MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 28
Chương 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH Tư TưỞNG PHÁP
QUYỂN HỒ CHÍ MINH 32
2.1. Khái niệm 32
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 43
Chương 3: NỘI DUNG Tư TưỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 66
3.1. Về vai trò của pháp luật 66
3.2. Về phương thức thực hiện pháp quyền 83
3.3. Về điều kiện thực hiện pháp quyền 93
Chương 4: NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG Tư TưỞNG PHÁP
QUYỀN HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN
NHÀ NưỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 110
4.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước 110
4.2. Pháp luật phải thể hiện ý nguyện của nhân dân 116
4.3. Chủ quyền nhân dân đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia 120
4.4. Các quyền hiến định của công dân 125
4.5. Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt 128
KẾT LUẬN 135
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
155 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 343 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áng suốt của nhân dân”, đó là, những biểu hiện
tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
Quản lý xã hội bằng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp khác nhau:
hệ thống luật pháp, bộ máy hành chính, quy định của các tổ chức xã hội, đạo
đức, phong tục, tập quán... Theo Hồ Chí Minh, quản lý bằng hệ thống pháp
luật là hiệu quả nhất. Pháp luật của nước Việt Nam DCCH là ý chí của nhân
dân đề lên thành luật, bảo vệ lợi ích của nhân dân, trừng trị những hành vi
chống lại quyền, lợi ích của nhân dân, bản chất này của pháp luật mới đã đảm
bảo tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật. Trong điều kiện đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc, bảo vệ những thành quả cách mạng, pháp luật là công cụ
quan trọng và hiệu quả để ngăn chặn những hành vi xâm hại lợi ích dân tộc,
lợi ích nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Ai làm mật thám, gián điệp, đặc
vụ cho thực dân, hoặc có những hành động chống lại kháng chiến Việt Nam,
hoặc giúp đỡ, che giấu cho giặc Pháp và bọn phản quốc thì sẽ bị xử phạt theo
pháp luật của Chính phủ Việt Nam” [78, tr.490].
Theo Hồ Chí Minh sử dụng pháp luật là một trong những nguyên tắc
quản lý xã hội, cũng là một yêu cầu của xã hội mới, Người cho rằng: “Người
nào có tội, thì điều tra cho ra, rồi có pháp luật trừng trị” [79, tr.95]. Người có
tội phải dựa vào pháp luật để trừng trị và khi sử dụng pháp luật để kết tội phải
qua một trình tự pháp lý nhất định. Dùng pháp luật trong quản lý xã hội và
70
thực thi pháp luật nghiêm minh sẽ đem lại hiệu quả, Hồ Chí Minh khẳng định:
“pháp luật thì hết sức nghiêm trị ai cũng phải phục” [76, tr.710].
Hồ Chí Minh ý thức một cách sâu sắc xã hội không thể một ngày thiếu
pháp luật, khi chưa thể xây dựng được pháp luật cho xã hội mới, Hồ Chí
Minh chấp nhận sử dụng, áp dụng luật của chế độ cũ ở những mức độ nhất
định, khi sử dụng pháp luật cũ phải trên một tinh thần mới, sử dụng pháp luật
cũ một cách có nguyên tắc. Về nội dung không đi ngược lại mục tiêu độc lập,
tự do, để gìn giữ trật tự trị an. Tất cả vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc
của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam [47]. Ngày 09/10/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 48 quy định về việc tạm thời áp dụng đạo
luật cũ đối với các công ty, các hãng kỹ nghệ, thương mại ngoại quốc ở Việt
Nam. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47, về việc tạm
thời sử dụng bộ luật cũ, trừ một số điểm thay đổi được ấn định trong sắc luật
này. Với quan điểm biện chứng thực tiễn, có thể thấy tư tưởng pháp quyền Hồ
Chí Minh trọng thực tế, trọng hiệu quả, thể hiện triết lý cao cả của Hồ Chí
Minh tất cả vì lợi ích nhân dân, lợi ích dân tộc; bất kỳ điều gì có lợi cho dân,
cho nước, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước đều hữu dụng, đều có giá trị.
3.1.2. Pháp luật là cơ sở thực hiện quyền là chủ và làm chủ của
nhân dân
Nhà nước xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật xác lập và là căn cứ
pháp lý đảm bảo thực hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Việc nhân
dân đi ứng cử và bầu cử thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Sau
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong một thời gian rất ngắn,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh tạo căn cứ pháp lý để bầu Quốc hội
và lập Chính phủ chính thức: ngày 26/09/1945, ký Sắc lệnh số 39 thành lập
Ủy ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 17/10/1945, ký Sắc lệnh số 51 quy
định thể lệ Tổng tuyển cử; ngày 02/12/1945, ký Sắc lệnh số 71 và 72 về bổ
sung thể lệ Tổng tuyển cử. Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trên cả
71
nước, nhân dân lập ra cơ quan Quốc hội; ngày 2/3/1946 Quốc hội khóa I bầu
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước và giao cho Hồ Chí Minh lập ra Chính phủ.
Tiếp sau đó, tiến hành thành lập bộ máy chính quyền ở cấp địa phương. Đối
với hệ thống cơ quan tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh thành
lập hệ thống cơ quan tư pháp để xét xử, duy trì, trật tự, kỷ cương, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo thực hiện pháp quyền: ngày
13/09/1945, ký sắc lệnh số 33C, thành lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ, Trung
Bộ, Nam Bộ; ngày 21/02/1946, ký Sắc lệnh số 23, thành lập Việt Nam công
an vụ; ngày 23/11/1945, ký Sắc lệnh số 64, thành lập Ban thanh tra đặc biệt.
Cùng với ký các sắc lệnh thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh về
cơ cấu tổ chức, hoạt động; tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của bộ máy Nhà
nước, nhằm phục vụ xây dựng chế độ xã hội mới, phục vụ nhân dân. Những
sắc lệnh đó là căn cứ pháp lý để nhân dân lập bộ máy nhà nước từ cấp trung
ương đến địa phương, thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân.
Hiến pháp Việt Nam hiến định quyền làm chủ của nhân dân, tại Hiến
pháp năm 1946, Điều 1 quy định: Tất cả quyền binh trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo; tại Hiến pháp năm 1959, Điều 4 quy định: Tất cả quyền lực
trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Tư tưởng toàn
bộ quyền lực trong xã hội và trong Nhà nước thuộc về nhân dân không phải
do Hồ Chí Minh sáng tạo ra, tư tưởng đó đã xuất hiện từ thời cổ đại và trở nên
phổ biến ở phương Tây vào thời kỳ cận, hiện đại. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế
thừa, vận dụng một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa, một nước phương
Đông có bề dày lịch sử dưới chế độ quân chủ chuyên chế. Nét độc đáo, đặc
sắc của Hồ Chí Minh là ở chỗ làm cho tư tưởng đó trở nên thực chất và đi vào
thực tiễn đời sống xã hội.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, một chế độ xã hội mới
ra đời, tạo ra điều kiện thực hiện tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nhân dân
72
làm chủ Nhà nước. Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân thể hiện cụ thể và
rõ nhất trong việc nhân dân bầu cử lập ra các cơ quan nhà nước, trong việc
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong Lời kêu gọi quốc dân
đi bỏ phiếu, Hồ Chí Minh viết:
Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ.
Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là
ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ
của mình [75, tr.166].
Pháp luật là cơ sở để nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước. Trong Hiến pháp năm 1946, tại Điều 21 xác lập nhân dân có quyền
phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.
Trong quản lý, điều hành đất nước, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể ra quyết
định trong nhiều trường hợp, nhưng những vấn đề hệ trọng, liên quan đến vận
mệnh quốc gia phải do nhân dân trực tiếp quyết định. Điểm này thể hiện trực
tiếp và rõ ràng nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước. Đối với hoạt động
lập hiến, một hoạt động quan trọng của pháp quyền Việt Nam, chủ quyền
nhân dân thể hiện ở quyền phúc quyết đối với Hiến pháp. Tại Điều 70 quy
định về sửa đổi Hiến pháp xác lập quyền quyết định cuối cùng và trực tiếp đối
với bản Hiếp pháp sửa đổi; hiệu lực của Hiến pháp sửa đổi chỉ có khi có sự
đồng ý của nhân dân.
Ý thức được pháp luật là cơ sở để nhân dân thực hiện quyền là chủ và
làm chủ, ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam DCCH, Hồ Chí
Minh quan tâm đến việc ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý để
nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, quyền làm chủ đất nước trên
thực tế. Chính Hồ Chí Minh khẳng định tính nhanh chóng, tính tiến bộ, tính
rộng rãi của cuộc bầu cử Quốc hội ở nước ta so với bầu cử ở Pháp: Pháp có
mấy chục lần tuyển cử rồi, nhưng mãi năm ngoái (1945), phụ nữ Pháp mới
73
được hưởng quyền bỏ phiếu. Xem như thế, thì có cái ta chậm hơn nước ngoài,
nhưng cũng có cái ta đi quá họ. So sánh về đối tượng và số lượng người được
đi bầu cử Quốc hội ở nước Pháp năm 1791 càng thấy rõ tính rộng rãi, tính
toàn dân của cuộc bầu cử 6/1/1946 ở Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp quyền
dân chủ, thực sự dân là chủ và dân làm chủ của Hồ Chí Minh. Đối tượng được
đi bầu cử Quốc hội Pháp năm 1791 là từ 25 tuổi trở lên và không làm thuê
cho ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân, phải nộp một khoản thuế trực thu
ít nhất bằng ba ngày công; với quy định đó chỉ có hơn 4 triệu người trên tổng
số 26 triệu người Pháp có quyền đi bầu cử. So với Liên Xô, Cách mạng tháng
Mười thành công gần 20 năm sau (năm 1936), cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín mới được thực hiện
[69]. So với Trung Quốc đến nay Quốc hội vẫn chưa thực hiện chế độ bầu cử
phổ thông, trực tiếp, bỏ phiếu kín [62]. Trong trong Sắc lệnh số 51 và Hiến
pháp năm 1946, tiêu chuẩn về người đi bầu cử là 18 tuổi; người ứng cử là
người có quyền bầu cử, 21 tuổi trở lên và biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ, với
quy định như vậy, đối tượng có quyền bầu cử và ứng cử rất rộng.
Các quy định trong hệ thống pháp luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh tham
gia soạn thảo, ký và công bố thể hiện tư tưởng pháp quyền coi Nhà nước và
quyền lực nhà nước là từ nhân dân mà ra. Hồ Chí Minh viết:
Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân [77, tr.232].
Pháp luật là cơ sở để nhân dân giám sát hoạt động và bãi miễn đại biểu
do mình bầu ra khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, thể hiện
tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong Hiến pháp năm 1946, tại Điều 20
74
xác lập nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, đó là các
Nghị viên, Nhân viên Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính. Bầu cử là hành
động nhân dân ủy quyền cho các đại biểu sử dụng quyền của nhân dân để
quản lý, điều hành đất nước, địa phương. Sau hoạt động ủy quyền, nhân dân
giám sát quyền của mình được các đại biểu sử dụng như thế nào, khi phát
hiện các đại biểu sử dụng không đúng với lợi ích của mình, nhân dân góp ý
kiến phê bình, chất vấn, khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của mình,
nhân dân bãi miễn đại biểu.
Pháp luật ghi nhận quyền lập ra Nhà nước, quyền kiểm soát Nhà nước,
quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước của nhân dân; đó là căn
cứ pháp lý để thực hiện trên thực tế quyền là chủ và làm chủ của nhân dân.
3.1.3. Pháp luật là cơ sở ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nƣớc,
của nhân viên nhà nƣớc
Nhà nước Việt Nam DCCH khi vừa ra đời đã thực hiện nhiều chính
sách đem lại lợi ích thiết thực cho dân chúng, được dân chúng ghi nhận và tin
tưởng, Hồ Chí Minh đánh giá:
Non hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới
hai chữ Chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp
nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với Chính phủ nhân dân
hiện nay cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn
kính sâu xa: Chính phủ đối với ta như người "anh cả" trong gia
đình, một đồng chí phụ trách trong một địa phương, một người
đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh
vào [75, tr.24].
Thực tiễn khẳng định bản chất tốt đẹp và sự ưu vượt của Nhà nước
mới, nhưng đồng thời cũng làm bộc lộ những khuyết tật của Nhà nước mới,
làm giảm bản chất tốt đẹp và những ưu vượt của Nhà nước mới. Ngày
17/9/1945, trong Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà, Hồ Chí Minh chỉ ra các
75
khuyết điểm to ở các địa phương, trong đó có khuyết điểm: cán bộ hủ hóa, lên
mặt làm quan cách mạng, độc hành độc đoán, lấy của chung làm của riêng.
Thậm chí dùng pháp luật để trả thù tư, coi thường pháp luật, vi phạm pháp
luật. Hồ Chí Minh nêu: “Đối với nhân dân thì quan liêu, mệnh lệnh; xem
thường pháp luật, không tôn trọng quyền lợi của nhân dân (như có khi khám
xét nhà mà không báo trước cho chủ nhà)” [83, tr.29].
Theo Hồ Chí Minh phải lập tức sửa đổi ngay và khắc phục ngay những
biểu hiện ban đầu, nhưng rất nguy hiểm đó. Hồ Chí Minh cho rằng có nhiều
biện pháp khác nhau để hạn chế, ngăn chặn, loại bỏ sự lạm quyền của Nhà
nước, của nhân viên nhà nước, trong đó sử dụng pháp luật là một trong biện
pháp quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 223, ngày 27/11/1946
trong đó quy định hình phạt nặng với tội đưa, nhận hối lộ, biển thủ công quỹ:
tù khổ sai từ 5 năm đến 20 năm; phạt tiền gấp đôi số tiền nhận hối lộ, biển
thủ; tịch biên ba phần tư tài sản; các đồng phạm và tòng phạm cũng phạt
tương tự. Dùng hình phạt nghiêm khắc được quy định trong pháp luật đối với
những hành vi lợi dụng quyền hạn của nhân viên Nhà nước là một trong
những biện pháp vừa mang tính trừng trị, vừa mang tính răn đe, phòng ngừa.
Hồ Chí Minh khẳng định đối với hành vi của nhân viên nhà nước xâm
hại quyền và lợi ích của nhân dân vừa phải bồi thường thiệt hại, đồng thời
dùng pháp luật để xử lý. Người viết: “Người quản lý hiện giờ, phải trả lại sản
vật hoa mùa đầy đủ theo lệ thường. Nếu thiếu hoặc hư hỏng vật gì, thì theo
phép luật mà xử trí. Nếu người quản lý mượn tên người nào hoặc đoàn thể
nào mà làm quấy, thì cứ theo phép luật mà trị” [76, tr.67].
Với hai bản Hiến pháp, cùng các sắc lệnh, luật về tổ chức hoạt động
của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính các cấp; hệ
thống cơ quan tư pháp quy định về chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước, của các chức vụ trong chính quyền, của các nhân viên nhà nước làm cơ
sở pháp lý cho việc ngăn chặn lạm quyền của Nhà nước và nhân viên nhà
76
nước. Việc đề xuất và nhanh chóng xây dựng, thông qua Hiến pháp năm
1946, một bản hiến pháp dân chủ, thể hiện đậm nét tư tưởng pháp quyền, tư
tưởng lập hiến dân chủ, tiến bộ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp đó là văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, Hiến pháp quy định quyền lực của Nhà
nước, các chức vụ trong cơ quan nhà nước ở cấp trung ương, tạo thành giới
hạn, hành lang cho quyền lực nhà nước; tạo cơ sở pháp lý ngăn chặn sự lạm
quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước. Xét hoàn cảnh lịch sử ra đời
của Hiến pháp năm 1946 và vai trò, vị trí cá nhân Hồ Chí Minh đối với Cách
mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh sớm đề xuất và nhanh chóng xây
dựng, thông qua bản Hiến pháp dân chủ, càng thấy tư tưởng dân chủ, tiến bộ,
văn minh ở Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhân cách lớn của dân
tộc và nhân loại.
Bên cạnh việc phê phán, lên án và dùng pháp luật trừng trị những hành
vi vi phạm pháp luật của nhân viên nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu, kêu gọi
nhân viên nhà nước tuân thủ pháp luật, phải gương mẫu chấp hành pháp luật.
Người viết: “Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp
hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần
chúng mà mình tham gia” [84, tr.242].
Dùng pháp luật không phải là biện pháp duy nhất; nhưng sẽ là biện
pháp hữu hiệu khi các biện pháp khác chưa phát huy hiệu quả; một cơ sở
quan trọng đề ngăn chặn tình trạng lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên
nhà nước.
3.1.4. Pháp luật đảm bảo quyền con ngƣời
Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, có sự thống nhất biện chứng
giữa quyền của dân tộc và quyền con người. Trong điều kiện dân tộc mất độc
lập, thì quyền con người không có, không được bảo đảm; độc lập dân tộc là
trước hết, trên hết; độc lập dân tộc làm điều kiện, tiền đề cho thực hiện quyền
77
con người. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương
Đảng họp tháng 5/1941khẳng định:
Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,
giai cấp đến vạn năm sau cũng không đòi lại được [24, tr.113].
Hồ Chí Minh hiểu rõ thực tiễn một nước thuộc địa, dân tộc đang mất
độc lập, các quyền dân tộc bị xâm phạm, yêu cầu bức thiết, cần kíp nhất lúc
này là đòi độc lập dân tộc và thực hiện các quyền dân tộc, pháp quyền dân
tộc, điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con người, pháp quyền dân chủ.
Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị
Versailles, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến quyền con người; nhưng mới chỉ là
quyền cơ bản và tối thiểu của con người Việt Nam, mà thiếu nó con người
Việt Nam không còn được sống với tư cách con người. Nhưng không được
chấp nhận, tư duy chính trị của Nguyễn Ái Quốc có sự thay đổi, từ đây,
Người tập trung đấu tranh đòi quyền dân tộc, thực hiện pháp quyền dân tộc
trước, làm điều kiện thực hiện pháp quyền dân chủ. Đến Chánh cương vắn tắt
của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị hợp nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 thông qua, trong đó ưu tiên cho
quyền dân tộc độc lập, cụ thể đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến,
làm cho An Nam hoàn toàn độc lập. Đây là một bước phát triển mới về nhận
thức pháp quyền ở Việt Nam, pháp quyền trở thành mục tiêu của một đảng
chính trị, đảng sau này lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh đòi được và
từng bước thực hiện quyền dân tộc, quyền con người. Đến Tuyên ngôn Độc
lập ngày 2/9/1945, Việt Nam tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với
Pháp, xóa bỏ những hiệp ước mà Pháp đã ký với Việt Nam, xóa bỏ mọi đặc
78
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam; tuyên bố Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập; tuyên bố
nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững nền tự do và độc lập của mình. Như
vậy, với Tuyên ngôn Độc lập quyền của dân tộc Việt Nam đã được thực hiện.
Tuyên ngôn Độc lập là văn bản pháp lý khẳng định quyền sống của dân tộc,
của con người, đó cũng là những khái niệm pháp lý quan trọng trong luật
pháp quốc tế hiện đại. Tuyên ngôn Độc lập, một kiệt tác của lịch sử dân tộc
Việt Nam, một cột mốc trong lịch sử pháp quyền Việt Nam và tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập đóng lại chế độ cai trị không pháp
quyền, trái pháp quyền của chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam; đồng thời mở ra
một thời kỳ mới của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, cho pháp quyền Việt
Nam, đó là, thời kỳ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh hiện thực hóa, bổ
sung, phát triển.
Sau Cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh về quyền con người nhanh chóng trở thành hiện thực. Hồ
Chí Minh với vai trò người đứng đầu Nhà nước đã nhanh chóng ban hành các
văn bản pháp luật ghi nhận và đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Ngày
13/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 31 quy định về thể thức tổ
chức các cuộc biểu tình, qua Sắc lệnh thừa nhận quyền tự do hội họp thông
qua hoạt động biểu tình. Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
33B, quy định về trình tự thủ tục bắt người của Sở Liêm phóng và Sở Cảnh
sát, qua Sắc lệnh thừa nhận quyền tư pháp của cá nhân con người, Sắc lệnh
quy định các cơ quan trên khi bắt một người trong vòng 24 giờ phải lập biên
bản để thả người ngay hoặc chuyển sang tòa án, cả hai trường hợp đều phải
ghi lý do. Quyền là công dân và quyền trở thành công dân nước Việt Nam
DCCH theo Sắc lệnh số 53, ngày 20/10/1945, Sắc lệnh số 73, ngày
07/12/1945. Quyền học tập, học tập là bắt buộc và học tập miễn phí theo các
Sắc lệnh số 20, ngày 08/09/1945, Sắc lệnh số 147, ngày 07/12/1945. Quyền tự
79
do cá nhân, quyền tài sản, quyền sống theo các Sắc lệnh số 17, ngày
28/01/1946, Sắc lệnh số 40, ngày 29/03/1946. Quyền về tự do báo chí và ra
báo theo Sắc lệnh số 41, ngày 22/04/1946. Quyền lập hội và họp hội và họp
hội theo Sắc lệnh số 52, ngày 22/04/1946.
Và một văn bản pháp luật hết sức đặc sắc, thể hiện nhiều khía cạnh của
tư tưởng pháp quyền nhân văn Hồ Chí Minh, Sắc lệnh số 84, ngày 29/05/1946
về triệt để bỏ xe kéo tay, quy định thay thế bằng một xe chở người mà không
do người kéo. Xe kéo tay, một hành ảnh phổ biến tại các đô thị Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hình ảnh đó liên quan đến danh dự,
nhân phẩm con người, thể hiện địa vị, thân phận con người; việc Chủ tịch Hồ
Chí Minh ban hành sắc lệnh bãi bỏ xe kéo tay, một việc tưởng chừng nhỏ,
nhưng thể hiện một tư tưởng lớn, thể hiện bản chất chế độ xã hội mới, thể
hiện tư tưởng pháp quyền đề cao, tôn trọng con người, nhân phẩm con người.
Đặt trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam năm 1946, tình thế cách mạng “ngàn
cân treo sợ tóc”, Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh như vậy, ta càng thấy sáng
ngời tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, pháp quyền vì con người,
lấy con người làm trung tâm.
Hiến pháp năm 1946, một cột mốc đánh dấu bước phát triển mới về
quyền con người ở Việt Nam, quyền con người được hiến định, một sự ghi
nhận và đảm bảo cao nhất về phương diện chính trị - pháp lý. Từ đây, quyền
con người tại Việt Nam được đảm bảo thực hiện, quyền con người trở thành
nghĩa vụ thiêng liêng của cả hệ thống chính trị, mà trực tiếp là của bộ máy
nhà nước. Quyền con người trở thành một đặc trưng của xã hội mới, trở thành
mục tiêu xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.
Cùng với quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh và các cơ quan Nhà nước
ban hành hai bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, các luật, các văn
bản dưới luật tạo thành hệ thống pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền
con người, trở thành cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, thực thi quyền con người
80
ở Việt Nam. Quyền con người là nội dung trung tâm, cốt lõi của tư tưởng
pháp quyền Hồ Chí Minh; điều đó góp phần quan trọng vào thực hiện mục
tiêu suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu làm cho nhân dân Việt Nam sống một
đời sung sướng. Người viết: “XHCN là ai cũng được làm việc, được ăn no
mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được
săn sóc. Nói tóm lại, XHCN là sung sướng ấm no” [83, tr.5]. Đó là đạo lý
thiêng liêng, cao cả của toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng
pháp quyền.
Hệ thống pháp luật, trong đó có Hiến pháp của mỗi quốc gia, chỉ thừa
nhận, bảo vệ các quyền và tự do của công dân nước mình. Đối với người
không phải công dân Việt Nam, họ không được hưởng những quyền và tự do
theo pháp luật Việt Nam, nhưng họ cũng là con người, họ cũng có quyền con
người. Đối với người nước ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật, Chính
phủ, nhân dân Việt Nam sẽ tôn trọng và đảm bảo quyền con người ở mức độ
nhất định. Đối với ngoại kiều là người Pháp, người Hoa, người Âu châu...,
Chính phủ và pháp luật Việt Nam đảm bảo về tài sản và tính mạng. Đối với
tù binh của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân Việt Nam đối xử
nhân đạo, thể hiện dân tộc Việt Nam là dân tộc văn minh. Hồ Chí Minh ra
lệnh: “Phải bảo vệ sinh mệnh và tài sản các ngoại kiều, và đối đãi tử tế với
tù binh” [75, tr.537].
Tính nhân văn, nhân nghĩa, tôn trọng công lý, đạo làm người trở thành
một đặc trưng trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
3.1.5. Công pháp quốc tế là cơ sở thực hiện quyền dân tộc
Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đang thống trị trên phạm vi thế giới,
xuất phát từ thân phận của người dân thuộc địa, quan hệ bất bình đẳng giữa
quốc gia chính quốc và thuộc địa, Hồ Chí Minh tập trung vào chủ thể trong
quan hệ quốc tế là quốc gia. Hồ Chí Minh quan tâm đấu tranh giành độc lập
81
cho các dân tộc thuộc địa, thực hiện các quyền dân tộc, đấu tranh cho sự bình
đẳng dân tộc, cho nền hòa bình của nhân loại.
Hồ Chí Minh khẳng định các quyền tự nhiên vốn có của dân tộc là
quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Hồ Chí
Minh đã tán thành và ca ngợi các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế được nêu
trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Xan Phranxixco. Hồ Chí
Minh viết:
Bản Hiến chương Đại Tây Dương đã được ký kết, xác định mục
tiêu chiến tranh của các nước Đồng minh và đặt nền tảng cho sự
nghiệp hòa bình. Những nguyên tắc cao quý của sự công bằng và
bình đẳng quốc tế về địa vị được nêu lên trong bản Hiến chương
này đã lôi cuốn mạnh mẽ dân Việt Nam, và góp phần làm cho
cuộc kháng chiến của Việt Minh ở các vùng có chiến tranh thành
một phong trào kháng Nhật rộng khắp quốc gia, có tiếng vang
mạnh mẽ trong những khát vọng về dân chủ của dân chúng. Hiến
chương Đại Tây Dương được xem như nền tảng của nước Việt
Nam trong tương lai [75, tr.81].
Đó là những căn cứ pháp lý quốc tế quan trọng để các dân tộc thuộc địa
đấu tranh đòi quyền dân tộc, trong đó có quyền tự quyết, quyền bình đẳng
trong quan hệ quốc tế. Hồ Chí Minh lên án, tố cáo sự xâm lược, thống trị của
chủ nghĩa đế quốc xâm phạm quyền dân tộc, quyền con người ở các dân tộc
thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Thế mà hơn 80 năm
nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất
nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa” [75, tr.1].
Đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định có quyền được
hưởng độc lập tự do và sự thực đã trở thành một nước tự do độc lập; tuyên bố
82
xóa bỏ mọi hiệp ước và quan hệ bất bình đẳng với Pháp; cũng như quyết tâm
bảo vệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_phap_quyen_ho_chi_minh.pdf