Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lý đội ngũ giáo viên tiểu học theo yêu cầu đổi mới giáo dục 10
1.2. Các khái niệm cơ bản 27
1.3. Đội ngũ GVTH theo yêu cầu đổi mới GDTH 42
1.3.1. Một số định hướng đổi mới GDTH 42
1.3.2. Chuẩn trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp GVTH 49
1.3.3. Yêu cầu về ĐNGVTH theo định hướng đổi mới giáo dục 55
1.4. Quản lý ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục 58
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 75
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI
2.1. Khái quát về khảo sát thực trạng quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL 76
2.2. Thực trạng quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 90
2.2.1. Công tác quy hoạch ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 90
2.2.2. Tuyển dụng, sử dụng đội ngũ GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 92
2.2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 94
2.2.4. Một số nguyên nhân của thực trạng quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 104
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 110
Chương 3. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI
3.1. Một số cơ sở khoa học và nguyên tắc xây dựng các giải pháp quản lý đội ngũ GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 113
3.1.1. Một số cơ sở pháp lý của việc xây dựng các giải pháp quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 113
3.1.2. Một số nguyên tắc xây dựng giải pháp quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 117
3.2. Một số giải pháp quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 120
3.2.1. Giải pháp 1: Hoàn thiện cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước trong công tác quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 120
3.2.2. Giải pháp 2: Đổi mới công tác tuyển dụng và sử dụng ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới 125
3.2.3. Giải pháp 3: Đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH ở vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới 132
3.2.4. Giải pháp 4: Xây dựng các điều kiện hỗ trợ công tác quản lý ĐNGVTH ở vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 139
3.2.5. Mối quan hệ giữa các giải pháp quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 142
3.3. Khảo sát tính cần thiết và khả thi của các giải pháp quản lý đội ngũ GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới 144
3.4. Thực nghiệm một số biện pháp quản lý đội ngũ GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục 146
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 157
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
220 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý đội ngũ giáo viên tiểu học vùng đồng bằng sông Cửu Long theo yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay - Trần Hồng Thắm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
viên khác trong tập thể, kể cả học sinh. Điều này làm giảm sút sự thân thiện trong quá trình giao tiếp giữa thầy cô với học sinh tiểu học – lứa tuổi rất cần sự gần gũi, ân cần, vỗ về thường xuyên của thầy cô, gia đình; phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục học trẻ trong trường tiểu học.
Nếu xét trên biên chế của đội ngũ trên số HS, có thể nhận thấy trung bình số GV/số HS là 0,04 (tương đương với 4 GV/3 lớp ~ 1,33 GV/lớp), tỉ lệ này cho thấy số GVTH biên chế đang thiếu để từng bước đáp ứng yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày.
Kết quả ở bảng 2.3 cho thấy không có sự chênh lệch đáng kể về số lượng GVTH xét trên bình diện chung trong sự tương tác với số học sinh đang đi học. Sở dĩ số GVTH ở Trà Vinh có nhỉnh hơn so với Cần Thơ và Vĩnh Long là do đặc thù nhất định của khu vực địa lý duyên hải cũng như số trẻ em người Khơ me phải học tập rải đều khắp các huyện cũng như vùng sâu.
Bảng 2.3 Thống kê về cơ cấu GVTH theo loại hình đào tạo (các môn đặc thù)
Tỉnh/TP
Tổng số GV
Loại hình đào tạo
TH
AN
MT
TD
Tin
NN
Cần Thơ
4218
3241
203
227
289
26
232
Vĩnh Long
4177
3072
195
223
272
169
246
Trà Vinh
4819
3925
204
211
214
35
230
Có thể minh họa trực quan về trình độ của đội ngũ qua biểu đồ sau đây:
Biểu đồ 2.1 Tình hình ĐNGVTH theo trình độ đào tạo
2.1.3.1.2. Về số lượng ĐNGVTH theo trình độ
Biểu đồ 2.1 cho thấy:
- Tỉ lệ GV vừa đạt chuẩn đào tạo THSP 12+2 là 10,03% ở Cần Thơ, 17,40% ở Trà Vinh và 23,58% ở Vĩnh Long. Thực tế cho thấy, dù những áp lực của xã hội, phụ huynh và những mong mỏi về việc nâng cao chất lượng GDTH tiệm cận thế giới nhưng chuẩn nghề nghiệp của GVTH chỉ là trung cấp sư phạm 12+2 nên số liệu trên cho thấy tình hình chung là khá bình thường.
- Tỉ lệ GV có trình độ Cao đẳng từ 29,04% đến 36,44%, trình độ Đại học từ 28,46% đến 53,86% (trình độ trên chuẩn). Xét cụ thể cho thấy số lượng này dao động từ 64,90% đến 89,47% trong đó cao nhất là Cần Thơ, kế đến là Vĩnh Long và cuối cùng là Trà Vinh. Vấn đề đặt ra là con số này vẫn thấp so với một số khu vực khác (cụ thể như miền Đông Nam bộ có số lượng GVTH có trình độ trên chuẩn đều tiệm cận với con số 90% của Cần Thơ khi trình độ trung cấp không còn đào tạo và đã có quá trình chuẩn hóa trình độ Cao đẳng và Đại học khá liên tục).
- Số GV chưa đào tạo đạt chuẩn (THSP 9+3) là 34 GV (trong đó nhiều nhất là Trà Vinh với 24 GV), tỉ lệ từ 0,17% đến 0,5% là con số rất đáng chú ý. Nếu xem xét con số dưới 0.5% ở các tỉnh kể trên thuộc ĐBSCL thì liệu có phải đáng kể? Thế nhưng cần nhìn nhận về đặc thù của GDTH với yêu cầu rất chuẩn mực trong ngôn từ, tác phong, hiểu biết... nên những lo lắng về chất lượng GDTH là tất yếu. Vì sao trong nhiều năm liền, con số này vẫn không được giải quyết một cách rốt ráo? Cần thừa nhận về lịch sử khi trong tình hình khó khăn, nhu cầu GV trong cả nước rất cao và hệ đào tạo 9+3 đã hoàn thành rất tốt vai trò lịch sử của mình. Trách nhiệm nâng chuẩn cho nhóm đối tượng này cần được xem xét và giải quyết thấu đáo nếu muốn nâng cao hiệu quả GDTH trong tình hình hiện nay.
Nhìn chung, ĐNGVTH học đảm bảo đủ về số lượng, ngày càng tăng theo xu hướng phát triển của trường, lớp và yêu cầu của ngành. Số GV được phát triển về mặt số lượng và từng bước được nâng dần về chất lượng; do đa phần GV được đào tạo từ năm 2000 trở đi nên đa số là lực lượng trẻ, trình độ đào tạo đạt và vượt chuẩn, đây là một trong những cơ sở của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hướng đến việc đảm bảo về chất lượng.
Tỉ lệ GV/ lớp ở cả ba tỉnh là 1,4 GV/lớp. Tỉ lệ này từng bước phục vụ cho nhu cầu dạy học 2 buổi/ngày, đẩy mạnh giáo dục toàn diện cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú ở buổi thứ 2 hướng đến tỉ lệ chung của cả nước về tình hình học 2 buổi/ ngày hiện nay lên đến gần 60%. Đây cũng là cơ sở khá quan trọng để nâng dần tình hình trẻ đến trường 2 buổi để tạo điều kiện đảm bảo an toàn cho trẻ cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
2.1.3.2. Về cơ cấu ĐNGVTH
Do được đào tạo từ nhiều nguồn, qua các thời kỳ khác nhau đội ngũ GV phổ thông chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Tình trạng thiếu GV dạy các môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục,... chậm được khắc phục. Tỷ lệ GV đứng lớp ở các cấp học của ĐBSCL đang ở mức thấp, thấp hơn tỷ lệ bình quân chung của cả nước. Năm học 2012 - 2013, số GV phổ thông các tỉnh, thành ĐBSCL là 158.533 (cả nước 847.752), tỷ lệ 18,7% so với cả nước.
GV các môn học đặc thù Âm nhạc, Thể dục, Mĩ thuật, Tiếng Anh và Tin học ở các tỉnh, thành ĐBSCL đang thiếu so với yêu cầu dạy học 2 buổi/ngày nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, đáp ứng mục tiêu giáo dục tiểu học được quy định tại Luật Giáo dục: “GDTH nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học THCS” [9].
Trên bình diện về giới tính và độ tuổi cho thấy: GV nữ gồm 657 người, chiếm 73%; độ tuổi dao động từ 21 tuổi (sinh năm 1992) đến 54 tuổi (sinh năm 1959). 21,5% chưa quá 30 tuổi (sinh sau năm 1983). Trong đội ngũ GV, 65,5% có độ tuổi từ 27 đến 42 (sinh trong khoảng 1986 đến 1971). Đây là độ tuổi sinh học thích hợp cho việc dạy học bậc TH nhưng cũng là độ tuổi sinh con và tốn nhiều thời gian chăm sóc con chưa đến tuổi trưởng thành của phụ nữ. Tỷ lệ GV nam và nữ chênh lệch nhiều (nam chỉ 27% - nhỉnh hơn 1/4 dân số), có thể dẫn đến hệ quả GV nữ, do bị chi phối nhiều bởi công việc gia đình (thực hiện chức năng làm mẹ, làm vợ...), do tâm lý an phận, gánh nặng gia đình toàn vẹn, sức khỏe và trách nhiệm giới... nên điều kiện và nhu cầu đi học nâng cao trình độ chiếm tỷ lệ thấp hơn.
Kết quả phỏng vấn cô M Y cho biết: “Số lượng GVTH ở khu vực của tôi cho thấy số nam GV quá ít, điều này làm cho các hoạt động cần sự năng động cũng có phần chưa đạt hiệu quả. Hơn nữa, các cô thì thường phấn đấu trong giai đoạn đầu. Sau 35 tuổi không còn quá nhiều cô giáo nỗ lực hết mình vì gánh nặng gia đình rất lớn. Nhưng thầy giáo thì có thể”. Hay Thầy V H cán bộ quản lý giáo dục cho biết: “Để đảm bảo các phong trào của GDTH, đội ngũ GV nam rất cần thế nhưng tỉ lệ này còn hạn chế. Xét trên bình diện chung, GV nữ và nam không cần phân biệt nhưng có những áp lực sức khỏe của thầy giáo có thể dễ dàng đáp ứng. Mặt khác, mẫu hình GV nam vẫn có tác động đáng kể đến nhân cách của học sinh TH trong quá trình dạy học và giáo dục”. Vì vậy, trong công tác quản lý ĐNGVTH của vùng, cần chú ý đến những điều kiện về giới để có giải pháp quan tâm đúng mức đến đối tượng GVTH nữ. Đây là vấn đề cần có những giải pháp đồng bộ trong đó có cả giải pháp hướng nghiệp từ sớm trong giáo dục phổ thông.
Về thâm niên giảng dạy cho thấy thâm niên dao động từ 1 đến 34 năm, trong đó số GV thâm niên từ 9 đến 21 năm chiếm tỷ lệ 53,8 % là lực lượng có thể đóng vai trò chủ lực về chuyên môn trong nhà trường. Thâm niên trung bình là 16,1 năm cho thấy số GV ở độ tuổi có kinh nghiệm và trẻ khá lớn trong biên chế đội ngũ GVTH. Có được một lực lượng GV như thế, GDTH ĐBSCL có thêm một điều kiện thuận lợi về kinh nghiệm giảng dạy để bảo đảm chất lượng GDTH. Vấn đề còn lại đó là khả năng linh hoạt, sáng tạo của GVTH theo yêu cầu đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sẽ được phát huy thế nào với chuỗi biến thiên rộng về kinh nghiệm, thâm niên như trên ở ĐBSCL trong tình hình giáo dục hiện nay.
2.1.3.3. Về chất lượng ĐNGVTH
Có thể khẳng định chuẩn nghề nghiệp là công cụ quan trọng để đánh giá hiệu quả làm việc cũng như là cơ sở quan trọng để người GV tự đánh giá bản thân mình.
Tiến hành khảo sát ý kiến về việc đáp ứng chuẩn nghề nghiệp cho thấy: đa số GV (86,7%) nhận thức được việc đáp ứng yêu cầu công việc giảng dạy là rất cần thiết, số GV nhận thức vấn đề này ở mức độ bình thường và ý kiến khác chiếm tỉ lệ rất thấp (bình thường là 0,4%, ý kiến khác là 0,6%). Kết quả trao đổi trực tiếp và các chia sẻ liên quan đến công việc minh chứng đa số GV nhận thấy công việc được giao là nặng so với khả năng đáp ứng của bản thân.
Biểu đồ 2.2 Ý kiến đánh giá của GV về sự cần thiết đáp ứng yêu cầu giảng dạy
Khi được hỏi về nguyên nhân, câu trả lời nhận được là: yêu cầu đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học bậc TH rất đa dạng trong khi thời gian dành cho việc thực hiện các loại hồ sơ sổ sách cá nhân theo qui định vẫn còn nhiều. Bên cạnh đó trong năm học, GV đều phải dành nhiều thời gian tham gia các hoạt động khác của trường hoặc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho HS nên thời gian dành cho nghề nghiệp đúng nghĩa còn rất hạn chế. Cô U T cho biết: “Khó khăn nhất vẫn là vấn đề hành chánh và các công tác khác. Biết rằng có những hồ sơ sổ sách rất cần thiết nhưng thời gian thực hiện quá nhiều nên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến sự đầu tư về tâm trí cho việc dạy học và giáo dục HSTH”.
Rõ ràng đây là một trong những vấn đề cần quan tâm trong tình hình giáo dục nói chung cũng như GDTH nói riêng. Vấn đề đặt ra tiếp tục đó là với số lượng GVTH có bằng cấp, trình độ như đã phân tích liệu họ đáp ứng ở mức nào so với chuẩn nghề nghiệp từ góc nhìn của nhà quản lý. Đây là vấn đề cần được phân tích để có những dữ liệu mang tính cụ thể và chi tiết.
So sánh số liệu của năm học 2012-2013 với năm học 2011-2012, có thể nhận thấy, trong 3 địa phương trên, chỉ có tỉnh Vĩnh Long tỉ lệ các loại GV (xuất sắc, khá, trung bình) không thay đổi, còn lại, tỉnh Trà Vinh tỉ lệ GV loại xuất sắc có tăng, nhưng không đáng kể (58,1% lên 61%), tỉ lệ GV khá giảm không đáng kể (37,6% giảm xuống 35,9%). Riêng thành phố Cần Thơ, tỉ lệ GV xuất sắc tăng từ 71,6% lên 81,7% (tăng 10,1%), tỉ lệ GV khá giảm từ 25,8% xuống còn 17,7% (giảm 8,1%). Điều đáng chú ý ở đây là: trong năm học 2011 - 2012, ở Trà Vinh có 13 GV được xếp loại kém. Đến năm học 2012-2013 số lượng này giảm còn 11 người. Rõ ràng, đây là những tín hiệu cho thấy có sự thay đổi nhất định về nỗ lực phấn đấu của ĐNGVTH ở ĐBSCL.
Biểu đồ 2.3 Mức độ đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp theo đánh giá của CBQL
Kết hợp với các khảo sát về dữ liệu hành chánh, kết quả phỏng vấn và các nguồn dữ liệu khác, có thể đánh giá thực trạng tình hình ĐNGVTH trong vùng:
- Hầu hết GVTH có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, số chưa đạt chuẩn giảm dần. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở các địa bàn (thừa GV ở trung tâm, thành phố, thị xã, thị trấn nhưng lại thiếu GV ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn), theo môn học (thừa GV dạy văn hoá, thiếu GV dạy các môn đặc thù, tự chọn) và theo ngành nghề đào tạo.
- Số lượng GV đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo cao nhưng năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều GV còn hạn chế, chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy. Số GV được đánh giá loại trung bình vẫn còn (chiếm tỉ lệ từ 0% đến 4,2% tùy theo địa phương), vẫn còn một ít GV (11 đến 13 người) xếp loại kém về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là GV công tác ở vùng sâu, vùng xa.
- Về nghiệp vụ sư phạm và công nghệ thông tin: Phần lớn GV đều đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và có những khả năng trong thực hành nghề nghiệp. Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ GV đã được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, trình độ tin học và ngoại ngữ. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng GV gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy hiện đại, NCKH định hướng ứng dụng.
- Về cơ bản, ĐNGVTH có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt; hầu hết tận tụy với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, vài năm gần đây, một số ít GV vẫn bị nhiều áp lực từ định hướng giá trị vật chất nên có một vài biểu hiện thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân và HS đối với ngành GD.
2.2. Thực trạng quản lý ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới GD
Kết quả khảo sát về thực trạng ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới được phân tích cụ thể trên những yêu cầu khác nhau. Đầu tiên, có thể đề cập đến công tác quy hoạch đội ngũ GVTH.
2.2.1. Công tác quy hoạch ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Công tác quy hoạch ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới cần được xem xét từ thực tiễn với các yêu cầu đổi mới, với định hướng phát triển đổi mới giáo dục. Kết quả này được mô tả ở bảng 2.4 như sau:
Bảng 2.4. Công tác quy hoạch ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Nội dung
Thực hiện
Kết quả
Cỡ mẫu
Có
%
Không
%
Không
rõ %
Giá trị TB cộng
1. Các nhà quản lý xác định số lượng GV của trường trong năm học tới dựa vào
a. Tổng số lớp HS trong năm học tới.
400
100%
0%
0%
3,6750
b. Tổng số GV sẽ nghỉ hưu trong năm học tới.
400
100%
0%
0%
3,7117
c. Tổng số GV sẽ xin chuyển đi trong năm học tới.
400
100%
0%
0%
3,5825
d. Nhu cầu về GV có thể dạy nhiều môn và GV dạy các môn đặc thù của trường trong năm học tới.
400
84,3%
15,7%
0%
3,4675
2. Các nhà quản lý nên có biện pháp ưu tiên bổ sung nam GV.
400
0%
100%
0%
3,5400
3. Việc thực hiện công tác quy hoạch ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục của các nhà QL.
400
84,3%
15,7%
0%
3,5746
Qua số liệu bảng 2.4, có thể rút ra các nhận xét sau:
- Có 84,3% ý kiến CBQL và GV nhận xét các nhà QL có thực hiện công tác quy hoạch ĐNGVTH . Đây là một con số khá tích cực minh chứng cho sự nỗ lực của cán bộ quản lý. Tuy vậy, vì sao vẫn có gần 16% cho rằng các cán bộ quản lý chưa thực hiện công tác quy hoạch ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục. Sở dĩ số liệu này tồn tại là do những hạn chế nhất định trong công tác quy hoạch ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới từ góc độ chuyên biệt: Nhu cầu về GV có thể dạy nhiều môn và GV dạy các môn đặc thù của trường trong năm học tới. Nếu xét theo những yêu cầu về quy hoạch và phát triển nguồn lực giáo dục, yêu cầu này là tất yếu nhưng số liệu trên cho thấy rõ ràng đội ngũ cán bộ quản lý vẫn gặp những hạn chế nhất định khi đặt khả năng nghiệp vụ đáp ứng các yêu cầu đổi mới giáo dục. Thực tiễn cho thấy quy hoạch đội ngũ GV là quá trình xác định những mục tiêu tổ chức, biên chế, chức danh về đội ngũ GV cần có của nhà trường trong tương lai để dự tính nhu cầu về GV một cách cụ thể. Công tác quy hoạch ĐNGVTH đã được ngành GD triển khai thực hiện. Tuy nhiên, công tác này chủ yếu được thực hiện ở cấp Sở và Phòng GD&ĐT trực tiếp quản lý, còn các trường TH tổ chức thực hiện phân công GV theo chỉ tiêu của Phòng GD&ĐT. Vì vậy trong quy hoạch ĐNGVTH chưa thực sự khoa học, chưa có kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài.
- Riêng đối với ĐNGVTH trong thời gian qua, theo báo cáo của các Sở GD&ĐT, hầu hết các trường TH chưa thực hiện quy hoạch 5 năm, trường chỉ xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục theo từng năm học. Do vậy, việc quy hoạch đội ngũ GV tại các trường TH chưa được thực hiện khá tốt. Tình trạng thụ động trong công tác này còn khá phổ biến, nhất là việc phát triển qui mô GV để tổ chức dạy 2 buổi/ngày của nhà trường. Các trường chưa có định hướng cụ thể về phát triển đội ngũ đội ngũ GV cho dạy học 2 buổi/ngày, chưa có giải pháp cụ thể về phát triển đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong trường TH.
- Đánh giá kết quả việc thực hiện công tác quy hoạch ĐNGVTH của CBQL và GV đều có giá trị trung bình cộng là 3,57. Như vậy, mức độ thực hiện công tác quy hoạch đội ngũ CBQL và GV được đánh giá là khá tốt. Thế nhưng, những hạn chế đã phân tích vẫn là những cơ sở cần điều chỉnh và hoàn thiện.
2.2.2. Tuyển dụng, sử dụng đội ngũ GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Kết quả khảo sát về vấn đề tuyển dụng, sử dụng ĐNGVTH vùng ĐBSCL được trình bày ở bảng 2.5.
Bảng 2.5 Công tác tuyển dụng, sử dụng ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Nội dung
Thực hiện
Kết quả
Cỡ mẫu
Có
%
Không
%
Không
rõ %
Giá trị TB cộng
1. Các chủ thể quản lý có lập và công bố kế hoạch tuyển dụng.
400
100%
0%
0%
3,1500
2. Người dự tuyển dễ dàng biết được thông báo tuyển GV của các chủ thể quản lý.
400
91,5%
8,50%
0%
3,0900
3. Các chủ thể quản lý xét tuyển GV một cách không công bằng.
400
21%
79%
0%
2,7600
4. Các chủ thể quản lý phân công, sử dụng GV chưa phù hợp.
400
23,2%
76,8%
0%
2,6450
5. Việc thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục của các cấp quản lý giáo dục.
400
7,8%
2,2%
0%
2,9113
Có thể rút ra các nhận xét từ bảng 2.5 như sau:
- Có 100% CBQL và GV đánh giá các cấp QL có lập kế hoạch và công bố kế hoạch tuyển dụng. Kết quả việc có lập kế hoạch và công bố kế hoạch tuyển dụng được đánh giá là khá (giá trị trung bình cộng ý kiến đánh giá của CBQL và GV là 3,15). Đây là một tín hiệu rất tích cực.
- Trong công tác tuyển dụng, sử dụng ĐNGVTH có 91,5% ý kiến của CBQL và GV xác định người dự tuyển dễ dàng biết được thông báo tuyển dụng của các cấp quản lý. Kết quả đánh giá việc thực hiện công tác này là khá (giá trị trung bình cộng theo ý kiến đánh giá của CBQL và GV là: 3,09).
- Việc xét tuyển GV có 79% ý kiến của CBQL và GV đánh giá công bằng, 21% ý kiến CBQL và GV đánh giá không công bằng. Kết quả đánh giá việc xét tuyển GV được đánh giá mức độ khá (giá trị trung bình cộng ý kiến đánh giá của CBQL và GV là 2,76). Điều này cho thấy trong việc xét tuyển GV có nơi còn chưa chưa công bằng và đây cũng là vấn đề cần có những khảo sát chuyên biệt. Trên thực tế việc tuyển dụng GVTH chỉ được thực hiện ở cấp Phòng Giáo dục & Đào tạo. Theo phân cấp quản lý, hằng năm dựa theo nhu cầu đội ngũ của các trường TH, các PGD&ĐT lập danh sách tuyển dụng đề nghị UBND quận huyện, phê duyệt kết quả tuyển dụng GV, hiệu trưởng chỉ tiếp nhận và phân công. Vì thế, đây cũng là hạn chế chung trong cơ chế tuyển dụng GV đã và đang tồn tại trong thực tiễn.
- Có đến 76,8% CBQL và GV, các nhà QL thực hiện việc phân công GV phù hợp - chiếm hơn 3/4 mẫu dân số khảo sát. Có 23,2% ý kiến của CBQL và GV nhận xét việc thực hiện phân công GV chưa phù hợp - xấp xỉ 1/4 mẫu khảo sát. CBQL và GV đánh giá kết quả thực hiện việc phân công GV phù hợp đạt mức độ trung bình (giá trị trung bình cộng là 2,64). Việc này có nghĩa là GV cho rằng việc phân công GV ở một vài nơi còn chưa hợp lý. Kết quả phỏng vấn thầy T H, GV mới được tuyển dụng, cho biết: Việc phân công nên lắng nghe nguyện vọng của GV vì khi được tuyển, ngày vào nhiệm sở thì đã biết mình dạy lớp nào rồi là không nên. Vì GV trẻ có những hứng thú cũng như tự đánh giá mình còn hạn chế về kinh nghiệm nên sẽ biết mình phù hợp với lớp nào. Điều này không quá quan trọng nếu GV yêu nghề nhưng với những GV không yêu nghề thì sẽ cảm thấy nặng nề và mệt mỏi.
Nhìn chung, kết quả việc thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới theo ý kiến đánh giá của CBQL và GV được đánh giá là khá (giá trị trung bình cộng các ý kiến đánh giá là 2,91). Những hạn chế như: đánh giá cần công bằng hơn, phân công công tác cần phù hợp hơn cần được giải quyết một cách rốt ráo từ thực tiễn đổi mới giáo dục hiện nay trong nhiệm vụ của nhà quản lý.
2.2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Kết quả khảo sát ý kiến CBQL và GV về công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH vùng ĐBSCL có thể mô tả ở bảng 2.6 sau
Bảng 2.6 Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiểu học theo yêu cầu đổi mới giáo dục
Nội dung
Thực hiện
Kết quả
Cỡ mẫu
Có
%
Không
%
Không
rõ %
Giá trị TB cộng
1. Các chủ thể quản lý xây dựng và thông báo kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đến GV.
400
97,5%
2,5%
0%
3,1600
2. Nội dung bồi dưỡng chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng GD.
400
15,5%
84,5%
0%
2,3800
3. Chủ thể quản lý đối xử với GV không công bằng trong đào tạo, bồi dưỡng.
400
9,7%
90,3%
0%
2,7500
4. Các chủ thể quản lý phân công, sử dụng GV chưa hợp lý sau đào tạo, bồi dưỡng.
400
6,5%
93,5%
0%
3,4200
5. Việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục của các cấp quản lý GD.
400
84,5%
15,5%
0%
2,7681
- Đầu tiên, số liệu cho thấy có 97,5% CBQL và GV nhận định các chủ thể quản lý có xây dựng và thông báo kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đến GV. Kết quả thực hiện được đánh giá là khá (điểm trung bình cộng các ý kiến đánh giá là 3,16).
- Kế đến, có 93,5% ý kiến của CBQL và GV nhận xét việc các chủ thể quản lý phân công, sử dụng GV hợp lý sau đào tạo, bồi dưỡng. Giá trị trung bình cộng của các ý kiến đánh giá về mức độ thực hiện là 3.4, nghĩa là đạt mức khá.
- Tiếp theo, có 90,3% ý kiến nhận xét của CBQL và GV về việc các chủ thể quản lý đối xử với GV công bằng trong đào tạo, bồi dưỡng. Mức độ thực hiện của việc này cũng được đánh giá là khá (giá trị trung bình cộng mục này là ≈ 2,8).
- Sau cùng, 84,5% ý kiến của CNQL và GV xác nhận nội dung bồi dưỡng chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng GD. Kết quả thực hiện chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình (trung bình cộng các ý kiến đánh giá là 2,38).
Những số liệu trên cho thấy với các biểu hiện cụ thể của công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục thì kết quả đánh giá tìm được ở mức khá là chủ yếu với các biểu hiện: kế hoạch hóa, phân công hợp lý sau đào tạo - bồi dưỡng, công bằng trong đào tạo - bồi dưỡng. Đây là những minh chứng khá tích cực cho thấy bước đầu các nhà quản lý đã thực hiện chức năng của mình khá hiệu quả để đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục.
Tuy nhiên, vẫn có gần 16% khách thể cho rằng nội dung bồi dưỡng chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng GD và kết quả đánh giá điểm số quy đổi tìm được chỉ ở mức trung bình trong thang đánh giá là con số cho thấy rất đáng trăn trở. Rõ ràng, công tác thiết kế nội dung bồi dưỡng, tổ chức bồi dưỡng truyền đạt nội dung sao cho gắn chặt với tình hình đổi mới giáo dục cũng như các yêu cầu cần thực hiện trong đổi mới giáo dục là vấn đề quan trọng và cần thay đổi.
Như vậy, đánh giá chung về kết quả việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGVTH theo yêu cầu đổi mới giáo dục của các cấp quản lý giáo dục, theo ý kiến đánh giá của GV và CBQL là khá (giá trị trung bình cộng ≈ 2,8 - ứng mức khá trong thang đo).
Để có những dữ liệu cụ thể, đề tài tìm hiểu thêm về nội dung, hình thức, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng theo ý kiến của khách thể. Kết quả khảo sát thu được:
2.2.3.1. Nội dung và hình thức đào tạo - bồi dưỡng GVTH vùng ĐBSCL theo yêu cầu đổi mới giáo dục
2.00
2.28
2.09
2.10
2.14
2.26
Kết quả khảo sát thực trạng về nội dung và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng GVTH vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục thể hiện ở bảng 2.7.
Bảng 2.7 Đánh giá kết quả của các khóa tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho GV theo yêu cầu đổi mới giáo dục do các cấp quản lý giáo dục địa phương tổ chức
Hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Cỡ mẫu
Điểm trung bình cộng
1. Đào tạo cơ bản về tin học
400
3.1800
2. Đào tạo nâng chuẩn
400
2.8375
3. Đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa
400
2.7275
4. Bồi dưỡng thường xuyên
400
2.6900
5. Sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn
400
2.4625
6. Sinh hoạt chuyên đề theo cụm chuyên môn
400
2.1500
7. Bồi dưỡng dài hạn
400
2.7575
8. Bồi dưỡng ngắn hạn
400
2.6350
9. Bồi dưỡng qua hội thảo
400
2.7350
10. Bồi dưỡng qua hội giảng, dự giờ
400
2.7400
11. Tự bồi dưỡng
400
2.3150
12. Bồi dưỡng ở nước ngoài
400
.0000
13. Bồi dưỡng thông qua nghiên cứu khoa học
400
2.0375
Kết quả khảo sát đánh giá của CBQLvà GV về việc tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng phát triển chuyên môn cho GVTH cho thấy đa số nội dung đào tạo bồi dưỡng được đánh giá chỉ từ mức đạt yêu yêu cầu (có giá trị trung bình cộng từ 2 đến 2.74). Trong đó chỉ có nội dung: đào tạo về tin học và đào tạo chuẩn hóa được đánh giá là khá. GVTH không tham gia đào tạo bồi dưỡng ở nước ngoài cũng là một vấn đề cần được xem xét bởi những thành tựu đổi mới giáo dục và các yêu cầu đặc trưng của nó cần được chính người trực tiếp thực hiện và trải nghiệm.
Bồi dưỡng GV là vấn đề cơ bản trong phát triển giáo dục mỗi quốc gia, trở thành một trong những nội dung cần đầu tư có trọng điểm. Từ thực tiễn kết quả đánh giá cũng như từ các cơ sở lý luận đã xác lập có liên quan đến vấn đề đổi mới giáo dục, có thể rút ra những kinh nghiệm về định hướng bồi dưỡng GVTH theo yêu cầu đổi mới trong tình hình hiện nay là:
- Nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng cần phải phù hợp đối tượng, đặc điểm năng lực sư phạm và nhu cầu bồi dưỡng của GVTH.
- Thuật ngữ bồi dưỡng GV chỉ rõ việc nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho các GV đang dạy học ở bậc TH.
- Bồi dưỡng GV được xem là đào tạo lại, cập nhật kỹ năng nghề nghiệp, có 3 loại hình bồi dưỡng: Bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ, bồi dưỡng chuẩn hóa và bồi dưỡng để dạy chương trình SGK mới cần được lựa chọn và đảm bảo.
- Phát triển ở GV năng lực tự bồi dưỡng để họ có tiềm lực không ngừng hoàn thiện, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Công tác bồi dưỡng cần làm cho GV có hiểu biết đầy đủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_quan_ly_doi_ngu_giao_vien_tieu_hoc_vung_dong_bang_so.doc