Luận án Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam

MỞ ĐẦU . 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. 11

1.1. Các công trình nghiên cứu quốc tế về rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối

với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.11

1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế và

rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ . 11

1.1.2. Các nghiên cứu về thực trạng rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng

thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. 17

1.2. Các nghiên cứu của Việt Nam về rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối

với hàng thủy sản xuất khẩu .22

1.2.1. Các nghiên cứu lý luận về rào cản phi thuế quan. . 22

1.2.2. Các nghiên cứu về thực trạng rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng

thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. 23

1.2.3. Các nghiên cứu đánh giá tác động của các rào cản phi thuế quan đến hoạt

động xuất khẩu và năng lực ứng phó của Việt Nam . 23

1.3. Đánh giá chung các công trình đã công bố về rào cản phi thuế quan của Hoa

Kỳ đối với hàng TSXK của Việt Nam và khoảng trống lý luận, thực tiễn cần tiếp

tục nghiên cứu trong luận án .24

1.3.1. Đánh giá chung các công trình đã công bố về rào cản phi thuế quan của

Hoa Kỳ đối với hàng TSXK của Việt Nam . 24

1.3.2. Những vấn đề đặt ra và hướng nghiên cứu của luận án. 25

CHƯƠNG 2. 27

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN. 27

CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN . 27

2.1. Cơ sở lý luận về rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế.27

2.1.1. Khái niệm . 27

2.1.2. Phân loại rào cản phi thuế quan. 31

2.1.3. Tác động của rào cản phi thuế quan tới hoạt động xuất khẩu . 36

2.2. Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với hàng thủy sản .44

pdf189 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các lãnh thổ. Chương trình thanh tra cá da trơn của USDA gần như chắc chắn là tùy ý và không chính đáng bởi vì không có bằng chứng cho thấy Pangasiidae của Việt Nam tạo ra mối đe dọa lớn hơn đối với sức khỏe cộng đồng so với Ictaluridae của Hoa Kỳ. Không có nghiên cứu khoa học nào, bao gồm tất cả các nghiên cứu được trích dẫn bởi Quy tắc đề xuất của USDA từ năm 2011, hỗ trợ kết luận rằng Pangasiidae ở Việt Nam có nguy cơ chứa các chất gây ung thư, kim loại nặng, thuốc trừ sâu, kháng sinh không được chấp thuận hoặc Salmonella cao hơn so với Ictaluridae của Hoa Kỳ [181]. Hoa Kỳ có thể cho rằng USDA cần phải tiếng hành chương trình kiểm tra cá da trơn bởi vì điều kiện nuôi cá da trơn ở Hoa Kỳ khác với điều kiện ở Việt Nam. Những người ủng hộ chương trình trước đây đã lập luận rằng cá tra Việt Nam được sản xuất trong điều kiện không hợp vệ sinh. Trong một cuộc phỏng vấn báo chí vào năm 2012, Nghị sĩ Rick Crawford của Arkansas đã chứng minh chương trình dựa trên một nghiên cứu được công bố bởi Carole Engle thuộc Đại học Arkansas tại Pine Bluff [251]. Nghiên cứu này cáo buộc rằng "một nửa thức ăn cho cá da trơn Việt Nam là tự chế mà không cần theo dõi để loại bỏ việc sử dụng hóa chất hoặc thuốc độc hại ”và“ chất thải của con người được thải trực tiếp vào nước được bơm vào các trang trại cá da trơn” [251]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã thừa nhận rằng chính phủ Việt Nam gặp khó khăn trong việc giám sát chất lượng thủy sản xuất khẩu [251]. Quy định dự thảo USDA năm 2011 cũng trích dẫn các nghiên cứu khoa học cho thấy các nhà sản xuất cá tra Hoa Kỳ sử dụng các trại sản xuất giống hoặc các ao nội địa, trong khi cá da trơn Việt Nam được nuôi thả trong các thùng lưới ở các con sông hoặc các cửa hút gió và đôi khi bên dưới các nhà thuyền. Theo quy định của USDA đề xuất, chất lượng nước sông khó kiểm soát hơn so với nước trong trại sản xuất giống hoặc ao nội địa [181]. Tuy nhiên, những lập luận này dường như không thành công nếu không có bằng chứng cho thấy cá tra thực sự gây ra dịch bệnh. Hơn nữa, với những bằng chứng áp đảo đối với Đạo luật nông trại trong tất cả các yếu tố khác, khả năng WTO ủng hộ các quy định của Đạo luật chỉ dựa trên bằng chứng không xác định về sự sạch sẽ của các trang trại cá da trơn Việt Nam là không cao. Thứ tư, Các quy định của đạo luật làm hạn chế thương mại quốc tế Có một số bằng chứng ủng hộ kết luận này. Thứ nhất, Hoa Kỳ không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng thỏa đáng nào giải thích lý do tại sao các thủ tục kiểm tra đối với cá da trơn được chuyển sang USDA, trong khi các thủ tục kiểm tra hải sản khác không được bao gồm. Hiệp định SPS yêu cầu, nếu áp dụng các biện pháp đơn lẻ đối với cá da trơn, cá da trơn phải là một loại hải sản đặc biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, không 80 có bằng chứng cho thấy cá da trơn đặc biệt nguy hiểm, và cả FDA và CDC coi hầu hết các loại hải sản đều có nguy cơ thấp đối với sức khỏe cộng đồng [279]. Do đó, có thể thấy Đạo luật nông trại 2008 và 2014 được thúc đẩy bởi các mối quan tâm chính trị hơn là do các mối quan tâm khoa học. Thứ hai, USDA đã không tiến hành đánh giá rủi ro cho đến bốn năm sau khi Đạo luật nông trại 2008 được thông qua. Quốc hội Hoa Kỳ đã không tham chiếu bất cứ bằng chứng khoa học nào cho thấy cá da trơn gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng [213]. Các biện pháp này có khả năng được áp dụng để chống lại sự nổi tiếng của Pangasiidae tại thị trường Hoa Kỳ, bởi vì các pháp được thực hiện trong mười năm qua, bao gồm cả đạo luật nông trại 2002 và 2008, đều tác động đến việc nhập khẩu cá basa và cá tra Việt Nam. Dựa trên các phân tích trong hộp 3.1, nếu Hoa Kỳ triển khai Đạo luật nông trại năm 2008 và 2014, nó sẽ vi phạm các cam kết của mình trong khuôn khổ Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật SPS của WTO. Việc kiện tụng của WTO đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, công sức, và phân tích sâu rộng, vì vậy, để dự đoán kết quả liệu Việt Nam có thành công khi đưa vụ kiện này lên WTO hay không là một công việc rất khó khăn. Tuy nhiên, xem xét những bằng chứng áp đảo được phân tích ở phần trên, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội thắng thế trong vụ kiện chống lại Hoa Kỳ đối với chương trình thanh tra cá da trơn của USDA. Do đó, Hoa Kỳ nên tháo dỡ chương trình thanh tra cá tra của USDA và trả lại quyền kiểm tra cá da trơn nhập khẩu duy nhất cho FDA. (3) Chương trình giám sát nhập khẩu thuỷ sản (SIMP) của NOAA Chương trình Giám Sát Thủy sản Nhập khẩu (SIMP) được xây dựng dành cho một số sản phẩm thủy sản nhất định, trong đó mười ba loài cá và thủy sản đặc biệt có nguy cơ bị đánh bắt bất hợp pháp IUU và/hoặc gian lận hải sản sẽ được bảo hộ trong giai đoạn đầu tiên của chương trình và trong tương lai sẽ mở rộng để bảo hộ tất cả các loài hải sản [70]. Các sản phẩm trong danh sách ưu tiên theo quy định phải được báo cáo và lưu trữ hồ sơ đầy đủ nhằm ngăn chặn việc khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) và/hoặc mô tả sai lệch về sản phẩm được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Cơ quan NOAA đã đưa ra quy định cuối cùng của SIMP vào ngày 9/12/2016 [134]. Theo quy định của chương trình này, mỗi lô hàng hải sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải khai báo đầy đủ thông tin từ lúc thu hoạch cho đến khi nhập khẩu vào nước này như đánh bắt ở vùng biển nào, sản lượng và ngư cụ đánh bắt, địa điểm thu mua, chế biến, vận chuyển, bảo quản [24] Chương trình SIMP sẽ bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 đối với hầu hết các loài trong danh sách ưu tiên theo quy định, riêng tôm và bào ngư sẽ được hoãn lại ở giai đoạn sau. Mới đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký dự luật ngân 81 sách 2018 trị giá 1,3 nghìn tỷ USD. Theo một điều khoản trong dự luật này, Cục Nghề cá biển Quốc gia (NMFS) sẽ có 9 tháng để áp dụng Chương trình SIMP cho tôm và bào ngư [83]. Do đó, từ nay đến khi chương trình SIMP được áp dụng với tôm, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam cần phải chú trọng công tác lưu trữ hồ sơ truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo chất lượng ổn định [24]. b. Rào cản chống bán phá giá Các rào cản tạm thời như thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng được chính phủ nước NK sử dụng như một công cụ bảo hộ nhằm chặn dòng thương mại của nước xuất khẩu, mang tính phân biệt đối xử và có tính bắt buộc cao đối với các doanh nghiệp bị áp dụng. Lựa chọn duy nhất đối với các doanh nghiệp là tuân thủ và kháng cáo. Luật chống bán phá giá/ chống trợ cấp của Hoa Kỳ ban đầu tìm cách ngăn chặn các nhà xuất khẩu nước ngoài sử dụng giá thấp/trợ giá để làm suy yếu các doanh nghiệp của nước này. Tuy nhiên, bộ luật này đã được các công ty Hoa Kỳ sử dụng như công cụ bảo hộ để loại trừ các đối thủ cạnh tranh, cho dù họ có tham gia vào các hoạt động thương mại không công bằng hay không. Các cuộc điều tra CBPG của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Hiện nay, đối với thủy sản Việt Nam, tôm và cá da trơn đều là hai loại hàng bị áp thuế CBPG. (1) Đối với xuất khẩu cá tra năm 2002 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra sang Hoa Kỳ từ năm 1998 với sản lượng xuất khẩu gia tăng mạnh qua các năm. Sự cạnh tranh của sản phẩm cá tra đã khiến lợi nhuận của nhà sản xuất catfish Hoa Kỳ giảm mạnh. Trước tình hình đó, năm 2001, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Luật An ninh Trang trại và Đầu tư Nông thôn (HR 2646), giới hạn việc sử dụng tên “catfish” chỉ dành cho cá da trơn thuộc họ Ictalurus được nuôi ở Hoa Kỳ. Luật An ninh Trang trại và Đầu tư Nông thôn không ảnh hưởng nhiều đến thị phần cá tra của Việt Nam tại thị trường này [240], cá tra Việt Nam vẫn cạnh tranh cao, ngay cả khi ghi nhãn cá đơn giản là “basa” và “tra”. Sau đó, năm 2002 Hiệp hội các chủ trại cá da trơn Hoa Kỳ khởi kiện lên Ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) và Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) cho rằng cá tra của Việt Nam đã bán phá giá tại thị trường này, gây thiệt hại cho các hộ nuôi cá nước này [164]. Phía Việt Nam đã không thực sự phản ứng một cách có hiệu quả trong thời gian điều tra do đó hầu hết các kháng cáo của Việt Nam đều bị từ chối. Kết quả là Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã đưa ra phán quyết khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam có bán phá giá, gây tổn hại cho ngành sản xuất của Hoa Kỳ và ấn định 82 mức thuế CBPG chung cho Việt Nam thay đổi từ 36,84% đến 52,90% đối với bốn bị đơn bắt buộc (tức là các nhà xuất khẩu có dữ liệu được kiểm tra riêng lẻ), 44,66% cho bị đơn tự nguyện (tức là các nhà xuất khẩu khác có thể chứng minh sự độc lập và không phụ thuộc vào chính phủ Việt Nam) và 63,88% đối với tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản còn lại của Việt Nam (Bảng 3.6), trước đó mức thuế này là 0%. Từ đó đến nay, Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã 14 lần xem xét rà soát hành chính thuế bán phá giá đối với sản phẩm cá tra, basa đông lạnh Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Có lẽ trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp xuất khẩu cá tra của Việt Nam khi tham gia vào các vụ kiện bán phá giá này là sự lựa chọn không nhất quán và thường mâu thuẫn giữa các quốc gia có nền kinh tế thị trường thay thế để định giá các yếu tố sản xuất của sản phẩm, nguyên liệu, lao động, năng lượng và chi phí nhà máy. DOC xác định giá trị của philê cá Việt Nam dựa trên các yếu tố phương pháp sản xuất, tổng hợp chi phí của tất cả các nguyên liệu đầu vào và nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất hàng hóa xuất khẩu, đối chiếu giá giả định với các yếu tố đầu vào đó từ một quốc gia thay thế ở mức độ phát triển kinh tế tương đương. DOC đã lật lọng thường xuyên, ban đầu chọn Bangladesh trong cả hai trường hợp cá và tôm, sau đó chuyển sang Philippines cho trường hợp đánh giá hành chính lần thứ 6 thuế CBPG cá tra, trước khi chuyển về Bangladesh, sau đó chuyển sang Indonesia trong đánh giá hành chính lần thứ 7, trước khi chuyển về Bangladesh. Trong lần đánh giá hành chính thứ 8 về thuế CBPG philê cá da trơn, DOC đã chuyển sang Indonesia, mặc dù đất nước này không thể so sánh về kinh tế với Việt Nam (Trong bản ghi nhớ chính sách nội bộ, DOC đã thừa nhận điều này) và thiếu các loài cá độc đáo được nuôi và chế biến như ở Việt Nam. Việc chuyển sang Indonesia đã tăng đáng kể giá của toàn bộ sản phẩm và mức thuế bán phá giá tăng vọt lên hơn 100%. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đấu tranh với vấn đề này tại tòa án Hoa Kỳ trong hơn 4 năm. Trong khi đó, DOC tiếp tục áp dụng Indonesia là quốc gia thay thế chính [163]. Trong quá trình tố tụng CBPG POR13 gần đây, DOC đã tạo ra những trở ngại mới cho các nhà xuất khẩu Việt Nam bằng cách yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải khai báo các yếu tố về sản xuất theo tiêu chuẩn mới để DOC xem xét [115]. Với cách tính này, DOC đã áp dụng mức thuế cao vô lý khiến các doanh nghiệp có rất ít cơ hội xuất khẩu cá tra vào Hoa Kỳ trong thời gian qua vì không thể đáp ứng số tiền ký quỹ quá cao theo mức thuế này [14]. Nhiều DN khác đã phải chuyển hướng sang các thị trường thay thế như Trung Quốc, Mexico, Brazil, 83 Colombia Cụ thể, trong POR13, mức thuế 3,87 USD/kg được áp dụng cho bị đơn bắt buộc Cty Godaco, tăng 5,61 lần so với mức 0,69 USD/kg của lần xem xét hành chính lần thứ 12 (POR12), DOC cũng áp dụng mức thuế này cho các DN còn lại. Trước quyết định thiếu công bằng của DOC trong POR13, VASEP và các doanh nghiệp hội viên xuất khẩu cá tra vào Hoa Kỳ đã kịch liệt phản phản đối, đồng thời yêu cầu DOC xem xét một cách kỹ lưỡng các hồ sơ, dữ liệu đầy đủ mà doanh nghiệp Việt Nam đã cung cấp để làm cơ sở tính toán và đưa ra mức thuế hợp lý cho các doanh nghiệp dựa trên căn cứ pháp lý và cơ sở thực tế [127]. 84 Bảng 3.6. Thống kê số lần áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với cá tra Việt Nam STT Đơn vị Bị đơn bắt buộc Bị đơn tự nguyện Mức thuế CBPG chung Thời gian áp dụng POR 1 % 37,94 47,05 63,88 1/8/2003 – 31/7/2014 POR 2 % 6,81 47,05 63,88 1/8/2004 – 31/7/2005 POR 3 % 6,81 47,05 63,88 1/8/2005 – 31/7/2006 POR 4 % 6,81 0,52 63,88 1/8/2006 – 31/7/2007 POR 5 (USD/kg) 0 0,02 2,11 1/8/2007 – 31/7/2008 POR 6 (USD/kg) 0 0,02 2,11 1/8/2008-31/7/2009 POR 7 (USD/kg) 0 0,02 2,11 1/8/2009 – 31/7/2010 POR 8 (USD/kg) 0,19 0,02 0,77 1/8/2010 – 31/7/2011 POR 9 (USD/kg) 0 2,15 2,11 1/8/2011- 31/7/2012 POR 10 (USD/kg) 0 0,97 2,39 1/8/2012 – 1/8/2013 POR 11 (USD/kg) 0 0,6 - 1/8/2013 – 31/7/2014 POR 12 (USD/kg) 0,69 2,39 2,39 01/8/2014 31/7/2015 POR 13 (USD/kg) 3,87 7,74 2,39 1/8/2015 – 31/7/2016 POR14 (USD/kg) 0 – 1,37 0,41 2,39 1/8/2016 - 31/7/2017 Nguồn: tác giả tổng hợp Sau khi áp mức thuế CBPG kỷ lục trong POR13, ngày 10/9/2018 Hoa Kỳ đã ban hành kết luận sơ bộ của đợt ra soát hành chính POR14 cho giai đoạn từ ngày 1/8/2016 đến ngày 31/7/2017. Theo đó, mức thuế CBPG đối với cá tra, basa Việt Nam đã giảm mạnh. Cụ thể: mức thuế sơ bộ cho hai bị đơn bắt buộc là 0 USD/kg và 1,37 USD/kg. Thuế suất cho các bị đơn tự nguyện là 0,41 USD/kg và thuế suất toàn quốc là 2,39 USD/kg [116]. Như vậy, mức thuế CBPG trong kết luận sơ bộ (POR 14) thấp hơn rất nhiều so với kết quả cuối cùng của đợt rà soát trước đó (POR13), đây được xem là tín hiệu tích cực với cá tra Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ thời gian tới. Tuy nhiên, đây mới là kết quả sơ bộ, do vậy, ngoại trừ những doanh nghiệp đang được hưởng mức thuế suất thấp như Vĩnh Hoàn, Biển Đông, sẽ khó có thêm nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. (2) Đối với xuất khẩu tôm vào năm 2003 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu tôm sang thị trường Hoa Kỳ từ năm 1996 sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế. Trong những năm qua, khối lượng và kim ngạch tôm xuất khẩu vào Hoa Kỳ liên tục tăng trưởng với tốc độ cao. Chính điều này đã làm Liên minh Tôm miền Nam Hoa Kỳ (SSA) nộp đơn khởi kiện lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) do nghi ngờ các công ty tôm Việt Nam bán phá giá, gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp tôm của nước này. 85 Ngày 31/12/2003, Liên minh Tôm miền Nam Hoa Kỳ (SSA) đã chính thức nộp đơn khởi kiện “chống bán phá giá tôm” lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm vào thị trường Hoa Kỳ của 6 nước (Braxin, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Ecuador, Ấn Độ) [56]. Mặt hàng khởi kiện bao gồm hầu hết các loại sản phẩm tôm nước ấm, cả đông lạnh và đóng hộp ngoại trừ tôm khô, tôm bột. Các công ty tôm từ sáu quốc gia này chiếm gần 74% lượng tôm nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Nhập khẩu tôm nước ấm đông lạnh và đóng hộp từ sáu quốc gia này đã tăng từ 466 triệu bảng vào năm 2000 lên 650 triệu bảng năm 2002, tăng khoảng 39,5%. Do đó, giá tôm nội địa của Hoa Kỳ giảm dần xuống mức thấp nhất [195]. SSA khẳng định tôm nhập khẩu từ 6 quốc gia này đã bị bán phá giá, khiến giá tôm giảm mạnh xuống mức thấp kỷ lục, ảnh hưởng nặng nề đến phúc lợi của các nhà sản xuất tôm nội địa Hoa Kỳ. Như thường lệ trong hầu hết các trường hợp, DOC cùng với ITC đã đạt được quyết tâm cuối cùng khẳng định áp thuế chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ sáu quốc gia trên. Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) định nghĩa bán phá giá là khi một nhà sản xuất nước ngoài bán một sản phẩm tại Hoa Kỳ với mức giá thấp hơn giá bán của nhà sản xuất tại thị trường quê nhà, hoặc ở mức giá thấp hơn chi phí sản xuất. Xem xét năng lực sản xuất tôm của Hoa Kỳ và sáu nước xuất khẩu bị khởi kiện, có thể thấy rằng chi phí sản xuất tôm ở các nước xuất khẩu này tương đối thấp, do việc lựa chọn công nghệ chi phí thấp, thâm dụng lao động cao, điều kiện khí hậu thuận lợi và sự hỗ trợ của chính phủ, cho phép các quốc gia này sản xuất đủ nguồn cung tôm cho người tiêu dùng Hoa Kỳ ngay cả khi các nhà sản xuất nội địa đóng cửa. Ngược lại, người dân Hoa Kỳ không thích nuôi trồng thủy sản do những lo ngại về môi trường [267]. Các nhà sản xuất tôm ở Hoa Kỳ chủ yếu phụ thuộc vào tôm đánh bắt hữu hạn từ biển để phục vụ thị trường trong nước, cung cấp gần 20% nhu cầu tôm của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Đánh bắt tôm tự nhiên khiến chi phí sản xuất cao hơn và bất kỳ mức giá bán nào dưới mức chi phí này sẽ gây hại rất lớn cho các công ty tôm nội địa Hoa Kỳ, buộc họ phải đóng cửa. Phương thức duy nhất để các doanh nghiệp nội địa Hoa Kỳ duy trì hoạt động kinh doanh là tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất, tuy nhiên nuôi trồng thủy sản bị hạn chế do các vấn đề môi trường cùng với điều kiện khí hậu bất lợi của nước này. Điều này tiết lộ lý do tại 86 sao SSA đã cáo buộc các nhà xuất khẩu tôm nước ngoài có tên (bao gồm Việt Nam) đã bán phá giá dưới mức giá bình thường ước tính. Nhờ mối đe dọa này, DOC đã chấp nhận đơn khởi kiện. Các công ty tôm nước ngoài có tên đã bị buộc tội vì hành vi định giá không công bằng và theo ITC, điều này cấu thành việc bán phá giá và đe dọa nghiêm trọng đến các nhà sản xuất tôm nội địa Hoa Kỳ [224]. Tất cả sáu quốc gia xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ đều bị áp thuế chống bán phá giá sơ bộ. WTO khuyến nghị các nước sử dụng phương pháp bình quân gia quyền để xác định tỷ lệ bán phá giá, tuy nhiên Hoa Kỳ đã áp dụng phương pháp zeroing cho phép quy về không tất cả các giao dịch có biên độ phá giá âm. Phương pháp zeroing không xem xét tới tính toàn diện của các mức giá của một số giao dịch xuất khẩu, do đó đã thổi phồng biên độ bán phá giá đối với toàn bộ lô hàng được nhập khẩu. Điều này cho phép Hoa Kỳ gắn nhãn các công ty nước ngoài là đối thủ cạnh tranh không công bằng. Do đó, việc áp thuế chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ sáu quốc gia là một hình thức bảo hộ của Hoa Kỳ để hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh với tôm nhập khẩu giá rẻ. Nghiên cứu trường hợp tôm cho thấy các biện pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ hoàn toàn là vũ khí bảo hộ hơn là một công cụ để ngăn chặn các biến dạng thương mại. Năm 2004, tôm Việt Nam chính thức bị Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá với mức thuế 4,57% cho các doanh nghiệp tham gia xem xét hành chính lần thứ 1 (16/7/2004 - 31/1/2006) [86]. Tháng 2/2005, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã quyết định tăng thuế chống bán phá giá với tôm Việt Nam với các thuế suất từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc (gồm Minh Phú, Minh Hải và Camimex và Kim Anh), 4,57% đối với các bị đơn tự nguyện và mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại [56]. Từ đó tính tới nay, DOC đã tiến hành 12 cuộc rà soát hành chính (POR) chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. (Bảng 3.7) Bảng 3.7. Thống kê số lần áp thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với tôm Việt Nam – đơn vị: % STT Ngày phán quyết cuối cùng Bị đơn bắt buộc Bị đơn tự nguyên Mức thuế CBPG chung Thời gian áp dụng POR 1 4,3 - 5,24 4,57 25,76 16/7/2004 - 31/1/2006 POR 2 02/09/2008 0 4,57% 25,76 POR 3 8/9/2009 0,08-0,21 4,57 25,76 1/2/2007 - 31/1/2008 POR 4 29/9/2010 2,95-4,89 3,92 25,76 1/2/2008 - 31/1/2009 87 POR 5 31/8/2011 0,0-1,15 1,04 25,76 1/2/2009 - 31/1/2010 POR 6 4/9/2012 1,23-1,27 1,25 25,76 1/2/2010 - 31/1/2011 POR7 10/09/2013 0,0 0,0 25,76 1/2/2011 - 31/1/2012 POR8 24/09/2014 4,98 - 9,75 6,37 25,76 1/2/2012 - 31/1/2013 POR9 7/9/2015 0 - 1,39 0,91 25,4 1/2/2013 - 31/1/2014 POR10 7/9/2016 0,91% 4,78% 25,76 1/2/2014 - 31/1/2015. POR11 11/2016 0,91% 4,78% 25,75% 1/2/2015 - 31/1/2016 POR12 8/3/2018 25,39% 25,39% 25,39% 1/2/2016- 31//1/2017 Nguồn: tác giả tổng hợp số liệu từ VASEP, Tổng cục thủy sản, Tổng cục hải quan và các trang web khác Trong trường hợp tôm, DOC đã áp dụng Bangladesh là quốc gia thay thế duy nhất trong các lần xét xét hành chính thuế CBPG tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Việc sử dụng nhất quán Bangladesh này ít nhất đã dẫn đến mức thuế CBPG tương đối ổn định trong các đánh giá hành chính 10 năm qua. Ngày 10/9/2018, DOC thông báo kết quả cuối cùng thuế CBPG cho tôm Việt Nam trong giai đoạn xem xét hành chính lần thứ 12 – POR12 (từ 1/2/2016- 31/1/2017), mức thuế cho bị đơn bắt buộc Công ty Fimex và các công ty khác là 4,58%, thấp hơn rất nhiều so với mức sơ bộ 25,39% mà DOC thông báo ngày 8/3/2018. Kết quả này cũng khả quan hơn so với mức thuế CBPG trong đợt rà soát cuối cùng POR11 [132]. Với kết quả cuối cùng POR12 thấp hơn so với kết quả sơ bộ và kết quả POR11, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới dự kiến sẽ hồi phục, sau khi liên tục sụt giảm từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2018 do kết quả sơ bộ thuế CBPG trong giai đoạn xem xét hành chính lần thứ 12 quá cao. 3.2.2. Tác động của các rào cản phi thuế quan tại thị trường Hoa Kỳ đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam a. Rào cản kỹ thuật Khi nghiên cứu tác động của các rào cản kỹ thuật của Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp XKTS Việt Nam, phải hoàn toàn thừa nhận rằng chúng gây nên những trở ngại cho hoạt động xuất khẩu. Trong phần này, luận án tập trung vào tác động của rào cản kỹ thuật tới chi phí thích ứng của doanh nghiệp nhằm rào ả ày. Rào cản kỹ thuật làm phát sinh chi phí thích ứng đối với doanh nghiệp, từ đó tác động làm cản trở hoạt động xuất khẩu. Theo Maskus và Wilson (trang 19-20) [241], “tác động đơn giản nhất của rào cản kỹ thuật là làm tăng chi phí thích ứng các tiêu chuẩn đối với các công ty nước ngoài so với các công ty trong nước, ngầm dựng lên một rào cản thương mại”. Các tác giả phân chia các chi phí này thành chi phí tuân thủ "một lần" và chi phí "định kỳ" của các doanh nghiệp. Trong khuôn khổ nghiên cứu này sẽ giới hạn ở cách phân loại như trên nhằm thấy rõ tác động của các rào cản kỹ thuật. 88 Thật vậy, các doanh nghiệp XKTS của Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ phải chịu chi phí “một lần” cải tiến quy trình sản xuất, đầu tư vào công nghệ mới, cơ sở hạ tầng thương mại để đáp ứng một yêu cầu kỹ thuật. Ví dụ: Để đáp ứng quy định áp dụng “Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn” (Hazard Analysis and Critical Control Point – HACCP) của Hoa Kỳ theo mục 123 trong Bộ luật liên bang Hoa Kỳ 21 CRF, các công ty chế biến thủy sản phải thường xuyên phân tích, kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất tại các điểm kiểm soát trong suốt quá trình để xác định các mối nguy hiểm có thể xảy ra nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời, đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh. Các cơ sở sản xuất thủy sản Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ lẻ dưới hình thức thủ công và bán thủ công thì đây quả là thách thức đối với các doanh nghiệp. Giá tư vấn cho một doanh nghiệp có nhu cầu thực hiện HACCP hiện nay vào khoảng trên dưới 5.000 USD [62]. Đó là chỉ tính chi phí cho dịch vụ tư vấn. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện HACCP, để đáp ứng được nhu cầu khắt khe của việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn, tiêu chí của HACCP, các doanh nghiệp phải chịu các loại chi phí “một lần” cải tạo lại nhà xưởng, lắp đặt hệ thống màn chắn côn trùng, buồng thổi khí Air Shower Trang bị các thiết bị trên dây chuyền sản xuất (máy dò kim loại, máy cân trọng lượng tự động,..). Các hoá chất sử dụng trong dây chuyền sản xuất phải đảm bảo theo chuẩn quy định. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng phải chịu chi phí “định kỳ”, bao gồm chi phí hành chính cho việc đánh giá lại hệ thống kiểm soát chất lượng từ các chuyên gia và tổ chức nước ngoài theo yêu cầu của khách hàng, chi phí xây dựng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu dán nhãn của chính phủ Hoa Kỳ. Các chi phí cũng có thể phát sinh từ sự thiếu minh bạch, chậm chễ thời gian, và các thủ tục đánh giá tiêu chuẩn thiếu chính xác. Một số ví dụ cụ thể: Luật Hiện đại hóa vệ sinh an toàn thực phẩm mới được áp dụng từ giữa năm 2015 sẽ áp dụng chương trình thẩm tra nhà cung cấp nước ngoài, kể cả các nhà cung cấp đã có chứng chỉ HACCP. Theo đó, các cuộc kiểm tra ở nước ngoài sẽ gia tăng nhanh và khắt khe hơn, tạo gánh nặng nhiều hơn cho nhà xuất khẩu [151]. Công ty thủy sản Phương Nam (Tp. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) đã phải chi 800 USD/ngày [151] cho nhân viên của FDA tới kiểm tra vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Số tiền trên quả là không nhỏ đối với doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh khó khăn hiện nay. Đạo luật nông trại “Farm Bill” 2014 được triển khai sẽ tác động rất lớn đến các sản phẩm cá da trơn xuất khẩu. Một trong những ưu điểm chính của các sản phẩm thủy sản của các nước đang phát triển như Việt Nam là cạnh tranh chi phí thấp. Tuy nhiên với các yêu cầu kiểm soát vệ sinh môi trường ngày càng khắt khe từ 89 phía Hoa Kỳ, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tốn rất nhiều loại chi phí. Thứ nhất, để đạt được các yêu cầu vệ sinh môi trường và sinh thái của nước xuất khẩu, các doanh nghiệp nuôi cá phải đầu tư rất nhiều nhân lực, vật lực, tài chính cho chăn nuôi, chế biến, lưu trữ và kiểm soát ô nhiễm trong suốt quá trình chăn nuôi. Thứ hai, các doanh nghiệp XKTS phải chấp nhận trả các loại chi phí trực tiếp và gián tiếp cho một số các xét nghiệm, kiểm tra tốn kém để được cấp giấy chứng nhận theo yêu cầu của nước nhập khẩu, do đó nó sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp trong điều kiện lợi thế về giá. Theo ghi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_rao_can_phi_thue_quan_cua_hoa_ky_doi_voi_xuat_khau_h.pdf
Tài liệu liên quan