MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 9
1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài 9
1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu đề tài 21
1.3. Cơ sở lý luận và hướng tiếp cận nghiên cứu đề tài 25
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY29
2.1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 29
2.2. Nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 45
2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 61
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY73
3.1. Thực trạng pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Namhiện nay73
3.2. Thực trạng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 85
3.3. Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện pháp luật vềtôn giáo101
CHƯƠNG 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY112
4.1. Những quan điểm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay112
4.2. Những giải pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp
luật Việt Nam hiện nay129
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
167 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 705 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được thể hiện xuyên suốt trong các chương, mục của Hiến pháp, đặc biệt
được nêu tập trung tại chương 5 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Các quyền con người quy định trong Hiến pháp đã không ngừng được cụ
thể hóa trong các văn bản pháp quy của Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước ta hiện nay
thì việc nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật quốc tế để đảm bảo tính
tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về nội dung mà
Việt Nam đã tham gia là một nguyên tắc không thể thiếu trong việc xây dựng
pháp luật. Điều đó đã được thể hiện qua tính tương thích, phù hợp giữa các
quy định của pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo qua các văn kiện
Đại hội Đảng và qua các điều khoản trong Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật Dân
sự, Hình sự, Hôn nhân và Gia đình, và đặc biệt là qua Pháp lệnh tín
74
ngưỡng, tôn giáo, văn bản có trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp đến lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước ta. Toàn bộ những nội dung Pháp lệnh
được thể chế hóa từ điều 70 Hiến pháp năm 1992 và bảo đảm tính tương thích
với quy định của điều 18 của Công ước quốc tế. Để đảm bảo nguyên tắc ứng
xử với pháp luật quốc tế mà nước ta đã gia nhập, trong quá trình xây dựng
Pháp lệnh các nhà làm luật đã có quy định về việc áp dụng Điều ước quốc tế
khi xây dựng nội dung trong Pháp lệnh trái với Công ước quốc tế, điều này
được quy định tại Điều 38 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo “Trong trường hợp
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy
định của điều ước quốc tế đó” [10, tr.20].
Loài người luôn đấu tranh nhằm giải phóng con người, xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong thời gian dài dân tộc Việt Nam bị
nước ngoài đô hộ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân
tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua
nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng quyền thiêng liêng, cơ bản
nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự
quyết định vận mệnh của mình. Đây cũng chính là nguyên tắc có tính nền
tảng về quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng định trong Hiến chương Liên
hợp quốc và tại Điều 1 của cả hai công ước quốc tế cơ bản nhất của Liên Hợp
quốc về quyền con người: công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa và công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định
con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu
75
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con
người và cho con người.
Chính phủ Việt Nam cho rằng, việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Do khác biệt
về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống
văn hóa.... nên cách tiếp cận về quyền con người của mỗi quốc gia có thể
khác nhau; Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và
hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục
tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người. Việt
Nam cũng cho rằng không nước nào có quyền sử dụng vấn đề quyền con
người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, gây đối
đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực hoặc làm điều kiện trong
quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại... với nước khác.
Các quyền con người chỉ có thể được tôn trọng và bảo vệ trong một
môi trường hòa bình, an ninh, bình đẳng và phát triển bền vững, trong đó các
giá trị nhân bản được tôn trọng và bảo vệ.
3.1.1. Pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo trước đổi mới
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là một trong năm quyền cơ
bản của công dân “quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội
họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại trong nước và đi ra nước ngoài”. Tại mục
B, chương II, Hiến pháp năm 1946 đã xác định: “Mọi công dân Việt Nam có
quyền tự do tín ngưỡng”, với việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
của công dân, Hiến pháp năm 1946 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
chính sách đối với tôn giáo trong phạm vi cả nước. Trong lễ ra mắt công khai
Đảng ta sau Đại hội II (1951) ở Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“chúng tôi xin nói thêm hai điểm, nói rõ để tránh hiểu nhầm: một là, vấn đề
tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín
76
ngưỡng của mọi người” (Báo Nhân dân, 25/03/1951); các nguyên tắc cơ bản
trong chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam là đoàn kết, bình đẳng,
tương trợ để các dân tộc thiểu số tiến kịp với trình độ chung của đất nước,
nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951) đã viết: “Các dân tộc ở
Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp
đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc” [14, tr.44].
Sắc lệnh 133/SL ngày 20/11/1953 về trừng trị âm mưu bọn phản quốc
quy định: “Kẻ nào vì mục đích phản quốc, gây hiềm khích để phá hoại sự
đoàn kết kháng chiến của các dân tộc trong nước, các tầng lớp nhân dân, các
tôn giáo, các đảng phái và đoàn thể dân chủ, chia rẽ nhân dân với Chính phủ,
sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống. Nếu tội nặng, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở
lên, chung thân hoặc sẽ bị tử hình”
Sắc lệnh 197/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 19/12/1953 ban bố
Luật Cải cách ruộng đất. Về vấn đề ruộng đất của các tôn giáo tại chương III,
điều 25 của Bộ luật này quy định những đối tượng được chia trong đó có nhà
chung, nhà chùa, từ đường và các cơ quan tôn giáo được để lại một phần
ruộng để dùng vào việc thờ cúng.
Có thể nhận thấy, gian đoạn từ 1945 đến 1954 là giai đoạn khó khăn
của cách mạng, Nhà nước công nông đầu tiên của chúng ta phải đối phó với
rất nhiều công việc, song rất cố gắng xây dựng các quy phạm điều chỉnh lĩnh
vực tín ngưỡng, tôn giáo và tuyên bố về quyền cơ bản của công dân trong đó
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến
pháp sau này. Đã nhất quán chiến lược Đại đoàn kết toàn dân trong đó có
đoàn kết đồng bào lương giáo; đoàn kết toàn dân, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giai cấp, bảo vệ tôn trọng cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là những nơi
thiêng liêng, nhạy cảm; bất cứ tôn giáo nào đều phải được tôn trọng không ai
được xâm phạm; nghiêm cấm phá hủy những đền, đình, chùa, miếu hoặc
những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách, cấm phá hủy bi ký, đồ vật,
văn bằng, chiếu sắc, giấy má, sách vở có tính chất tôn giáo. Những cơ sở vật
77
chất khác của tổ chức tôn giáo như bãi tha ma, nghĩa địa, nhà cửa của các
đoàn thể tôn giáo, trụ sở, nhà cứu tế, cứu bần, bệnh viện, nhà thương, trường
học tôn giáo đều được miễn thuế đất vĩnh viễn.
Sau năm 1954, trong điều kiện đất nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện Cách
mạng dân tộc dân chủ kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ngày 31/12/1959,
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân được ghi rõ hơn so với Hiến pháp năm
1946 “Công dân nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (điều 26). Ngoài Hiến pháp
năm 1959, Nghị quyết Quốc hội ngày 26/03/1955 về vấn đề tôn giáo; tiêu
biểu có các Chỉ thị như: Chỉ thị số 91/CT ngày 17/09/1954; Sắc lệnh 234/SL
ngày 14/06/1955 về vấn đề tôn giáo; Sắc lệnh số 101SL/L.003 ngày
20/05/1957 quy định về tự do hội họp; Thông tư số 12/TTg ngày 12/01/1957
về một số điểm cụ thể sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất; Thông tư số
51/TT-ĐC ngày 31/05/1958 về việc lập hội và hội họp đối với tôn giáo;
Thông tư 60/TTg ngày 11/06/1964 về việc thi hành chính sách tôn giáo; Chỉ
thị 88/CT-TTg ngày 26/04/1973 về việc chấp hành chính sách trong bảo vệ
chùa thờ Phật và tăng ni đạo Phật.
Cùng với việc khẳng định những nguyên tắc cơ bản đối với tôn giáo
trong Hiến pháp, Nhà nước ta đã thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
qua những văn bản quy phạm pháp luật như Sắc lệnh số 234/SL, ngày
14/06/1955, Sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký và ban hành “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền
lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện.
Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo
phải tuân theo pháp luật của Nhà nước như mọi tổ chức khác của nhân dân.
Việc bảo vệ tự do tín ngưỡng bắt buộc phải trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo
gây rối loạn”. Trong quan hệ nội bộ tôn giáo, điều 13 Sắc lệnh 234/SL quy
định nguyên tắc: “chính quyền không can thiệp vào công việc nội bộ của các
78
tổ chức tôn giáo”. “Riêng về Công Giáo quan hệ giữa Giáo hội với Tòa thánh
La Mã là vấn đề của nội bộ của đạo Công Giáo”. Về tổ chức tôn giáo được
xuất bản và phát hành kinh bổn tôn giáo, mở trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo; được mở trường tư thục song phải giảng dạy theo
chương trình của Chính phủ; được tổ chức các cuộc hành lễ nơi thờ cúng và
không phải xin phép; được hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội; các tổ chức tôn
giáo phải tuân theo pháp luật của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như
mọi tổ chức khác của nhân dân; những cơ sở tôn giáo như nhà thờ, đền, chùa,
miếu, thánh đường, thánh thất, các đồ thờ, các trường giáo lý của tôn giáo
được nhà nước bảo hộ. Đối với đất đai trong cải cách ruộng đất, khi nhà nước
trưng thu, trưng mua của tôn giáo sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất
một số diện tích đảm bảo cho việc thờ cúng và sinh sống của những nhà tu
hành; ruộng đất mà Giám mục, Linh mục, Nhà sư, Mục sư phát canh thu tô
như địa chủ thì đều do nhà nước quản lý và không bồi hoàn tiền. Trong quan
hệ với nhà tu hành nước ngoài, pháp luật quy định các nhà tu hành người
ngoại quốc được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cho phép thì
được giảng đạo như các nhà tu hành Việt Nam và phải tuân theo pháp luật của
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng kêu gọi các tôn giáo hãy xoá bỏ hiềm
khích, đoàn kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà vì “Công Giáo
hay không Công Giáo, Phật Giáo hay không Phật Giáo đều phải nỗ lực đấu
tranh cho nền độc lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng ta là phải
giữ vững nền độc lập, toàn thể đồng bào ta không chia lương giáo, đoàn kết
chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến để giữ gìn non sông, Tổ quốc và cũng để giữ
gìn tín ngưỡng tự do”.
Trải suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đại đa số đồng bào các tôn giáo ở
Việt Nam đều có lòng yêu nước, đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc; nhiều người đã lập
công lớn nêu tấm gương sáng cho các thế hệ sau, đồng bào các tôn giáo luôn
79
luôn là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Trước những năm 1975 một số Giáo hội ở miền Bắc đã tự nguyện hiến
đất xây dựng trường học, đây là việc làm tự nguyện vô cùng trân trọng của tín
đồ, chức sắc các tôn giáo vì sự nghiệp chung của đất nước, họ đã tự nguyện
hiến đất, giúp chính quyền xây dựng trường học để dạy chữ cho con em nhân
dân, trong đó có con em đồng bào theo tôn giáo.
Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 đã bổ sung: “Công
dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước” (điều 60); Nghị quyết 297/NQ-HĐBT, ngày 11/11/1977 của Hội đồng
Chính phủ về một số chính sách đối với tôn giáo; Bộ Luật hình sự năm 1985;
Nghị định số 184/HĐBT ngày 18/11/1989 ban hành văn bản quy định về quản
lý các đoàn của ta ra nước ngoài và các đoàn nước ngoài vào nước ta; Nghị
định số 56/HĐBT ngày 30/05/1989 quy định chi tiết Pháp lệnh nghĩa vụ lao
động công ích, có ghi nhận việc miễn nghĩa vụ đối với người giữ chức sắc tôn
giáo chuyên nghiệp. Sắc lệnh 234/SL thực hiện đến hết ngày miền Nam giải
phóng, đất nước thống nhất, sau đó được thay bằng Nghị quyết 297/NQ-
HĐBT, ngày 11/11/1977 của Hội đồng Chính phủ về một số chính sách đối
với tôn giáo; Kế thừa tư tưởng của Sắc lệnh 234/SL, Nghị quyết số 297/NQ-
HĐBT nêu rõ năm nguyên tắc cơ bản của chính sách tôn giáo là: “Chính phủ
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của nhân
dân. Các nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi và
phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân. Các tôn giáo và mọi công dân
theo đạo hoặc không theo đạo đều bình đẳng trước pháp luật. Các tôn giáo
phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và chủ trương, chính sách, thể lệ của Nhà
nước trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình. Những kẻ lợi dụng tôn giáo để
phá hoại nền độc lập của Tổ quốc, chống lại chế độ Xã hội chủ nghĩa, phá
hoại khối đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, chống lại
chính sách và pháp luật của Nhà nước sẽ bị pháp luật nghiêm trị”.
80
Nội dung các văn bản pháp luật trên là sự kế thừa Sắc lệnh 234/SL
ngày 14/06/1955 và các văn bản pháp luật ban hành trước đó, đồng thời bổ
sung một số nội dung mới: quy định cụ thể những hoạt động tôn giáo phải xin
phép nhà nước; trách nhiệm của những nhà tu hành, những người hoạt động
tôn giáo đối với xã hội; quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng cơ sở thờ tự;
tiêu chuẩn những người được tuyển chọn để đào tạo các trường, lớp tôn giáo,
nội dung giảng dạy và sự quản lý của nhà nước đối với những người phụ trách
giảng dạy trong các trường này; quy định về quản lý nhà nước trong hoạt
động phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển người hoạt động tôn giáo; quy
định về việc xuất khẩu văn hóa phẩm, đồ dùng việc đạo; quy định về quan hệ
quốc tế giữa các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước với các tổ chức quốc tế
và nước ngoài; quy định của Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động của các tôn giáo và trách nhiệm của Ban Tôn giáo Phủ
Thủ tướng trong việc hướng dẫn các tôn giáo cũng như hướng dẫn việc thực
hiện của các cấp chính quyền.
3.1.2. Pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thời kỳ đổi mới
Những năm gần đây, trước những thay đổi của tình hình trong nước và
thế giới, phù hợp với xu thế hội nhập, công tác tôn giáo được Đảng và Nhà
nước rất quan tâm và coi đó là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Năm 1986,
Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đến năm
1990, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự đổi mới trong chính sách đối với tôn
giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới, xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, và cũng nêu rõ “Tôn
giáo là lĩnh vực mà kẻ địch đặc biệt chú trọng lợi dụng để phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta”. Qua thời gian thực hiện chính sách và tổng kết
thực tiễn, đồng thời nhằm bổ sung những vấn đề mới phù hợp thực tại đất
81
nước và quốc tế; quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn
giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với
sự nghiệp đổi mới đất nước, ngày 12/03/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành nghị quyết số 25-NQ/TW về
công tác tôn giáo; Đó là: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Những quan điểm của
Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong
những quyền công dân, quyền chính đáng của con người.
Sau khi có các Nghị quyết về công tác tôn giáo của Đảng, các văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước đã thể chế hóa tư tưởng đổi mới với tôn
giáo. Trước hết phải kể đến Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện tư tưởng đổi mới
về tôn giáo của Đảng. Tại Điều 70 chương V về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Cùng
với việc khẳng định trong Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
69/NĐ-CP, ngày 21/03/1991 về các hoạt động tôn giáo, sau đó là Nghị định
số 26/NĐ-CP, ngày 19/04/1999 về các hoạt động tôn giáo. Đặc biệt sau khi
Đảng có Nghị quyết số 25/NQ-TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã
ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/06/2004 và Chính phủ ban
hành Nghị định số 22/NĐ-CP, ngày 01/03/2005 hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP,
82
ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thay thế Nghị định số 22/NĐ-CP).
Nghị định 69/NĐ-CP, Nghị định 26/NĐ-CP đều khẳng định nguyên tắc
của chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi, thể hiện thái độ đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta đối với tôn giáo và được thể hiện như: đối với nhu cầu sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì Nhà nước tôn trọng và đảm bảo;
đối với những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân thì
khuyến khích; đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì
đều bị nghiêm cấm và xử lý theo pháp luật.
Sau khi Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo được ban hành,
các tỉnh, thành phố đều xây dựng chương trình hành động; nhiều tỉnh, thành
phố có Nghị quyết chuyên đề về công tác tôn giáo, thành lập Ban chỉ đạo
công tác tôn giáo để chỉ đạo thống nhất trong hệ thống chính trị thực hiện
công tác tôn giáo:
Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền, các cơ quan quản lý về công
tác tôn giáo được nâng lên, trong xử lý những vấn đề liên quan đến tôn giáo
đã vận dụng linh hoạt hơn các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, giải quyết tương đối kịp
thời các nhu cầu chính đáng về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào;
tạo điều kiện giúp đỡ các giáo hội, chức sắc sinh hoạt tôn giáo đúng pháp luật,
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tất cả chức sắc, chức việc, tín
đồ và đồng bào có đạo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức
xã hội tích cực vận động đồng bào các tôn giáo thực hiện phương châm sống
“tốt đời, đẹp đạo”, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”. Các đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
83
nước trong đồng bào tôn giáo, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, tăng
cường xây dựng lực lượng nòng cốt cho phong trào quần chúng ở địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước có chuyển biến, đã từng bước xây dựng và
hoàn thiện khung pháp lý về tôn giáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/06/2004; Chính phủ có Nghị
định số 22/NĐ-CP ngày 01/03/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; rồi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày
04/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin
lành; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày
31/12/2008 về nhà, đất liên quan đến tôn giáo, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP
ngày 08/11/2012 Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo, và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các bộ,
ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ “Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Các chính sách,
pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt
Nam đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm cho quần
chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi tích cực
thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời” tin tưởng vào chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, tích cực tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, đấu
tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp phần bảo đảm an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cho đến hôm nay, những quan điểm
đường lối công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra vẫn còn
mang tính thời sự sâu sắc. Đường lối đã làm chuyển biến và hướng các tôn
giáo về mục tiêu cách mạng Việt Nam là xây dựng đất nước “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Quá trình tư tưởng này
thể hiện sự đúng đắn của đường lối, quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo
của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
84
tộc, đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghị định số 92/NĐ-CP và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đều khẳng
định nguyên tắc của chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới là:
+ Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự
do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, nghiêm cấm sự phân biệt đối
xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
+ Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật; được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm
thực hiện mọi nhiệm vụ công dân.
+ Các tôn giáo hoạt động tuân thủ Hiến pháp và Luật pháp của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của
tín đồ được đảm bảo.
+ Mọi hoạt động mê tín dị đoan được bài trừ, mọi hành vi lợi dụng
tôn giáo để phá hoại nền độc lập, chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân làm hại đến nền
văn hóa lành mạnh của dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân đều
bị xử lý theo pháp luật.
Như vậy, Nghị định số 92/NĐ-CP và Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
đều thể hiện thái độ đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo:
Một là, đối với nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì
được Nhà nước tôn trọng và đảm bảo;
Hai là, đối với hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân
dân thì khuyến khích;
Ba là, đối với những hành vi lợi dụng tôn giáo vì mục đích xấu thì đều
bị nghiêm cấm và xử lý theo pháp luật.
Hệ thống pháp luật trên là công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo
85
của công dân, giúp các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; đã cụ thể hóa một cách hữu hiệu, tích
cực đường lối chủ trương của Đảng đối với công tác tôn giáo trong thời kỳ
mới, đồng thời toát lên tinh thần dân chủ đối với hoạt động tôn giáo, đáp ứng
yêu cầu của cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn
giáo, đồng thời đảm bảo được tính tương thích của luật pháp quốc tế điều
chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc
biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết hoặc gia
nhập.
Sự phối kết hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương đã tạo được sự
thống nhất trong việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với tôn giáo, giảm bớt
các thủ tục hành chính rườm rà. Các bộ, ban, ngành chủ động cùng với Ban
chỉ đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ triển khai chủ trương công tác
đối với đạo Tin Lành, đề xuất chủ trương công tác đối với những vấn đề tôn
giáo. Hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo Đại hội nhiệm kỳ theo Hiến
chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Chính phủ và các địa phương đã giải quyết kịp thời, đúng quy định
pháp luật về nhu cầu hoạt động tôn giáo và một số nhu cầu chính đáng của
các tổ chức, cá nhân tôn giáo, như phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
thuyên chuyển chức sắc các tôn giáo; cho xây mới v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_tu_do_tin_nguong_ton_giao_theo_phap_luat_viet_nam_hien_nay_4537_1921376.pdf