MỞ ĐẦU . 1
1. Tính cấp thiết của đề tài . 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 4
4. Cơ sở lý luận . 5
5. Phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu . 5
5.1. Phương pháp tiếp cận . 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu . 7
6. Đóng góp mới về khoa học và tính ứng dụng của luận án . 8
6.1. Đóng góp mới về khoa học của luận án. 8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn và tính ứng dụng của luận án . 9
7. Kết cấu của luận án . 9
CHƯƠNG 1 . 10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC CỦA ĐỀ TÀI . 10
1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến xử lý hành chính người
chưa thành niên vi phạm pháp luật . 10
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về pháp luật xử lý hành chính đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật . 10
1.1.2. Các công trình nghiên cứu so sánh về pháp luật có liên quan đến các biện
pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật với các chuẩn
mực quốc tế . 17
1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan đến xử lý người chưa thành
niên vi phạm pháp luật . 19
1.2.1. Các công trình nghiên cứu chung về xử lý người chưa thành niên vi phạm
pháp luật . 19
1.2.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến pháp luật Việt Nam về xử lý
người chưa thành niên vi phạm pháp luật . 21
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu . 24
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và phát triển . 24
247 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
unodc.org/documents/justice-and-prison-reform/Justice_Matters_Involving-Web_version.pdf.
truy cập 21/5/2019
100
em; nguyên tắc tỷ lệ thuận103; ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng (tư
pháp phục hồi); biện pháp xử lý thay thế104; sự tham gia; suy đoán vô tội; tiến hành
các thủ tục tố tụng không có sự chậm chễ; biện pháp giam giữ là biện pháp áp dụng
cuối cùng. Ngoài ra, trẻ em VPPL sẽ không có ít quyền lợi và biện pháp bảo vệ hợp
pháp hơn những những quyền lợi và biện pháp hỗ trợ cho người phạm tội trưởng
thành. Họ có quyền được bảo vệ và áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt trong tất cả các
giai đoạn của quá trình tư pháp chưa thành niên. Các quyền sau đây của trẻ em sẽ
được áp dụng trong suốt quá trình tố tụng: (a) quyền được hỗ trợ pháp lý; (b) quyền
thông tin; (c) quyền phiên dịch; (d) quyền có sự tham gia của cha mẹ; và (e) quyền
trợ giúp lãnh sự.105
Thứ ba, về những người tham gia tố tụng:
Thẩm phán, công tố viên, cảnh sát điều tra phải là những người đã được đào tạo,
có kinh nghiệm xử lý các vụ việc liên quan đến trẻ em. Ví dụ điều 28 của Luật Mẫu
quy định cụ thể về phần thẩm vấn/điều tra của cảnh sát/công tố viên như sau:
- Chỉ các sĩ quan cảnh sát [nhân viên thực thi pháp luật] [sĩ quan điều tra] [công
tố viên] đã được đào tạo chuyên môn về làm việc với trẻ em sẽ tham gia thẩm vấn
một đứa trẻ về một hành vi phạm tội bị cáo buộc; Cảnh sát viên [nhân viên thực thi
pháp luật] [công tố viên] cần cân nhắc về độ tuổi, sự trưởng thành và điều kiện cá
nhân của đứa trẻ khi đặt câu hỏi cho trẻ và xác định thời gian nghỉ đầy đủ.106
Thứ tư, về xử lý ngoài tố tụng đối với NCTN VPPL:
Nội dung này gồm mục đích, các trường hợp áp dụng, điều kiện sự tham gia của
cha mẹ, người giám hộ vào việc thực hiện các biện pháp xử lý ngoài tố tụng đối với
NCTN VPPL,107 phù hợp với Điều 40 (3) (b) CƯQTE và các hướng dẫn quốc tế (xem
thêm Mục 3.4.2 Luận án)
Thứ năm, về thủ tục tố tụng áp dụng đối với NCTN VPPL:
103 Tất cả các biện pháp được thực hiện liên quan đến trẻ em VPPL sẽ tỷ lệ thuận với hoàn cảnh và mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội và hoàn cảnh và các nhu cầu giáo dục, xã hội và các nhu cầu khác của trẻ.
104 Bất cứ khi nào thích hợp, các biện pháp xử lý trẻ em VPPL sẽ không liên quan đến thủ tục tố tụng tư pháp.
Bất kỳ biện pháp hoặc hành động phi tư pháp nào được sử dụng làm biện pháp thay thế cho tố tụng tư pháp sẽ
bảo đảm rằng quyền con người của trẻ em và các biện pháp bảo vệ pháp lý được tôn trọng đầy đủ.
105 UNODC, “Justice in Matters Involving Children in Conflict with the Law: Model Law on Juvenile Justice
AndRelated Commentary,” tr.13.
106 UNODC, tài liệu đã dẫn, tr.22
107 UNODC, tài liệu đã dẫn, tr.15
101
Luật mẫu cũng quy định cụ thể về thủ tục trước phiên tòa, trong phiên tòa nhằm
bảo đảm các quyền của NCTN VPPL. Ví dụ như, đối với thủ tục trước phiên tòa: như
thủ tục điều tra, khám xét (thủ tục khám người)
Như vậy, Luật mẫu bao gồm tất cả các vấn đề về NCTN VPPL và các giai đoạn
của quá trình tố tụng hình sự có liên quan đến NCTN, bắt đầu từ phiên tòa sơ thẩm
giai đoạn, bao gồm cả thời điểm quan trọng của việc tiếp xúc và bắt giữ đứa trẻ, cũng
như sự đối xử đối với NCTN khi bị tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử. Luật mẫu
cũng bao gồm các điều khoản liên quan đến giai đoạn xét xử, bản án tạm giữ và không
giam giữ, và các điều kiện giam giữ và tổ chức thi hành, cũng như các quy định liên
quan đến hỗ trợ tái hòa nhập. Các biện pháp xử lý ngoài tố tụng được quy định trong
Luật mẫu này là yêu cầu chính để bảo đảm trẻ em không bị xử lý bởi hệ thống tư pháp
hình sự chính thức. Biện pháp tước quyền tự do nên là biện pháp cuối cùng và chỉ
trong khoảng thời gian thích hợp ngắn nhất là thường xuyên nhấn mạnh trong văn
bản của Luật mẫu này. Luật mẫu này là kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam nên nghiên
cứu, áp dụng trong thời gian tới để bảo đảm cải cách toàn diện pháp luật về xử lý
NCTNVPPL, trong đó có pháp luật về các biện pháp XLHC.
102
Kết luận Chương 3
Từ năm 1977, sau khi trở thành thành viên LHQ, Việt Nam đã từng bước tham
gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người. Sau khi ký kết và phê chuẩn
Công ước chống tra tấn, Việt Nam đã tham gia 7/9 công ước cơ bản và đã là thành
viên của ba công ước có liên quan đến tư pháp thân thiện cho NCTN, gồm Công ước
của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị và Công ước chống tra tấn và những hành động đối xử hoặc trừng phạt khác mang
tính độc ác, vô nhân đạo hay hạ nhục. Ba công ước này, cùng với các hướng dẫn, quy
tắc quốc tế tạo thành các chuẩn mực quốc tế về tư pháp chưa thành niên/tư pháp trẻ
em. Với trách nhiệm quốc gia thành viên của các Công ước, Việt Nam cần thường
xuyên rà soát hệ thống luật pháp, chính sách và theo dõi, bảo đảm việc thực thi, định
kỳ báo cáo với các Ủy ban Công ước (Ủy ban Quyền trẻ em, Ủy ban quyền con người
và Ủy ban chống tra tấn) về các biện pháp Việt Nam đã tiến hành để thực hiện các
cam kết của mình.
Các chuẩn mực quốc tế này được áp dụng đối với mọi trẻ em theo định nghĩa
của Công ước quyền trẻ em “là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Các chuẩn mực quốc tế xác
định hệ thống tư pháp chưa thành niên/tư pháp trẻ em phải được áp dụng đối với tất
cả trẻ em trên độ tuổi chịu TNHS, dưới 18 tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi vi
phạm. Điều 14 Công ước các quyền dân sự, chính trị và Bình luận số 32 của Ủy ban
quyền con người nêu rõ quyền được xét xử công bằng, công khai trước tòa án có thẩm
quyền, độc lập và khách quan đối với tội phạm hình sự về nguyên tắc được áp dụng
đối với những hành vi quy định tại luật hình sự của các quốc gia và cũng được áp
dụng đối với các hành vi trên thực tế về bản chất là tội phạm và bị trừng phạt, bất kể
nó được định tính thế nào trong luật quốc gia. Vì vậy, các chuẩn mực quốc tế về tư
pháp chưa thành niên/tư pháp trẻ em và quyền bình đẳng trước tòa án và xét xử công
bằng được áp dụng đối với mọi NCTN thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy
định tại Bộ luật hình sự là đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC.
Sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người (human rights-
based approach), là phương pháp được khuyến nghị áp dụng trong hoạch định và thực
thi chính sách nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền con người, cung cấp những điều kiện
để những nhóm người bị thiệt thòi hơn trong xã hội, trong đó có trẻ em, có thể được
103
bảo đảm quyền, Chương này của Luận án phân tích các quyền của NCTN VPPL cần
được ghi nhận và các yếu tố mà Nhà nước cần bảo đảm để trẻ em với tư cách là chủ
thể của quyền không những được bảo đảm quyền mà còn có thể tham gia vào quá
trình thực hiện quyền.
Dưới khía cạnh ghi nhận quyền, một trong những nguyên tắc chủ đạo của
CƯQTE là quyền không bị phân biệt đối xử. Việc bảo đảm quyền không phân biệt
đối xử yêu cầu quốc gia phải chủ động xác định những trẻ em hoặc nhóm trẻ em mà
việc ghi nhận và thực hiện quyền của họ đòi hỏi phải có các biện pháp đặc biệt. Trẻ
em VPPL là một trong những nhóm cần có các biện pháp riêng cả về lập pháp, hành
pháp để bảo đảm không bị phân biệt đối xử với các nhóm trẻ em khác. Nguyên tắc
này bảo đảm cho mọi trẻ em VPPL có đầy đủ các quyền như các trẻ em khác, và do
là nhóm trẻ em cần có sự quan tâm đặc biệt, nên các một số quyền cần được quan tâm
bảo vệ hơn. Ngoài ra, các quyền đặc thù của trẻ em VPPL, gồm các quyền không bị
truy tố, xét xử khi chưa đủ tuổi tối thiểu chịu TNHS; quyền được bảo đảm xét xử
công bằng, gồm các quyền quy định tại điều 14 Công ước các quyền dân sự, chính trị
cần được bảo đảm trong pháp luật và thực thi.
Để bảo đảm quyền của NCTN VPPL, các chuẩn mực quốc tế khuyến nghị các
quốc gia phải áp dụng một phương pháp tiếp cận toàn diện để cải cách tư pháp cho
trẻ em. Hệ thống tư pháp cần được thiết kế (hoặc thiết kế lại) để xử lý một cách tích
cực và có hiệu quả đối với NCTN VPPL bằng việc tập trung cho công tác phòng
ngừa, thúc đẩy các biện pháp xử lý ngoài tố tụng, chuyển hướng xử lý NCTN bên
ngoài hệ thống tư pháp chính thống, đầu tư cho các dịch vụ phục hồi và tái hòa nhập,
và thúc đẩy các biện pháp thay thế tước đoạt tự do; xác định độ tuổi tối thiểu tối thiểu
chịu TNHS phù hợp với khuyến nghị quốc tế; thiết lập tổ chức của hệ thống tư pháp
chưa thành niên/tư pháp trẻ em gồm thành phần cốt lõi theo các chuẩn mực quốc tế.
Luật mẫu về tư pháp chưa thành niên/tư pháp trẻ em do Tổ chức của Liên Hiệp
Quốc về tội phạm và ma túy (UNODC) tổ chức biên soạn là một tài liệu có giá trị
tham khảo đối với Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về các biện pháp
XLHC đối với NCTN.
104
CHƯƠNG 4
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
4.1. Khái quát quá trình hình thành và thay đổi của pháp luật về các biện
pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên ở Việt Nam
4.1.1. Quy định về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành
niên trước năm 2012
Các biện pháp XLHC là đặc biện pháp chỉ được quy định trong pháp luật một
số ít quốc gia, trong đó có Việt Nam. Việc quy định biện pháp XLHC nói chung và
XLHC đối với NCTN có tính lịch sử, xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội trong
những năm chiến tranh. Có thể nói, biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được quy
định từ năm 1964 khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 68/TTg-VG ngày
13/7/1964 về việc thành lập các trường giáo dục thanh thiếu niên hư (như biện pháp
đưa vào TGD hiện nay) để giáo dục những trẻ em lêu lổng, phạm trộm cắp, phạm
pháp luật nhiều lần đã ảnh hưởng xấu đến một số trẻ em khác, đã làm mất trật tự trị
an xã hội, nhất là ở các thành phố, thị xã lớn.108 Đến năm 1967, để đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống VPPL của đối tượng là thanh thiếu niên trong tình hình mới,
đến ngày 18/12/1967, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 217-TTg/CN về việc tổ
chức lại các trường thanh thiếu niên hư (Trường Kim Đồng) và đổi tên Trường Kim
Đồng là Trường Phổ thông Công, nông nghiệp là những thiếu niên hư từ 9 đến 17
tuổi, đi lang thang, trộm cắp nhiều lần, có lối sống sa đọa, trụy lạc đã được gia đình,
đoàn thể, nhà trường, chính quyền tận tình giúp đỡ nhiều lần mà không chịu sửa chữa.
Ngày 06/7/1995 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh XLVPHC,
trong đó, có hai biện pháp xử lý hành chính đầu tiên được áp dụng đối với NCTN là
biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
(thay cho biện pháp giáo dục thanh thiếu niên hư tại Trường Phổ thông Công, nông
108 Các trường này lấy tên là trường Kim Đồng do Bộ Giáo dục phụ trách, có sự cộng tác chặt chẽ của Bộ Công
an, Đoàn thanh niên lao động, Uỷ ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương. Theo quy định tại Thông tư này, đối
tượng bị đưa vào các trường Kim đồng tập trung giáo dục là trẻ em từ 9 đến 17 tuổi lêu lổng, phạm trộm cắp,
phạm pháp luật nhiều lần đã ảnh hưởng xấu đến một số trẻ em khác, đã làm mất trật tự trị an xã hội, nhất là ở
các thành phố, thị xã lớn.
105
nghiệp). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta các biện pháp xử lý
hành chính khác được chính thức quy định trên cơ sở một văn bản pháp lý có hiệu
lực cao và công bố công khai trước công chúng và được thực hiện như một biện pháp
cưỡng chế hành chính đối với những đối tượng VPHC. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính 1995 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2008, trong đó, các quy định
về áp dụng các biện pháp XLHC cũng dần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện để đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống VPPL trong từng thời kỳ.
Về thẩm quyền, biện pháp GDTXPTT do Chủ tịch UBND cấp xã quyết định;
Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được giao cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh (Pháp
lệnh 1995), sau đó sửa đổi giao cho Chủ tịch UBND cấp huyện (Pháp lệnh 2002).
Về đối tượng áp dụng, biện pháp GDTXPTT người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16
tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định
tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa
đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi
trở lên, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú
nhất định. Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng gồm người từ
đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự; người từ đủ 12 tuổi
đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc
tội phạm nghiêm trọng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp GDTXPTT hoặc chưa
bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ,
gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp GDTXPTT hoặc chưa
bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.
Pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối với NCTN trong giai đoạn trước
2012 được đánh giá là có nhiều nội dung chưa phù hợp với các chuẩn mực quốc tế,
chưa bảo đảm quyền trẻ em theo đúng CƯQTE mà Việt Nam là thành viên. Trong
bối cảnh cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, pháp luật đã được hoàn thiện bằng việc
ban hành Luật XLVPHC 2012.
106
4.1.2. Quy định về các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành
niên sau 2012
Luật XLHC được thông qua vào tháng 6 năm 2012, quy định hai biện pháp xử
lý hành chính đối với NCTN là biện pháp GDTXPTT do Chủ tịch UBND cấp xã
quyết định và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng do Tòa án nhân dân quyết định.
Luật XLHC có nhiều quy định nhằm bảo vệ tốt hơn NCTN VPPL hành chính. Luật
bổ sung một phần riêng về xử lý VPHC đối với NCTN trong đó quy định về nguyên
tắc xử lý, các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, áp dụng biện pháp
xử lý hành chính và đặc biệt là việc bổ sung quy định về các biện pháp thay thế xử lý
VPHC đối với NCTN. Quy định chuyển thẩm quyền quyết định áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính, trong đó có biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với
NCTN sang Tòa án, là một cải cách pháp luật lớn, bảo đảm tốt hơn quyền của NCTN.
Luật cũng hạn chế tối đa việc áp dụng chế tài mang tính chất hạn chế tự do đối với
NCTN, hạn chế việc áp dụng chế tài đối với người dưới 14 tuổi. Đặc biệt, Luật không
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với NCTN chưa bị áp dụng biện
pháp GDTXPTT nhưng không có nơi cư trú ổn định, mà sẽ được giao cho cơ sở bảo
trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để bố trí nơi cư trú tạm thời trong thời hạn chấp
hành biện pháp GDTXPTT...đã thể hiện chính sách nhân đạo đối với trẻ em, bảo đảm
thực hiện nguyên tắc “không phân biệt đối xử” trong Công ước Quyền trẻ em mà
Việt Nam là thành viên.
Các văn bản quy định chi tiết Luật như Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày
30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý VPHC GDTXPTT
có nhiều quy định mới tiến bộ về quy trình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường
thị trấn đối với NCTN như quy định về việc xác định độ tuổi trong quá trình lập hồ
sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xác minh nơi cư trú, đối với NCTN, đặc biệt,
quy trình xử lý phải tham khảo ý kiến của công chức văn hóa - xã hội phụ trách công
tác trẻ em hoặc cộng tác viên công tác xã hội, cộng tác viên công tác trẻ em về đặc
điểm và hoàn cảnh gia đình của NCTN”; quy định thành phần tham dự hội động tư
vấn cho Chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định GDTXPTT đối với NCTN phải có
công chức văn hóa - xã hội, cộng tác viên công tác xã hội hoặc cộng tác viên trẻ em;
Các quy định về bảo vệ bí mật riêng tư của trẻ em, quy định về biện pháp thay thế
107
quản lý tại gia đình cũng đã được đề xuất tại Nghị định này nhằm bảo đảm quyền của
NCTN và hiệu quả giáo dục đối với họ.
Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án nhân dân số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20 tháng 01 năm 2014 quy
định các vấn đề đối với NCTN như việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đối với NCTN còn phải bảo đảm các quy định tại các khoản 1, 2 và 4
Điều 134 của Luật XLVPHC, trường hợp người bị đề nghị là NCTN mà không có
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công
Văn phòng luật sư cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ109; Đối với việc
xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Thẩm phán được
phân công phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục và hoạt động
phòng ngừa NCTN VPPL110; Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu đại diện cơ quan
lao động-thương binh và xã hội cấp huyện, người giám định, người phiên dịch,
chuyên gia y tế, giáo dục, tâm lý, đại diện của nhà trường nơi người bị đề nghị là
NCTN học tập, đại diện UBND cấp xã nơi người bị đề nghị cư trú hoặc những người
khác tham gia phiên họp để trình bày ý kiến về các vấn đề có liên quan111.
Sự thay đổi trong quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính tại
Luật từ năm 2012 đã thể hiện hướng đi tiệm cận dần với các chuẩn mực quốc tế.
4.2. Đánh giá pháp luật hiện hành về các biện pháp xử lý hành chính đối
với người chưa thành niên
4.2.1. Biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp XLHC áp dụng đối với người
VPPL để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú trong trường hợp nhận thấy không cần
thiết phải cách ly họ khỏi cộng đồng112.
Đối với NCTN, việc áp dụng biện pháp này có ưu điểm là không cách ly NCTN
VPPL ra khỏi cộng đồng. Việc cách ly NCTN ra khỏi cộng đồng hoặc hạn chế quyền
tự do của NCTN sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bình thường của
109 Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân,
Điều 2
110 Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân,
Điều 9
111 Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân,
Điều 17
112 Điều 89 Luật XLVPHC 2012
108
NCTN, đồng thời có thể gây những hậu quả bất lợi (bị kỳ thị, phân biệt đối xử) hay
khó khăn trong việc thực hiện các quyền cơ bản như quyền học tập, quyền được khám
chữa bệnh của trẻ em. Do đó, biện pháp GDTXPTT là biện pháp được đặt lên hàng
đầu, bảo đảm mục đích thay đổi nhận thức, thái độ của NCTN để họ trở thành công
dân có ích cho xã hội.
4.2.1.1. Quy định của pháp luật về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp GDTXPTT được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012 Nghị định
số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính GDTXPTT, Nghị định 56/2016/NĐ-CP về sửa đổi
bổ sung NĐ 111/2013/NĐ-CP, với các nội dung cụ thể như sau:
(i) Đối tượng áp dụng
Điều 90, Luật XLVPHC năm 2012 và Điều 4 Nghị định 111/2013/NĐ-CP, được
sửa đổi tại Nghị định số 56/2016/NĐ-CP quy định NCTN thuộc đối tượng áp dụng
của biện pháp này bao gồm:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại BLHS;113
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại BLHS114
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 06 tháng đã hai lần bị xử
phạt VPHC về một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công
cộng mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên đến lần thứ ba
nhưng chưa đến mức truy cứu TNHS và đã bị lập biên bản VPHC tại lần vi phạm
này. Trường hợp này, NCTN có thể được áp dụng biện pháp thay thế XLHC là quản
lý tại gia đình.
Riêng NCTN thuộc đối tượng nêu trên mà không có nơi cư trú ổn định, thì được
giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục trong
thời hạn chấp hành biện pháp GDTXPTT thay vì đưa vào trường giáo dưỡng như
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây.
113 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017, Điều 9 khoản 1 điểm c quy định tội phạm rất nghiêm trọng là là tội
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật
này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù
114 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017, Điều 9 khoản 1 điểm b quy dịnh Theo quy định của BLHS, tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình
phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
109
Như vậy, đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn là
NCTN từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm khi chưa
đủ tuổi bị truy cứu TNHS hoặc các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật
tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu TNHS, hoặc người nghiện ma túy. Như vậy,
về căn cứ áp dụng biện pháp này gồm có:
Thứ nhất, hành vi có dấu hiệu của tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc dấu
hiệu của tội phạm nghiêm trọng do cố ý được quy định trong Bộ luật Hình sự là căn
cứ để chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp này. Chỉ áp dụng biện
pháp này khi NCTN chủ đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý mà không áp dụng
với lỗi vô ý. Biện pháp GDTXPTT cũng không áp dụng đối với NCTN thực hiện
hành vi có dấu hiệu của tội phạm ít nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa
đến mức truy cứu TNHS mà đã bị xử phạt hành chính 02 lần trong vòng 6 tháng:
Theo quy định của Bộ luật Hình sự, các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối
trật tự công cộng chưa đến mức truy cứu TNHS căn cứ vào giá trị của tài sản, tang
vật ví dụ như hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng.115 Biện pháp này
chỉ áp dụng khi NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 06 tháng đã hai
lần bị xử phạt VPHC về một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối
trật tự công cộng mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm nêu trên đến
lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy cứu TNHS và đã bị lập biên bản VPHC tại lần
vi phạm này.
Căn cứ áp dụng biện pháp GDTXPTT cũng đã được quy định chi tiết hơn tại
Nghị định số 111/2013-NĐ-CP và Nghị định số 56/2016/NĐ-CP thế nào là “02 lần
trở lên trong 06 tháng có hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công
cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Để tính là một lần vi phạm thì
hành vi đó phải bị xử phạt VPHC và lần vi phạm thứ 3 cũng phải bị lập biên bản
VPHC.
Dưới góc độ phòng ngừa vi phạm, câu hỏi đặt ra là NCTN khi vi phạm lần thứ
nhất, lần thứ hai, ngoài việc bị xử phạt VPHC, thì biện pháp nào để phòng ngừa vi
115 Bộ luật Hình sự Điều 173, Tội trộm cắp tài sản: Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
110
phạm tiếp theo? Biện pháp nào sẽ được áp dụng trong trường hợp này? Tương tự như
vậy, người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi khi thực hiện các hành vi trộm cắp, lừa đảo,
đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu TNHS thì sẽ có biện
pháp nào để giáo dục, phòng ngừa? Việc quyết định chỉ áp dụng biện pháp giáo dục
sau khi đã bị xử phạt hành chính ít nhất 2 lần là một quy định cần được xem xét lại,
bởi lẽ mục đích của biện pháp giáo dục là nhằm thay đổi nhận thức, thái độ của NCTN
VPPL, nên cần được áp dụng không chỉ đối với những NCTN VPPL mà cần được áp
dụng với cả các nhóm nguy cơ, không nên xác định là biện pháp chế tài “nặng hơn”
biện pháp xử phạt hành chính, bởi vì tính chất của hai biện pháp này là khác nhau.
Việc quy định căn cứ áp dụng là ít nhất hai lần bị xử phạt hành chính đã làm thay đổi
mục đích, tính chất của biện pháp giáo dục.
Điểm đáng lưu ý là biện pháp GDTXPTT không chỉ áp dụng đối với NCTN mà
còn được áp dụng đối với các đối tượng khác116. Việc áp dụng biện pháp này đối với
NCTN cần có sự khác biệt đối với người thành niên, pháp luật hiện nay tuy có một
số quy định áp dụng đối với NCTN trong quá trình áp dụng biện pháp này, song chưa
có quy trình riêng biệt và cụ thể trên cơ sở phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của
NCTN. Có thể nói đây là một trong những nguyên dân làm giảm hiệu quả của việc
thực hiện pháp luật trong thực tiễn.
(ii)Về thẩm quyền áp dụng
Chủ tịch UBND xã là người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp
GDTXPTT trên cơ sở đề nghị của Trưởng Công an cấp xã hoặc Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc cấp xã, hoặc đạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phap_luat_ve_cac_bien_phap_xu_ly_hanh_chinh_doi_voi.pdf