm, thông tin về các khoản nợ của người được BHTG để loại trừ khi xác định số tiền chi trả BHTG cho phù hợp. Do vậy, những thông tin này cần được quy định tại văn bản pháp lý cao nhất để tổ chức BHTGVN có đầy đủ thông tin tiến hành kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật về BHTG hoặc thực hiện chi trả tiền gửi cho người gửi tiền được bảo hiểm. Về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG liên quan đến việc cấp Chứng nhận tham gia BHTG: Khoản 1 và khoản 2 Điều 12 Luật BHTG năm 79 2012 quy định: “1. Nộp hồ sơ đề nghi cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. 2. Được cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 Nghị định 68/2013/NĐ-CP thì thủ tục cấp chứng nhận tham gia BHTG như sau: “1. Chậm nhất là 15 (mười lăm) ngày trước ngày khai trương hoạt động, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp đủ hồ sơ đề nghị cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 Luật BHTG cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. 2. Trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Điều 15 Luật BHTG năm 2012 quy định: “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải niêm yết bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các điểm giao dịch có nhận tiền gửi”. Trên thực tế, việc quy định niêm yết bản sao là chưa hợp lý, gây lãng phí đối với các trường hợp tổ chức chỉ có một điểm giao dịch duy nhất đồng thời là trụ sở chính (các tổ chức tham gia BHTG là QTDND hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Ngoài ra, Thông tư 21/2013/TT-NHNN ngày 09/9/2013 của NHNN quy định về mạng lưới hoạt động của NHTM, quy định đơn vị phụ thuộc NHTM gồm chi nhánh, phòng giao dịch (không còn điểm giao dịch, quỹ tiết kiệm như quy định trước đây). Do vậy, việc sử dụng cụm từ “điểm giao dịch” dẫn đến thực tế đã có sự nhầm lẫn trong cách hiểu điểm giao dịch không phải là Chi nhánh, Phòng giao dịch. Ngoài ra, Khoản 4 Điều 5 Thông tư số 24/2014/TT-NHNN quy định về bản sao Chứng nhận tham gia BHTG niêm yết tại tổ chức tham gia BHTG như sau: “ Trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam xem x t, đối chiếu với sổ gốc để cấp bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nội dung bản sao phải đúng với nội dung đã ghi trong sổ gốc”. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cấp chứng nhận tham gia BHTG cho các tổ chức tham gia BHTG theo quy định. Việc niêm yết công khai, minh bạch chứng nhận BHTG tại các tổ chức tham gia BHTG sẽ tạo niềm tin cho người gửi tiền, nhờ đó các tổ chức tham gia BHTG thu hút được nhiều hơn nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Đặc biệt, theo Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg ngày 05/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm; BHTGVN đồng thời thay đổi mẫu Chứng nhận tham gia BHTG, và chỉ trong thời gian ngắn BHTGVN đã nhanh chóng thực hiện cấp lại toàn bộ Chứng nhận tham gia BHTG cho các tổ chức tham gia BHTG. Cụ thể, đến ngày 31/12/2019, BHTGVN đã cấp Chứng nhận tham gia 80 BHTG cho 1.282 tổ chức tham gia BHTG bao gồm 95 ngân hàng thương mại, 01 ngân hàng hợp tác xã, 1.182 Quỹ tín dụng nhân dân và 04 tổ chức tài chính vi mô. Cấp 12.004 bản sao Chứng nhận tham gia BHTG. Hiện nay, Luật BHTG năm 2012 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật liên quan chưa có quy định cụ thể về trình tự triển khai việc tổ chức BHTGVN tiếp nhận nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hay được vay của TCTD, tổ chức khác trong trường hợp nguồn vốn của tổ chức BHTGVN tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm (trong khi, hiện nay số TCTD hoạt động yếu kém có nguy cơ phải chi trả BHTG rất cao). Hơn nữa, ngày 09/11/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 25/2016/QH14 về Kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, trong đó nêu rõ không sử dụng Ngân sách nhà nước để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu đối với hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, để đáp ứng việc chi trả ngay trong trường hợp BHTGVN phải chi trả cho các tổ chức tham gia BHTG có quy mô lớn hoặc phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại nhiều tổ chức tham gia BHTG cùng lúc, thì việc BHTGVN chỉ tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ là chưa đủ mạnh để thực hiện hiệu quả chính sách BHTG. Trong thời gian qua, hệ thống QTDND không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, phát huy vai trò tích cực trong việc góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện mục tiêu xã hội. Kết quả này khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển loại hình tổ chức tín dụng hợp tác xã, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số QTDND hoạt động yếu kém về tài chính, nhân sự, vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật có nguy cơ mất an toàn, tiềm ẩn rủi ro đổ vỡ hệ thống cần phải được xử lý kịp thời. Ví dụ: Năm 2017 toàn hệ thống có hơn 60 QTDND yếu kém trong đó có nhiều QTDND đang được KSĐB. Có thể nói, những năm qua, các tổ chức tham gia BHTG đã luôn phối hợp và thực hiện đúng quy định của pháp luật về BHTG. Mặc dù NHNN điều chỉnh giảm lãi suất huy động tiền đồng, tăng trưởng huy động tiền gửi vẫn cao, đảm bảo khả năng thanh khoản, tiền gửi cá nhân và tổ chức kinh tế bằng tiền đồng tăng cho thấy gửi tiền ngân hàng vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn. Theo số liệu báo cáo của các tổ chức tham gia BHTG, dư nợ tín dụng tăng, hoàn thành mục tiêu đã đề ra. NHNN tiếp tục thực hiện việc mua lại nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và yêu cầu các ngân hàng tự xử lý bằng dự phòng rủi ro. Đến cuối năm 2019, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ theo báo cáo của các tổ chức tham gia BHTG là thấp. Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2020 của toàn hệ thống giảm so với năm 2019, chênh lệch thu chi năm giảm do một số ngân hàng có kết quả kinh doanh thua lỗ, phải tăng trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu. Năm 2020, NHNN dự kiến sẽ 81 xử lý quyết liệt các ngân hàng yếu kém, thúc đẩy việc mua lại, hợp nhất, sáp nhập để tạo ngân hàng có quy mô lớn và khả năng hoạt động tốt hơn. Ngân hàng hợp tác xã và QTDND hoạt động tại các tỉnh, thành phố ổn định và có kết quả khả quan, tổng nguồn vốn tăng và các đơn vị chú trọng tăng vốn điều lệ, đảm bảo tính tự chủ tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cạnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng gay gắt. 3.1.3. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi của người gửi tiền Trước khi có Luật BHTG năm 2012, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về BHTG quy định: “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 18 Luật BHTG năm 2012 thì: “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi theo quy định tại Điều 19 của Luật này”; và theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật BHTG năm 2012 thì: “Người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Như vậy, hiện nay người được BHTG chỉ có 01 đối tượng là cá nhân có tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG, quy định này đã làm thay đổi căn bản về đối tượng người được BHTG, khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật trước đây về chủ thể được bảo hiểm. Luật BHTG năm 2012 quy định chỉ bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân mà không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Sở dĩ như vậy là bởi vì việc bảo hiểm cho tiền gửi của tổ chức không phù hợp với mục tiêu bảo vệ người gửi tiền nhỏ lẽ, thiếu thông tin; đồng thời tiền gửi của tổ chức thường mang tính luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm. Mặc khác, việc quy định BHTG cho tổ chức là không phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, với quy định này thì chính sách BHTG hướng tới mục tiêu bảo vệ đối tượng người gửi tiền là cá nhân, bởi lẽ đối tượng này tuy chiếm đa số nhưng số dư tiền gửi là thấp nên không tạo ra áp lực lớn cho việc chi trả BHTG của tổ chức BHTG đối với người gửi tiền. Người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG có quyền và nghĩa vụ sau: - Được bảo hiểm số tiền gửi của mình tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật này; 82 - Được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định của Luật này. - Yêu cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi. - Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. - Có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin về tiền gửi theo yêu cầu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện thủ tục trả tiền bảo hiểm”. Để bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, BHTGVN đã ban hành văn bản hướng dẫn cụ về quá trình giải quyết các thắc mắc của người gửi tiền như sau: - Đối với giải quyết vướng mắc về chi trả tiền bảo hiểm: có 2 hình thức là giải đáp trực tiếp và giải đáp bằng văn bản: Giải đáp trực tiếp: Đại diện của BHTGVN hoặc tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được BHTGVN ủy quyền chi trả (trong trường hợp ủy quyền chi trả) chịu trách nhiệm giải đáp vướng mắc của người được BHTG, tổ chức tham gia BHTG theo quy định tại Quy chế này và văn bản liên quan của BHTGVN. Giải đáp bằng văn bản: Trường hợp vướng mắc phát sinh chưa được quy định tại Quy chế này và các văn bản liên quan của BHTGVN, các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc chi trả tiền bảo hiểm gửi yêu cầu giải quyết vướng mắc bằng văn bản cho BHTGVN để xem xét, giải quyết. - Đối với giải quyết khiếu nại về chi trả tiền bảo hiểm: BHTGVN giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của BHTGVN về chi trả tiền bảo hiểm. Thời hạn giải quyết khiếu nại là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Thống đốc NHNNVN để được giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại. Trường hợp không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, người khiếu nại có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật. - Đối với giải quyết tố cáo về chi trả tiền bảo hiểm: Việc giải quyết tố cáo về chi trả tiền bảo hiểm thực hiện theo Luật tố cáo, Luật bảo hiểm tiền gửi, các quy định khác của pháp luật và của BHTGVN. 83 Hiện nay, BHTGVN đang bảo vệ hơn 5 triệu tỷ đồng tiền gửi bằng VNĐ của cá nhân tại gần 1.300 tổ chức tham gia BHTG trên toàn quốc, bao gồm: NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng HTX, QTDND và tổ chức tài chính vi mô. BHTG là quy định bắt buộc đối với các TCTD nhận tiền gửi, tuy nhiên, người gửi tiền không phải nộp phí BHTG, phí này do tổ chức nhận tiền gửi đóng cho BHTGVN theo quy định. Khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, phá sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền luôn được bảo đảm. BHTGVN thay mặt Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chi trả cho người gửi tiền trong hạn mức BHTG. Hạn mức BHTG được xác định trên cơ sở năng lực tài chính của tổ chức BHTG, thực trạng tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, quy mô tiền gửi và thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Theo thông lệ quốc tế và khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế, hạn mức trả tiền bảo hiểm nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm được cho phần lớn người gửi tiền, nhưng phải bảo đảm có một tỷ lệ đáng kể giá trị tiền gửi tuân theo kỷ luật thị trường. Với hạn mức BHTG theo quy định là 75 triệu đồng, BHTGVN có khả năng bảo vệ phần lớn người gửi tiền, khá gần với khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế. Phần vượt hạn mức, người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình xử lý tổ chức tham gia BHTG. Từ khi thành lập đến nay, BHTGVN đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền kịp thời, đúng quy định, góp phần nâng cao niềm tin công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Người gửi tiền còn được BHTGVN bảo vệ gián tiếp gắn với “vòng đời” của tổ chức tham gia BHTG từ lúc được thành lập cho đến khi rút khỏi thị trường thông qua các nghiệp vụ BHTG khác nhằm góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng. Chính phủ và NHNN đang quyết liệt thực hiện các giải pháp tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu giai đoạn 2. Một trong những nguyên tắc quan trọng được quán triệt trong quá trình này là ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD có hiệu lực từ ngày 15-1-2018 đã trao cho BHTGVN trách nhiệm lớn hơn nhằm tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD. Cụ thể, BHTGVN được mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ trong quá trình cơ cấu lại TCTD được KSĐB. BHTGVN cũng trực tiếp hỗ trợ tài chính và hỗ trợ thanh khoản cho TCTD trong diện kiểm soát đặc biệt thông qua khoản vay đặc biệt theo phương án phục hồi đã được phê duyệt, theo chỉ định của NHNN. Đến nay, BHTGVN đã hoàn thành tổng kết 5 năm thi hành Luật BHTG, đề xuất các nội dung liên quan để BHTGVN tham gia sâu hơn vào quá trình cơ cấu lại TCTD, cũng như thực hiện Chỉ thị 06 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường giải pháp nhằm bảo đảm an toàn hoạt động, củng cố vững chắc hệ thống QTDND và Đề án củng cố và 84 phát triển hệ thống QTDND đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo quyết định của NHNN. Những năm qua, BHTGVN không những chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, mà còn phát huy vị thế, uy tín của tổ chức đối với các đối tác quốc tế. Là thành viên tích cực của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), Ủy ban châu Á - Thái Bình Dương (APRC)..., những đóng góp thiết thực của BHTGVN đã góp phần đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các tổ chức BHTG trên thế giới, từ đó giúp BHTGVN tận dụng được kiến thức và kinh nghiệm quốc tế để ngày càng hoàn thiện mô hình BHTG hiệu quả tại Việt Nam. Trong vai trò là tổ chức thay mặt Chính phủ, NHNN bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì hoạt động an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng, trong giai đoạn tiếp theo, BHTGVN đề ra những nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Có thể nói, BHTGVN đã và đang góp phần quan trọng vào nhiệm vụ tái cấu trúc hệ thống các TCTD, ngày càng khẳng định vị thế là công cụ đắc lực của Chính phủ, NHNN trong sứ mệnh bảo vệ người gửi tiền. Để sử dụng nguồn lực tốt hơn trong các nhiệm vụ được giao, BHTGVN cần nỗ lực hơn nữa nhằm thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng Việt Nam. 3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi về loại tiền gửi đƣợc bảo hiểm, phí bảo hiểm tiền gửi, quản lý và sử dụng phí bảo hiểm tiền gửi 3.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi về loại tiền gửi được bảo hiểm Tiền gửi được bảo hiểm là các loại tiền gửi sẽ được chi trả cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Không phải tất cả các loại tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG đều được bảo hiểm. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm phụ thuộc vào chính sách tiền tệ, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng và tiến trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhằm phản ánh mục tiêu của chính sách BHTG, hầu hết các quốc gia đều quy định rõ loại tiền gửi nào được bảo hiểm và loại tiền gửi nào không được bảo hiểm. Quy định này hết sức quan trọng và cần thiết vì nó liên quan trực tiếp đến việc tính phí BHTG và xác định người gửi tiền mà chính sách BHTG sẽ bảo vệ trực tiếp qua chi trả tiền bảo hiểm. Trước đây, tiền gửi được bảo hiểm theo quy định tại Nghị định số 109/2005/NĐ- CP ngày 24/08/2005 là “tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia 85 bảo hiểm tiền gửi”. Hiện nay, tiền gửi được bảo hiểm được quy định tại Điều 18 Luật BHTG năm 2012, như sau:“Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật này”. Tiền gửi không được bảo hiểm đối với một số đối tượng được quy định tại Điều 19 Luật B

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phap_luat_ve_bao_hiem_tien_gui_tu_thuc_tien_bao_hiem.pdf
Tài liệu liên quan