MỞ ĐẦU .1
ChCHƯơng 1: TỔNG QUAN TÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN.11
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .11
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước.17
1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu về đề tài luận án.27
1.4. Những vấn đề đặt ra cần được luận án nghiên cứu .31
ChCHƯơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI
TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ.34
2.1. Khái niệm trách nhiệm giải trình của Chính phủ .34
2.2. Mục đích, yêu cầu của trách nhiệm giải trình của Chính phủ.40
2.3. Chủ thể và nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ.43
2.4. Phương thức và hệ quả thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ.62
ChCHƯơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM .74
3.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam.74
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của Chính
phủ Việt Nam .95
3.3. Đánh giá thực trạng trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam .103
ChCHƯơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM
GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM .125
4.1. Quan điểm xây dựng giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình của
Chính phủ Việt Nam .125
4.2. Giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam .128
4.3. Điều kiện thực hiện các giải pháp .149
KẾT LUẬN .153
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.158
177 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm giải trình của chính phủ theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Điều này để phù hợp với vai trò là “người giúp việc cho Thủ tướng”. Bản thân Phó
Thủ tướng không hoạt động độc lập. Trong thực hiện thẩm quyền, Phó Thủ tướng
nhân danh Thủ tướng. Thêm vào đó, công việc của các Phó Thủ tướng thực chất là
công việc của Thủ tướng được chia thành nhiều nhóm, mỗi Phó Thủ tướng sẽ phụ
trách một nhóm việc theo sự phân công của Thủ tướng. Nếu Phó Thủ tướng có
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ bị trùng lặp với Thủ tướng.
Trong khi đó, các Thông tư của Bộ trưởng được ban hành không phải với tư cách
của thành viên CP, mà với tư cách của người đứng đầu một ngành, lĩnh vực. Do đó,
chỉ có Thủ tướng mới có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là
thành viên CP, bên cạnh văn bản do tập thể CP ban hành. Cơ bản, với cách phân
nhiệm này phù hợp yêu cầu của tính thứ bậc trong cơ quan hành chính nhà nước.
Phó Thủ tướng có TNGT nội bộ trước Thủ tướng về những công việc được
phân công và có TNGT trước Quốc hội với tư cách là người được phê chuẩn.
TNGT trước Quốc hội của Phó Thủ tướng không được pháp luật quy định chi tiết,
do đó cả nội dung, phương thức và hệ quả mà Phó Thủ tướng phải gánh chịu khi
thực hiện TNGT thất bại trước Quốc hội cũng không được làm rõ. Thông thường
Phó Thủ tướng sẽ chịu TNGT với tư cách thay mặt Thủ tướng hoặc giúp Bộ trưởng
trong một số trường hợp cần thiết. Do đó, nội dung TNGT của Phó thủ tướng bao
hàm cả nội dung của hai tư cách trên.
79
- Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
So với quy định của pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới, Bộ trưởng trong
CP Việt Nam cũng có hai tư cách: là thành viên CP và là người đứng đầu một Bộ.
Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ, ngoài Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
cũng là một chức danh như Bộ trưởng. Đồng thời, vai trò của Bộ trưởng nói chung
ở Việt Nam cũng được xem trọng với tư cách là người đứng đầu bộ hơn là thành
viên CP. Hiện nay, CP Việt Nam có 22 Bộ trưởng (18 Bộ trưởng và 4 Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ) đứng đầu 22 cơ quan chuyên môn của CP. Thẩm quyền của Bộ
trưởng được xác lập với hai tư cách, theo đó TNGT của Bộ trưởng cũng xoay quanh
hai vấn đề này:
+ Với tư cách là thành viên CP, Bộ trưởng cũng chịu TNGT về các hoạt động
của tập thể CP như các thành viên khác, đồng thời chịu trách nhiệm về lá phiếu biểu
quyết của mình trong các quyết định của CP. Lúc này Bộ trưởng được xem là chính
khách và chịu TNGT chung về các chính sách của CP;
+ Với tư cách là người đứng đầu bộ, Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm về sự
phát triển hay tụt hậu của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách. Đây là TNGT mang
tính sống còn của Bộ trưởng. Bởi vì Bộ trưởng là người quyết định hoạt động của cả
bộ, ngành. Với tư cách này, Bộ trưởng được xem là công chức hành chính cao cấp
và chịu TNGT về kỹ thuật quản lý hành chính.
Bộ là cơ quan giúp việc cho Bộ trưởng, do đó không phải bộ mà chính Bộ
trưởng mới là đầu não của một ngành, lĩnh vực. Tư duy này giúp việc xác định
TNGT của Bộ trưởng sẽ thuận lợi hơn. Trong quy chế pháp lý Việt Nam ghi nhận
điều này bằng việc ấn định quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho Bộ
trưởng thay vì bộ. Nghĩa là cá nhân thay vì tập thể. Khác với chế độ làm việc tập thể
của CP, bộ hoạt động theo nguyên tắc cá nhân phụ trách. Bởi vậy, trên thực tiễn Bộ
trưởng được xem là “Tư lệnh ngành”. Quyền hạn của cá nhân Bộ trưởng rất rõ ràng
nên TNGT của Bộ trưởng cũng rất dễ nhận diện.
Khác với Phó Thủ tướng chỉ chịu TNGT trước cá nhân Thủ tướng, Bộ trưởng
có sự độc lập hoạt động nhất định và với tư cách là công chức hành chính, Bộ
trưởng có những tác động rõ ràng lên đời sống xã hội. Do đó, Bộ trưởng không chỉ
chịu TNGT trước Thủ tướng và CP về phần việc được giao mà còn trước Quốc hội
và rộng hơn là trước Nhân dân về kết quả hoạt động của bộ, ngành mình đứng đầu.
80
3.1.1.2. Chủ thể yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ
Chủ thể yêu cầu TNGT nói chung được giải thích tại Khoản 2, Điều 3, Nghị
định 90/2013/NĐ-CP: “Người yêu cầu giải trình là cơ quan, tổ chức, cá nhân có
yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải trình về những nội dung liên
quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”. Với phạm vi lý luận đã xác
định, TNGT khác giải trình, do đó chủ thể yêu cầu giải trình cũng không có sự đồng
nhất với chủ thể yêu cầu TNGT. Ở một góc độ nào đó, TNGT hẹp hơn về mục đích
và tính chất so với giải trình. Vì vậy, nếu chủ thể yêu cầu giải trình là “những cơ
quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu”, thì chủ thể yêu cầu TNGT còn phải có thẩm
quyền xem xét, đánh giá trách nhiệm của CP sau khi CP thực hiện TNGT. Nói một
cách tổng quát hơn, chủ thể yêu cầu CP chịu TNGT là các chủ thể có chức năng
giám sát quyền lực CP. Theo đó, với sự ghi nhận về trách nhiệm của CP trong Hiến
pháp và các văn bản luật có liên quan, CP cơ bản phải chịu TNGT trước: Quốc hội;
UBTVQH; Chủ tịch nước và Nhân dân. Chủ thể nào được TNGT của CP hướng tới,
chủ thể đó có quyền yêu cầu CP thực hiện TNGT.
Thứ nhất, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban chuyên môn của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
- Quốc hội:
Quốc hội Việt Nam là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của quốc gia và
được tổ chức theo cơ chế đơn viện. Quốc hội được Nhân dân bầu ra theo phương
thức phổ thông đầu phiếu. Đến lượt mình, Quốc hội bầu ra Thủ tướng - là một đại
biểu Quốc hội và sau đó phê chuẩn các thành viên khác của CP. Như vậy, tiền đề đầu
tiên của quyền yêu cầu CP chịu TNGT chính là thẩm quyền lập ra CP của Quốc hội.
Quốc hội Việt Nam được xác định có ba chức năng cơ bản: chức năng lập
hiến, lập pháp; chức năng giám sát tối cao; và chức năng quyết định các vấn đề
quan trọng. Chức năng lập hiến, lập pháp cần đến sự đệ trình của CP, vì về bản chất
Quốc hội không tự mình làm luật mà chỉ thực hiện việc thông qua luật. CP đệ trình
dự thảo luật ra Quốc hội, tất yếu Quốc hội có quyền yêu cầu CP chịu TNGT về nội
dung và kỹ thuật của dự thảo. Đây là tiền đề thứ hai.
Tiền đề thứ ba tới từ chức năng giám sát của Quốc hội. Chức năng này chỉ ra
Quốc hội là cơ quan được Nhân dân uỷ thác để kiểm soát hoạt động của quyền lực
nhà nước. Đối tượng kiểm soát chủ yếu của Quốc hội là CP, bởi Tư pháp với yêu
81
cầu độc lập sẽ không thể bị kiểm soát về mặt kỹ thuật từ một cá nhân hay tổ chức
nào, kể cả Quốc hội. Quốc hội kiểm soát hoạt động sử dụng và kết quả sử dụng
quyền lực của CP là cốt lõi của trạng thái kiểm soát quyền lực từ bên trong. Để
kiểm soát được, Quốc hội phải có quyền yêu cầu CP chịu TNGT. Đương nhiên, có
nhiều cách để kiểm soát, nhưng yêu cầu CP chịu TNGT là biện pháp kiểm soát ưu
việt nhất. Đây có thể xem là tiền đề quan trọng nhất.
Tiền đề cuối cùng đến từ chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của
Quốc hội. Ở các thiết chế Nghị viện của nhiều quốc gia trên thế giới không ghi nhận
chức năng này, vì quan niệm cho rằng quyết định các vấn đề quan trọng chính là
thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp và giám sát. Thay vào đó, họ ghi nhận chức
năng đại diện. Môi trường pháp lý và chính trị Việt Nam có sự khác biệt khi xác lập
chức năng quyết định các vấn đề quan trọng là một chức năng độc lập. Theo đó, các
vấn đề quan trọng của quốc gia sẽ được Quốc hội bàn thảo và đưa ra quyết định.
Các quyết định của Quốc hội mang tính tối cao và chi phối mọi hoạt động chính trị,
xã hội khác, bao gồm cả hoạt động và sự chịu trách nhiệm của CP. Muốn quyết định
được các vấn đề, Quốc hội phải có nhiều thông tin, đặc biệt là các thông tin về thực
trạng vận động xã hội cũng như các dự báo tác động của quyết định trong tương lai.
Quốc hội với cơ chế làm việc hội nghị, không thường xuyên và đại biểu kiêm nhiệm
chiếm tỷ lệ lớn không có đủ cơ sở thông tin cần thiết để quyết định. Trong khi đó, với
tư cách là cơ quan hành chính cao nhất của quốc gia, CP điều hành mọi mặt của đời
sống xã hội và dĩ nhiên có đầy đủ thông tin về hiện tại cũng như có khả năng dự báo
được các tác động của quyết định trong tương lai. Yêu cầu CP chịu TNGT là cách để
Quốc hội thu thập thông tin.
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) là cơ quan hoạt động thường xuyên
của Quốc hội Việt Nam. Đồng thời, hiểu một cách đơn giản, đó là bộ máy lãnh đạo
Quốc hội. Quyền yêu cầu này của UBTVQH là quyền được Quốc hội uỷ nhiệm khi
Quốc hội không họp. CP thực hiện TNGT trước UBTVQH thông qua hoạt động trả
lời chất vấn. Hình thức này có sự gần gủi nhất định với thủ tục Điều trần của nhiều
quốc gia trên thế giới. Hệ quả mà CP phải gánh chịu khi không thuyết phục được
UBNTQH chủ yếu là việc điều chỉnh chính sách hay các dự thảo do CP đệ trình.
82
- Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội:
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội là cơ quan chuyên
môn của Quốc hội. Hiện nay, trong quy định của pháp luật, Quốc hội Việt Nam có 9
Uỷ ban gồm: Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tư pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài
chính, ngân sách; Ủy ban Quốc phòng và an ninh; Ủy ban Văn hoá, giáo dục, thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban về các vấn đề xã hội; Ủy ban Khoa học, công
nghệ và môi trường; Ủy ban Đối ngoại. Thẩm quyền của 9 Uỷ ban và Hội đồng dân
tộc là như nhau, chỉ khác ở nội dung chuyên môn.
Hai thẩm quyền cơ bản của Hội đồng dân tộc và của các Uỷ ban chuyên môn
là: thẩm định và giám sát. Trong đó trọng tâm là thẩm tra các chính sách, dự án, báo
cáo và giám sát văn bản của CP, Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Với mỗi Uỷ ban, việc thẩm tra và giám sát CP được thực hiện trong thẩm
quyền chuyên môn của mình. Đó chính là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Hội
đồng dân tộc và các Uỷ ban yêu cầu CP chịu TNGT.
Nội dung TNGT của CP trước các Uỷ ban này tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực của
Uỷ ban đó. Và trong trường hợp thất bại, CP sẽ gánh chịu hệ quả là những chính
sách, dự thảo của CP sẽ không được chấp thuận bởi Uỷ ban tương ứng. Đây là hệ
quả bất lợi về chính sách. Cũng như phương thức thực hiện TNGT trước UBTVQH,
phương thức thực hiện TNGT của CP trước các Uỷ ban chuyên môn này đa phần là
tham gia các phiên chất vấn có tính chất như phiên điều trần của các nước phương
Tây và một phần nhỏ sử dụng phương thức phúc đáp các văn bản yêu cầu của các
Uỷ ban này.
- Đại biểu Quốc hội:
Đại biểu Quốc hội được Hiến pháp năm 2013 quy định có vai trò là “người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn bị bầu cử ra mình và của nhân
dân cả nước” (Khoản 1, Điều 79). Do đó, cũng như thiết chế Nghị sĩ ở các quốc gia
theo chính thể Đại nghị khác, Đại biểu Quốc hội là đại diện gần gũi nhất của người
dân. Lợi ích mà Đại biểu theo đuổi trong hoạt động chính trị của mình chính là lợi
ích của cử tri. Cũng vì thế, yêu cầu CP chịu TNGT của Đại biểu Quốc hội là một
quyền được uỷ nhiệm từ phía cử tri, đồng thời đây cũng là một phương thức quan
trọng để Đại biểu thực hiện thẩm quyền giám sát của mình.
83
Như vậy ở nhóm chủ thể có quyền yêu cầu TNGT của CP Việt Nam không có
sự hiện diện của Thanh tra Quốc hội như ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, Chủ tịch nước. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia và là thiết chế
chia sẻ quyền hành pháp với CP. Với hai tư cách này đã xác lập đầy đủ quyền yêu
cầu CP chịu TNGT của Chủ tịch nước. Cụ thể:
- Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận Chủ tịch nước
có thẩm quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng, căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các Bộ
trưởng (Khoản 2, Điều 88). Với thẩm quyền này, Chủ tịch nước yêu cầu CP chịu TNGT,
không chỉ bởi tính ràng buộc giữa người được bổ nhiệm với người bổ nhiệm, mà yêu cầu
này còn là cơ sở để Chủ tịch nước thực hiện quyền miễn nhiệm hay bãi nhiệm với các
thành viên CP và đề nghị Quốc hội miễn nhiệm hay bãi nhiệm Thủ tướng.
- Với tư cách là thiết chế chia sẻ quyền hành pháp với CP, Chủ tịch nước thi
hành các quyền hành pháp liên quan đến các vấn đề an ninh, quốc phòng; ngoại
giao; đặc xá; quốc tịch; phong tặng danh hiệu, giải thưởng, huân huy chương các
hoạt động hành pháp này của Chủ tịch nước mặc dù mang hơi hướng của hành pháp
tượng trưng, nhưng cơ bản đều liên quan đến hoạt động của CP nói riêng và bộ máy
hành chính nhà nước nói chung. Yêu cầu CP chịu TNGT các vấn đề liên quan là cơ
sở đảm bảo cho hoạt động hành pháp của Chủ tịch nước được thực hiện phù hợp với
thực tiễn và mang lại hiệu quả.
TNGT của CP trước Chủ tịch nước chủ yếu được thực hiện bằng phương thức
phúc đáp các văn bản yêu cầu và hệ quả nếu CP phải gánh chịu bao gồm cả hậu quả
thay đổi chính sách lẫn thay đổi về mặt nhân sự.
Thứ ba, Toà án nhân dân. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận Toà án thực hiện
quyền tư pháp, song không có thêm cơ sở pháp lý nào để ghi nhận quyền kiểm soát
CP của Toà án. Trong thẩm quyền của mình, “Toà án có quyền kiến nghị cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm
pháp luật nếu phát hiện văn bản đó có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Toà án
kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật
làm cơ sở để Toà án giải quyết vụ án” (Khoản 2, Điều 6). Như vậy, với quy định
84
này, Toà án có quyền yêu cầu CP chịu TNGT về kết quả thực hiện kiến nghị xem
xét, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản do CP ban hành có dấu hiệu trái với Hiến
pháp và pháp luật. Đây là một thẩm quyền rất nhỏ vì hoạt động yêu cầu TNGT của
Toà án đối với CP không phải để bảo vệ Hiến pháp như nhiều quốc gia khác, mà
đơn thuần chỉ là bước hỗ trợ trong quá trình xét xử của Toà án, bởi kết quả của
TNGT này là “cơ sở để Toà án giải quyết vụ án”.
Thứ tư, Nhân dân. Cũng như hầu hết các thiết chế dân chủ chính danh, Hiến
pháp năm 2013 cũng hiến định: “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ” (Khoản 2, Điều 2). Quy định này tạo tiền đề cho Nhân dân giám
sát mọi cơ quan và cá nhân sử dụng quyền lực nhà nước, trong đó trọng tâm là CP.
Người dân yêu cầu TNGT của CP thông qua nhiều kênh khác nhau. Để cụ thể
cho quyền này, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Nghị định 90/2013/NĐ-CP đã
quy định trình tự và các phương thức yêu cầu TNGT của người dân với cơ quan
Nhà nước nói chung, trong đó có CP. Đây cũng là hai cơ sở pháp lý chủ đạo cụ thể
quyền giám sát của Nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Bên cạnh người dân với tư cách là cá nhân đơn lẻ, các tổ chức xã hội cũng là
chủ thể có quyền yêu cầu CP chịu TNGT. Hoạt động của các tổ chức này xuất phát
từ quyền tự do lập hội được Hiến định và các văn bản dưới luật cũng như các văn
bản quản lý hành chính khác của các cơ quan có thẩm quyền. Các tổ chức này về
phương diện lý luận là những tổ chức thuần tuý của xã hội (không có sự lệ thuộc
nhà nước), đại diện cho lợi ích hợp pháp của thành viên và yêu cầu CP chịu TNGT
với tư cách là nơi quy tụ yêu cầu của các thành viên mà tổ chức đó đại diện. Các tổ
chức xã hội đóng vai trò khuếch đại tiếng nói của những người dân đơn lẻ có cùng
lợi ích, tạo ra trọng lực cho yêu cầu CP chịu TNGT và chia sẻ các thông tin của
nhóm lợi ích cho CP.
CP thực hiện TNGT trước Nhân dân thông qua phương tiện truyền thông bao
gồm: báo chí nhà nước, báo chí tư nhân và mạng xã hội. Hệ quả CP có thể gánh
chịu trước nhóm chủ thể này chính hệ quả đạo đức và hệ quả chính trị khi mức độ
tín nhiệm của người dân đối với CP sẽ giảm đi nếu TNGT thất bại. Từ sự suy giảm
này, CP có thể sẽ gặp khó khăn trong việc thực thi các chính sách, tìm kiếm sự ủng
hộ và hợp tác của Nhân dân
85
3.1.2. Nội dung trách nhiệm giải trình của Chính phủ Việt Nam
Nội dung TNGT của CP gắn liền với thẩm quyền tập thể và thẩm quyền của
các cá nhân là thành viên CP. Tuy nhiên, vì cơ cấu 3 cấp bậc thẩm quyền trong CP,
do đó ít nhiều các thẩm quyền này có sự trùng lặp lẫn nhau. Đơn cử như TNGT của
Phó Thủ tướng sẽ có sự trùng lặp với TNGT của các Bộ trưởng do Phó Thủ tướng
phụ trách. Vì thế, việc xem xét nội dung TNGT thông qua các chủ thể sẽ gặp nhiều
khó khăn. Ở một cách khác, phân tích theo từng nội dung sẽ cho thấy rõ hơn về
TNGT gắn với thẩm quyền của CP.
Thứ nhất, trách nhiệm giải trình các dự thảo luật. Cũng giống như nhiều quốc
gia theo Đại nghị chế và Hỗn hợp, CP Việt Nam trên thực tế đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Vai trò đó thể hiện qua khả năng đề
xuất và xây dựng dự thảo luật của CP Việt Nam, được thể hiện bằng các con số thực
tế: trên 95% các văn bản luật do CP soạn thảo [17; tr.143]. Trong các nhiệm vụ của
CP được hiến định, nhiệm vụ xây dựng dự thảo văn bản pháp luật được ghi nhận:
“trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội;
trình dự án pháp lệnh trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”. Sự ghi nhận này càng
cho thấy, trong tư duy lập pháp, Việt Nam xem xét vai trò dự thảo luật của CP là tất
yếu. Trên thực tiễn lịch sử lập pháp chỉ mới ghi nhận hai văn bản luật được Quốc
hội trực tiếp soạn thảo là: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và Luật Giao dịch
điện tử [17; tr.147]. Như vậy, Quốc hội trong chức năng lập pháp thường đóng vai
trò thông qua pháp luật, ngược lại, đa phần sáng kiến lập pháp và dự thảo đều được
xuất phát từ CP. Và cách lý giải cho thực tế này cũng như đối với xu hướng chung
của thế giới, CP có đầy đủ động cơ và năng lực để xây dựng dự thảo luật.
Hiến pháp năm 2013 bỏ quy định Quốc hội quyết định chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh càng làm tăng thêm sự chủ động trong hoạt động đệ trình luật của
CP. Điều này cũng đồng nghĩa với việc TNGT của CP về vấn đề này cũng tăng theo
thẩm quyền. Điểm khác biệt ở chỗ, nếu quy trình lập pháp của thế giới tuân theo ba
bước (ba lần đọc), thì quy trình này ở Việt Nam chỉ hai bước (hai lần đọc). “Ở lần
đọc thứ nhất, Chính phủ trình dự luật ra trước Quốc hội, còn Uỷ ban thì trình ý kiến
thẩm tra của mình, và Quốc hội sẽ thảo luận về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Ở lần đọc thứ hai, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ trình dự luật ra trước Quốc hội,
sau khi đã tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và hoàn thiện dự thảo văn
86
bản” [17; tr.74]. Như vậy, CP chịu TNGT về dự thảo luật một lần trước Quốc hội,
khác với CP chịu TNGT ở cả ba lần đọc khác nhau của thế giới nói chung.
TNGT về dự thảo luật được CP thực hiện xoay quanh hai vấn đề: TNGT nội
dung dự thảo và TNGT kỹ thuật dự thảo. Nói cách khác, CP có TNGT về tư tưởng
lập pháp trong dự thảo và có TNGT về các kỹ thuật được sử dụng trong dự thảo:
- Đối với vấn đề nội dung, đó là các tư tưởng, ý niệm chính trị của CP, được
cụ thể hoá trong dự thảo. Trên thế giới, đây chính là chính sách pháp luật. Tuy ở
Việt Nam cách gọi này còn mới lạ, song trên thực tế CP luôn xác định chính sách
pháp luật trước khi thực hiện soạn thảo dự luật. Chính sách pháp luật là động lực,
đồng thời cũng là phương tiện định hướng cho quá trình xây dựng dự thảo luật của
CP. CP có TNGT trước Quốc hội chính là việc thực hiện TNGT chính sách pháp
luật trong dự thảo luật. Nó bao gồm các nội dung nhỏ hơn như: sự cần thiết phải ban
hành luật; đối tượng điều chỉnh là ai? và phạm vi điều chỉnh tới đâu?; phương thức
điều chỉnh chủ yếu là gì? và cuối cùng, quan trọng hơn cả là dự đoán các tác động
pháp lý của dự thảo nếu trở thành văn bản luật chính thức. Quốc hội sẽ lắng nghe
TNGT ở phiên toàn thể và thảo luận về những vấn đề đó để có những góp ý chỉnh
sửa về mặt chính sách pháp luật của dự thảo.
- Đối với vấn đề kỹ thuật: nếu ở các quốc gia khác, vấn đề kỹ thuật của dự
thảo được CP thực hiện TNGT trước các Uỷ ban chuyên môn, bởi tính phức tạp của
kỹ thuật chỉ có thể được nhìn thấy rõ ở một cuộc họp quy mô nhỏ hơn phiên toàn
thể và do những người có chuyên môn ở các Uỷ ban thực hiện, thì CP Việt Nam
không được trao cơ hội để thực hiện việc này. CP chỉ có TNGT một lần trước Quốc
hội, do đó cơ bản cả vấn đề nội dung lẫn kỹ thuật của dự thảo sẽ được thực hiện tại
đây. Và vì các tính chất như đã phân tích, quy chế pháp lý như vậy đã khiến cho
trên thực tiễn, vấn đề kỹ thuật lập pháp trong các dự thảo đã ít được xem xét một
cách chu đáo.
Bên cạnh TNGT về các dự thảo do CP khởi thảo, CP còn có trách nhiệm báo
cáo ý kiến của mình về các dự thảo do các cơ quan, tổ chức và đại biểu Quốc hội
trình. Yêu cầu này cho thấy vai trò của CP trong hoạt động lập quy và tính trách
nhiệm của CP đối với các dự thảo dù không phải do CP soạn thảo. Bởi dù được cá
nhân hay tổ chức nào soạn thảo và Quốc hội thông qua, đa số các văn bản pháp luật
đều do CP cụ thể hoá và thực thi sau đó. Hệ quả của CP phải gánh chịu khi thực
87
hiện TNGT thất bại về những vấn đề này bao gồm cả hậu quả chính sách lẫn hậu
quả đạo đức khi CP sẽ không được hiện thực hoá các dự định chính sách của mình
và đồng thời cũng gánh chịu sự sụt giảm uy tín trước Quốc hội và trước xã hội.
Thứ hai, trách nhiệm giải trình chính sách công. TNGT về chính sách công
được thực hiện với hai vấn đề lớn: TNGT dự án chính sách (TNGT trong xây dựng
chính sách) và TNGT trong thực thi chính sách (TNGT cả khi thực thi và kết quả
của chính sách):
- Đối với TNGT dự án chính sách: cũng giống như dự thảo luật, dự thảo chính
sách cũng cần có TNGT của CP. Trong quá trình xây dựng chính sách, CP cần đến
sự tham gia của người dân, xã hội và các chuyên gia để có được những thông tin
chất lượng cho quá trình hoạch định. Muốn vậy, CP có TNGT về mục đích, công cụ
và nội dung của chính sách cần xây dựng. Trong nội dung này, nhất thiết phải có sự
tương tác qua lại. CP không đơn thuần chỉ phát đi những thông báo, mà cần thiết
phải thu nhận những phản hồi từ phía các chuyên gia và xã hội.
Bên cạnh đó, với đặc tính không thừa nhận hoạt động vận động chính sách công
(Lobby), do đó, CP nói chung và các nhà hoạch định nói riêng không có TNGT về nội
dung này. Song trên thực tế, hoạt động “đi đêm” hay “cửa sau” vẫn luôn diễn ra trong
quá trình hoạch định chính sách. Hiện tượng này mang tính tiêu cực và là cách thức
đưa lợi ích nhóm vào chính sách. Chính vì thế, TNGT của CP trong nội dung này còn
để làm rõ các nội dung mang tính lợi ích nhóm được thể hiện trong dự thảo, từ đó ngăn
chặn việc tham nhũng chính sách ngay từ quá trình khởi thảo.
- Đối với thực thi chính sách: hoạt động thực thi chính sách cần đến TNGT
của CP, không chỉ TNGT trong suốt quá trình thực thi mà còn phải có TNGT cả kết
quả thực thi. Trong quá trình thực thi, nguy cơ xa rời mục tiêu chính sách do những
tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích hoặc đến từ những yếu kém trong thực thi
của các chủ thể sẽ đẩy chính sách đến thất bại. Xuyên suốt quá trình thực thi, các
chủ thể giám sát có chức năng kiểm tra, giám sát sẽ yêu cầu TNGT của CP về
những biểu hiện tiêu cực của quá trình thực thi. Đây là phương thức quan trọng để
phát hiện sai phạm và xác định trách nhiệm, qua đó kịp thời điều chỉnh quá trình
thực thi chính sách công.
Kết quả thực thi chính sách là trọng tâm của TNGT chính sách. Bởi không
phải việc hoạch định hay thực thi, mà kết quả mới chính là thước đo của một chính
88
sách công tốt. CP Việt Nam với vai trò hiến định “quyết định theo thẩm quyền” các
chính sách công sẽ phải gánh vác trực tiếp các trách nhiệm về hiệu quả của chính
sách. Yêu cầu TNGT của CP sẽ được đưa ra khi kết quả của quá trình thực thi thấp
hơn mục tiêu của chính sách. Lúc này, CP phải có nghĩa vụ chứng minh sự tác động
khách quan đến kết quả, các quy trình được đảm bảo và hậu quả nằm ngoài năng
lực thực thi của các chủ thể. Trường hợp chứng minh thất bại, CP phải gánh chịu
các hệ quả bất lợi cả về chính sách, đạo đức, chính trị và pháp lý tuỳ thuộc vào mức
độ nhân quả của hành vi đối với hậu quả.
Thứ ba, trách nhiệm giải trình hoạt động lập quy. Lập quy cùng với quản lý
hành chính là hai bộ phận cấu thành quyền hành pháp của CP. Theo Luật Ban hành
văn bản pháp luật năm 2015, CP với tư cách tập thể được ban hành Nghị định, Thủ
tướng được ban hành Quyết định và Bộ trưởng được ban hành Thông tư. Cả ba văn
bản này đều có tính dưới luật, nhưng có vai trò: cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành các
văn bản pháp lý do Quốc hội và UBTVQH ban hành. Không những thế, thông tư của
Bộ trưởng còn đóng vai trò như vậy đối với nghị định của Chính phủ và quyết định của
Thủ tướng. Cơ chế vận hành này dẫn đến một quy luật: văn bản có tính chất pháp lý
càng cao, càng khó đi vào thực hiện, vì cần phải có sự phò tá của các văn bản pháp lý
thấp hơn. Mô hình này thường được gọi là “chiếc nón úp ngược”.
TNGT văn bản pháp quy của CP trước Quốc hội và cơ quan chuyên môn của
Quốc hội được quy định tại Khoản 3, Điều 19 và Điều 95 Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp lu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_trach_nhiem_giai_trinh_cua_chinh_phu_theo_phap_luat.pdf