MỞ ĐẦU.1
CHưƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN
ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến bối cảnh xã hội và tiền đề tư
tưởng cho sự hình thành tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn.6
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng của Tôn Trung Sơn
nói chung và tư tưởng triết học của ông nói riêng.12
1.3. Những công trình nghiên cứu, đánh giá về giá trị, ý nghĩa tư tưởng của Tôn
Trung Sơn và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.24
1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và
những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.33
CHưƠNG 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH Tư TưỞNG TRIẾT HỌC CỦA
TÔN TRUNG SƠN.35
2.1. Bối cảnh xã hội Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX .35
2.2. Nguồn gốc lý luận cho sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học của
Tôn Trung Sơn.42
2.3. Con người và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn.53
CHưƠNG 3. Tư TưỞNG TRIẾT HỌC CỦA TÔN TRUNG SƠN .62
3.1. Tư tưởng triết học tự nhiên của Tôn Trung Sơn trong Tiến hóa luận.62
3.2. Nhận thức luận của Tôn Trung Sơn qua thuyết “Tri nan hành dị” .72
3.3. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn trong Chủ nghĩa
Tam dân.83
CHưƠNG 4. GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA Tư TưỞNG TRIẾT HỌC CỦA
TÔN TRUNG SƠN. 108
4.1. Giá trị, ý nghĩa trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận . 108
4.2. Giá trị và ý nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối với thực tiễn
cách mạng Trung Quốc thời kỳ Cận đại .118
4.3. Một số hạn chế của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn. 124
KẾT LUẬN. 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 150
164 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp viện, Lập pháp viện.
73
3.2.1. “Hành tiên tri hậu” (Làm trước biết sau)
Nội dung đầu tiên trong thuyết “tri nan hành dị” là “làm trước biết sau”
(hành tiên tri hậu). Đây là đặc điểm cơ bản trong nhận thức luận duy vật của
Tôn Trung Sơn, cũng là nền tảng cho học thuyết “tri nan hành dị” của ông. Tôn
Trung Sơn đã dẫn ra một loạt những sự kiện lịch s , các hoạt động thực tế của
cuộc đấu tranh giai cấp và lịch s tiến bộ văn minh của nhân loại để luận chứng
cho quá trình nhận thức của con người là “làm trước biết sau”. Trong tác phẩm
“Học thuyết Tôn Văn” Tôn Trung Sơn đã đưa ra 10 việc để chứng minh đó là:
ăn uống, tiêu tiền, sáng tác thơ văn, xây nhà, chế tạo thuyền bè, xây dựng đô
thị, đào sông hồ, điện học, hoá học, tiến hoá. Ví dụ như đối với vấn đề ăn uống,
đầu tiên ông trình bày một cách tỉ mỉ quá trình cấu tạo cơ thể con người và cơ
thể hấp thu thức ăn dinh dưỡng, tiếp đó ông chỉ ra rằng mặc dù nghề nấu ăn của
Trung Quốc đứng vào bậc nhất thế giới, đồng thời tập quán ăn uống có những
sự phù hợp với khoa học, nhưng nhận thức về nguyên lý khoa học thì lại không
rõ, nói cách khác, việc ăn uống thì mọi người đều có thể dễ dàng làm được
nhưng suốt đời không biết được ý nghĩa của nó, nguyên lý của nó, phương
pháp của nó. Có thể thấy, ví dụ trên là vấn đề rất dễ có thể làm được trong sinh
hoạt hàng ngày của con người, nhưng lại rất khó có thể nắm bắt và hiểu rõ quy
luật của nó [Xem: 53, tr.22]. Ví dụ này cho chúng ta thấy một điều là: “không
biết vẫn có thể làm”, tức là lấy “làm trước biết sau” để luận chứng cho “biết
khó làm dễ”. Có thể nói, “làm trước biết sau” là nội dung cơ bản, hạt nhân hợp
lý của “biết khó làm dễ”. Việc khẳng định “hành” có trước, “tri” có sau; “hành”
là nền tảng, nguồn gốc của “tri” đã nói rõ khuynh hướng chủ nghĩa duy vật của
thuyết tri hành Tôn Trung Sơn.
Tư tưởng “hành trước tri sau” của Tôn Trung Sơn có mối quan hệ qua lại
hữu cơ với những lý giải mang tính chất duy vật về mối quan hệ giữa sự thực
và ngôn luận, giữa khách quan và chủ quan. Tôn Trung Sơn cho rằng: “Theo
74
nguyên lý trong vũ trụ đều là sự thực có trước rồi mới nảy sinh ngôn luận, chứ
không phải ngôn luận có trước rồi mới nẩy sinh sự thực” (Chủ ng ĩ dân
quyền, Bài 1) [Dẫn theo: 53, tr.43]. Điều này đã khẳng định tri thức, ngôn luận
được quy định bởi tồn tại khách quan, sự thực khách quan là tính thứ nhất và có
trước, nhận thức chủ quan chỉ là cái có sau và phản ánh đối với thế giới khách
quan, sự vật khách quan sẽ không ngừng được con người nhận thức, từ đó dẫn
đến tri thức của nhân loại cũng sẽ ngày càng nhiều, nhận thức đối với vạn vật
trong vũ trụ cũng ngày càng sâu sắc hơn. Theo ông, nếu không có “hành” thì sẽ
không thể có được bất kỳ tri thức nào. Những tư tưởng đúng đắn của con
người, những lý luận của khoa học và những nguyên lý, quy luật của cách
mạng không phải từ trên trời rơi xuống, cũng không phải xuất hiện trong đầu
của con người mà nó được nảy sinh trong quá trình con người tiếp xúc với thế
giới bên ngoài.
Thông qua việc phân tích và chứng minh đối với 10 sự kiện vừa được
nói đến ở trên, Tôn Trung Sơn đã đưa ra quan điểm “hành trước tri sau”, làm
sáng tỏ tri thức của nhân loại được hình thành trên cơ sở của “hành”, chỉ có
thông qua “hành” mới có thể có được “tri”. Tôn Trung Sơn không những nhấn
mạnh rằng những nhận thức của nhân loại cần phải trải qua quá trình “hành”
trong một thời gian dài, mà quan trọng hơn đó là ông đã đưa vấn đề thực
nghiệm của khoa học vào trong nhận thức luận, cho rằng những tri thức mà
chúng ta có được cần phải được thông qua quá trình “thí nghiệm” sau đó mới
có thể có được, “nhờ vào thí nghiệm mới có được tri thức”. Năm 1924, trong
bài giảng về chủ đề “Chủ nghĩa tam dân” Tôn Trung Sơn đã xoá bỏ quan niệm
tri hành truyền thống thời Cổ đại, đồng thời đưa ra một cặp phạm trù đó là “sự
thực” và “ngôn luận”, ông cho rằng “sự thực có trước, ngôn luận có sau”, xem
đó là “quy luật trong vũ trụ” để tiến thêm một bước trong việc làm sáng tỏ tư
tưởng “hành trước tri sau”. Tôn Trung Sơn cho rằng, con người nhận thức thế
75
giới khách quan không thể chỉ dựa vào những tri thức trong sách vở, cũng
không thể xuất phát từ “học lý” mà cần phải dựa vào sự quan sát và thí nghiệm
đối với vạn vật, các tri thức chỉ đơn giản là sự ghi chép lại những kết quả của
quá trình con người khảo sát sự vật. Việc hình thành nên bất kỳ lý luận hay học
thuyết nào cũng đều xuất phát bởi 2 loại phương pháp sau: “một loại là dùng
quan sát, tức là khoa học; một loại là dùng phán đoán, tức là triết học”. Đối với
những vấn đề xã hội, Tôn Trung Sơn cũng cho rằng “nhất định phải dựa vào sự
thực, phải dùng phương pháp của khoa học” [32, tr.363], xuất phát từ hai
phương diện là hiện thực và lịch s để tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Tôn
Trung Sơn còn cho rằng, lý luận quân sự cũng xuất phát từ “sự thực” (thực
tiễn) tức là thực tiễn cuộc chiến tranh. Ông đặc biệt nhấn mạnh, chỉ khi nào
trực tiếp tham gia đấu tranh cách mạng, thì khi đó mới có thể hiểu được quy
luật và nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại của cách mạng.
Tóm lại, theo Tôn Trung Sơn, bất kỳ tri thức nào của con người, bất luận
là tri thức về tự nhiên hay tri thức về xã hội đều có nguồn gốc từ “hành”, đều là
sự phản ánh thực tiễn, khi nhận thức về sự vật và giải quyết bất kỳ vấn đề nào
thì nhất định phải dựa vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm căn cứ, không nên đơn
thuần chỉ dựa vào sách vở hay những nguyên lý trong khoa học [Xem: 32,
tr.363]. Điều này cho thấy, theo Tôn Trung Sơn, nguyên tắc quan trọng nhất là
xuất phát từ thực tiễn, là thái độ thực sự cầu thị và tinh thần sáng tạo. Điều
đáng chú ý, Tôn Trung Sơn hoàn toàn không phải là người sùng bái học thuyết
Mác, nhưng ông lại đồng tình với “phương pháp khoa học” của Mác khi cho
rằng phải xuất phát từ thực tiễn xã hội để nghiên cứu các vấn đề của xã hội.
3.2.2. “Bất tri diệc năng hành” (Không biết vẫn có thể làm)
Sau khi tiến hành khảo sát lịch s tiến trình nhận thức và lịch s tiến hóa
của nhân loại, Tôn Trung Sơn đã chỉ ra: “Một là, từ thời kỳ mông muội tiến lên
văn minh là thời kỳ làm mà không biết; hai là, từ thời kỳ văn minh lại tiến lên
76
văn minh hơn, là thời kỳ làm rồi mới biết; ba là, từ thời kỳ khoa học phát triển
trở về sau, là thời kỳ biết rồi mới làm” [Dẫn theo: 53, tr.23]. Hai thời kỳ trước
lại được gộp lại thành một giai đoạn lớn và gọi đó là giai đoạn “làm trước biết
sau”; giai đoạn sau được gọi là giai đoạn “biết trước làm sau”. Về nguồn gốc
của tri thức nhân loại và quá trình phát triển của nhận thức, Tôn Trung Sơn cho
rằng, văn minh tri thức của nhân loại không phải là từ trên trời rơi xuống, cũng
không phải là đã vốn có trong đầu mỗi con người, mà đó là sản phẩn của quá
trình tiến hoá lịch s , từ “làm mà không biết” đến “làm trước biết sau”, và từ
“làm trước biết sau” đến “biết trước làm sau”. Việc nghiên cứu lịch s quá
trình tiến hoá của nhân loại đã khẳng định một cách rõ ràng “hành” có trước,
“tri” có sau, “tri” được nảy sinh trong quá trình “hành”. Về vấn đề quá trình
phát triển nhận thức của con người, trên thực tế Tôn Trung Sơn đã trình bày
theo công thức như sau: hành-tri-hành, hoặc như ông nói: “lấy việc làm mà tìm
biết, rồi do biết để tiến lên làm”.
Tôn Trung Sơn cho rằng động lực của tiến bộ văn minh nhân loại là
xuất phát từ chỗ thực hành. Ông nói: “Lý do người xưa tiến bộ rất nhiều là
ở chỗ đã thực hành, đã thực hành thì có thể biết, đạt đến chỗ biết rồi tức là
đã tiến bộ” [Dẫn theo: 53, tr.46], có thể làm thì nhất định có thể biết, không
làm thì không thể biết được. Điều đó cho thấy Tôn Trung Sơn rất đề cao
tác dụng của “hành”, xem “hành” như là động lực thúc đẩy văn minh nhân
loại tiến bộ, đồng thời cũng xem nó như là cơ sở để có được “tri”. Ông cho
rằng, “hành” không chỉ là nguồn gốc của “tri” mà còn là nền tảng của các
phát minh khoa học và sự giàu mạnh của quốc gia, mọi tiến bộ của nhân
loại đều bắt đầu từ “hành”. Ông nói: “Sự tiến bộ của loài người đều phát
triển từ chỗ làm mà không biết. Đó là quy luật tự nhiên, tức là không thay
đổi theo sự phát minh khoa học. Cho nên sự tiến hóa của loài người theo
con đường tất yếu là làm mà không biết” [23, tr.130].
77
Điều đáng chú ý ở đây là Tôn Trung Sơn tuy xem “làm mà không biết”
như là giai đoạn thứ nhất của quá trình tiến hóa văn minh nhân loại nhưng hoàn
toàn không giới hạn ở giai đoạn này. Ông cho rằng, “hành trước tri sau”, “dùng
hành để đạt được tri” là nguyên tắc phổ thông của quá trình nhận thức của nhân
loại. Quá trình phát triển của nhận thức từ chỗ chưa biết đến biết của nhân loại
là một quá trình không có giới hạn, dù cho ở bất kỳ thời điểm nào (dù cho là
trước khi khoa học phát triển hay là sau khi khoa học đã phát triển) thì “hành”
vẫn là con đường tất yếu để đi tìm tri thức, “làm mà không biết” là khởi điểm
để có được tri thức.
Tôn Trung Sơn cho rằng, sự quá độ từ “làm mà không biết” đến “làm
trước biết sau” là tự nhiên, đây chính là quá trình “vì hành mà có được tri”, hay
gọi là “hành từ chỗ chưa có tri đến có tri”. Điều này cũng có nghĩa rằng, giải
quyết mâu thuẫn giữa không biết và biết, then chốt của vấn đề từ không biết
chuyển hoá thành biết đó chính là “hành”, chỉ có xuất phát từ chỗ “làm mà
không biết” mới có thể “biết”. Tôn Trung Sơn lấy bốn ví dụ: sự tập luyện của
học sinh, sự thí nghiệm của các nhà khoa học, sự tìm tòi của nhà nghiên cứu, sự
mạo hiểm của người anh hùng hào kiệt để làm sáng tỏ tác dụng quan trọng của
“làm mà không biết” trong quá trình nhận thức. Về vấn đề nguồn gốc của tri
thức Tôn Trung Sơn không chỉ nhận thức được “sự thực có trước, ngôn luận có
sau”, nhận thức chủ quan và ngôn luận là sự phản ánh sự thực khách quan, mà
còn nhận thức được chủ thể thông qua “hành” tức là thông qua vai trò của
chính bản thân mình trong các hoạt động khách thể để phản ánh khách thể. Có
nghĩa “hành” là một “cây cầu” gắn kết chủ thể với khách thể. Không có cây cầu
này, khách thể sẽ không được phản ánh trong chủ thể, “không biết” sẽ không
thể chuyển hoá thành “biết” được.
Tôn Trung Sơn nhiều lần nói rằng con người muốn nhận thức một cách
đúng đắn đối với thế giới khách quan thì tất yếu phải thông qua quan sát và thí
78
nghiệm khoa học; hơn nữa muốn có được tri thức trên phương diện lịch s xã
hội thì tất yếu phải thông qua đấu tranh cách mạng và các hoạt động chính trị
xã hội khác. Quan sát và thí nghiệm khoa học, thực tiễn cách mạng của giai cấp
tư sản chính là nội dung quan trọng của “hành” mà ông nói đến, và đây cũng là
phương pháp để có được tri thức.
Tôn Trung Sơn cho rằng, tuy rằng “hành” rất dễ nhưng nếu không có ý
chí, nỗ lực khi “hành” thì dù có dễ như thế nào cũng không thể “hành” được,
do đó nhất định phải dũng cảm “hành”, kiên trì “hành”. Tôn Trung Sơn ra sức
chứng minh vấn đề “hành dị”, đồng thời ông lại nhấn mạnh “hành” là “động cơ
của văn minh”, là con đường tất yếu để đi tìm “tri”. Mục đích của ông là muốn
tạo nên trạng thái tinh thần có sức phấn đấu mạnh mẽ, tích cực, dũng cảm thực
hành cho những đảng viên cách mạng và nhân dân Trung Quốc, khiến cho họ
nhận thức được rằng chỉ có thông qua quá trình cùng nhau phấn đấu (hành) để
thay đổi diện mạo lạc hậu của Trung Quốc, đây không chỉ là việc tất yếu mà
còn là việc có khả năng thực hiện được.
Tôn Trung Sơn còn cho rằng, bất kỳ nguyên lý hay lý luận nào cũng đều
cần phải thông qua “hành” mới có thể biết được nó là đúng hay sai. Ông nói:
“Vì nguyên lý cũng có cái đúng cái sai nên cần phải thông qua thí nghiệm mới
biết được nó là đúng hay là sai. Giống như một nguyên lý phát minh trong khoa
học, rốt cuộc là đúng hay là sai nhất định phải biến nó thành sự thật, từ đó mới
có thể thực hành, và mới có thể nói nó là nguyên lý đúng đắn”. Điều này chứng
tỏ rằng, Tôn Trung Sơn đã bước đầu nhận thức được “hành” là tiêu chuẩn kiểm
nghiệm chân lý, “hành” là mục đích của nhận thức. Quan điểm này của ông
khá tương đồng với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khi xem thực
tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý.
79
3.2.3. “Năng tri tất năng hành” (Có thể biết nhất định có thể làm)
Cùng với việc làm sáng tỏ tính chất quan trọng của “hành”, Tôn Trung
Sơn cũng đặc biệt nhấn mạnh đến tác dụng năng động của “tri”, coi “tri” có tác
dụng chỉ đạo đối với “hành”. Ông phản đối khuynh hướng sai lầm khi “coi
trọng thực hành mà xem nhẹ lý tưởng”, đồng thời cổ vũ người đảng viên cách
mạng nỗ lực tìm tòi lý luận cách mạng và tri thức khoa học, dưới sự lãnh đạo
của lý luận cách mạng đúng đắn để xây dựng nước cộng hoà giai cấp tư sản. Có
thể nói, Tôn Trung Sơn ở một trình độ nhất định đã tiếp cận được phép biện
chứng khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa “tri” và “hành, chỉ ra rằng nhận
thức của nhân loại không ngừng tiến về phía trước trong quá trình “lấy hành để
cầu tri, vì tri mà thực hiện hành”, “hành từ không có tri đến có tri”, “vì đã có tri
nên càng cần phải thực hiện hành”.
“Có thể biết thì nhất định có thể làm” là một mệnh đề căn bản trong học
thuyết “tri nan hành dị” của Tôn Trung Sơn. Chúng ta có thể xuất phát trên hai
phương diện để lý giải mệnh đề này của ông: một mặt, “tri” rất khó, “sau khi có
được „tri‟ về vạn vật trong vũ trụ thì việc “hành” là rất dễ, vô cùng đơn giản.
“Hành dị” ở đây có nghĩa là “biết trước làm sau” hoặc là “hành sau khi đã có tri
thì rất dễ”; mặt khác, “có được tri rồi thì tất yếu có thể hành, việc có tri càng
làm cho hành dễ dàng hơn”, có “tri” hay “không có tri” là vấn đề mấu chốt của
việc “hành” hay “không hành”. Tôn Trung Sơn đã dùng những kinh nghiệm
của chính bản thân mình trong quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng để làm
sáng tỏ đạo lý này. Ông cho rằng, vấn đề thành công hay thất bại của sự nghiệp
cách mạng có mối quan hệ mật thiết với những người đảng viên cách mạng và
trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân. Theo ông, kế hoạch xây dựng nhà
nước dân chủ tư sản của ông sở dĩ gặp thất bại hoàn toàn không phải là do “lý
tưởng quá cao” ấy khó thực hiện được mà là do những người đảng viên có
“nhận thức quá thấp”. Nói cách khác, Tôn Trung Sơn cho rằng các đảng viên
80
cách mạng và quần chúng nhân dân chưa nhận thức được lý tưởng của cách
mạng và cho rằng những lý tưởng đó là cao siêu không thể thực hiện được
[Xem: 23, tr.120].
Tôn Trung Sơn ra sức nhấn mạnh tác dụng quan trọng của “tri”, đặc biệt
là trong thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học, khi mà theo ông nhân loại
bước vào thời kỳ thứ 3 đó là thời kỳ biết trước làm sau, mọi sự tiến bộ văn
minh đều không thể tách khỏi sự dẫn dắt của các tri thức khoa học. Ông cho
rằng, tri thức khoa học tự nhiên có tác dụng rất quan trọng và không thể thiếu
đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia và sự tiến bộ của văn minh nhân
loại. Ông khẳng định rằng, nếu xa rời những tri thức khoa học thì văn minh
nhân loại sẽ không thể tiến bộ được, từ đó cho thấy ông đã khẳng định và đánh
giá cao tác dụng chỉ đạo của “tri” đối với “hành”.
Theo lý luận của mình, Tôn Trung Sơn rất đề cao tác dụng chỉ đạo của lý
luận cách mạng đối với thực tiễn cách mạng. Ông cho rằng, “tri thức của cách
mạng” là vũ khí tư tưởng của cách mạng, “nền tảng của cách mạng nằm ở chỗ
học vấn uyên thâm”, muốn cho cách mạng của Trung Quốc giành được thắng
lợi thì tất yếu phải có sự chỉ đạo của lý luận cách mạng đúng đắn, đồng thời
phải tiến hành từng bước và có kế hoạch. Tôn Trung Sơn còn nhận thức được
rằng, phương lược cách mạng của ông nếu được đại đa số mọi người hiểu và
tiếp nhận thì mới có khả năng thực hiện được, do đó ông rất coi trọng công tác
tuyên truyền giáo dục của cách mạng. Ông cho rằng, trước hết cần phải giúp
đảng viên cách mạng hiểu rõ lý tưởng, kế hoạch và sách lược của cách mạng,
tạo dựng niềm tin đúng đắn đối với “chủ nghĩa” cách mạng, sau đó thông qua
đảng cách mạng để tuyên truyền giáo dục quảng đại quần chúng nhân dân.
Theo ông, cách mạng muốn giành được thành công thì chủ yếu phải dựa vào
tuyên truyền mà không phải là dựa vào vũ lực. Chỉ có giúp cho quần chúng
nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của cách mạng là gì thì mới khiến họ toàn
81
tâm toàn ý mà phấn đấu, thậm chí tự nguyện hy sinh cả tính mạng của mình.
Tôn Trung Sơn chú trọng tuyên truyền chính là vì tin tưởng rằng “có thể biết
thì nhất định có thể làm”, tin tưởng rằng nếu quần chúng nhân dân hiểu và nắm
bắt được đạo lý của cách mạng thì những hành động cách mạng của họ sẽ
mang tính tự giác.
Có niềm tin kiên định đối với sự phát triển vô hạn của nhận thức nhân
loại, tôn trọng sự phát triển của hiện thực khách quan, dũng cảm thừa nhận
sự vật mới nảy sinh, luôn luôn căn cứ vào sự vật mới và kinh nghiệm mới để
củng cố, điều chỉnh nhằm phát triển nhận thức của chính mình, giúp cho tiến
bộ không ngừng trên phương diện tư tưởng chính trị, v.v.. có thể nói, đây là
một đặc điểm quan trọng trong nhận thức luận của Tôn Trung Sơn. Tôn
Trung Sơn còn cho rằng, trong sinh hoạt xã hội, con người càng ngày càng
gặp phải nhiều sự vật mới, vấn đề mới, tình hình mới và tính chất của chúng
rất phức tạp, do đó nhận thức của con người cũng không thể dậm chân tại
chỗ được mà nó sẽ phát triển và biến hoá cùng với các sự vật mới, không
ngừng thay đổi quan niệm cũ đã lỗi thời, thích ứng với tình hình mới, phát
triển nhận thức của chính mình.
3.2.4. “Tri hành phân nhiệm” (sự phân công giữa biết và làm)
Mặc dù Tôn Trung Sơn đã đưa ra những luận giải mang tính biện chứng
về mối quan hệ giữa “tri” và “hành”, nhưng bên cạnh đó, ông lại đưa ra quan
điểm “tri hành phân nhiệm”, tức là cần phải có sự phân công giữa biết và làm.
Chúng ta thấy rằng những lý giải của Tôn Trung Sơn về mối quan hệ
giữa “tri” và “hành” có phần còn hạn hẹp và ít nhiều mang tính chất phiến diện.
Việc Tôn Trung Sơn phân chia lịch s tiến hóa của văn minh nhân loại thành 3
thời kỳ là: Làm mà không biết, làm trước biết sau, biết trước làm sau là không
khoa học và có tính chất máy móc, biểu hiện khuynh hướng sai lầm là chia rẽ
sự thống nhất biện chứng giữa “tri” và “hành”. Trong giai đoạn thứ nhất là thời
82
kỳ “làm mà không biết”, ông hoàn toàn phủ nhận tác dụng năng động của “tri”,
thậm chí gọi các hoạt động bản năng duy trì sự tồn tại của con người và động
vật là “hành”. Trong lịch s văn minh nhân loại, cơ bản không thể vẽ ra một
thời kỳ “làm mà không biết” thuần tuý chỉ có “hành” và không có “tri”. Giống
như trên, thời kỳ “biết trước làm sau” cũng không tồn tại. Tôn Trung Sơn trong
quá trình phân tích 3 giai đoạn này cũng tách rời sự thống nhất biện chứng giữa
“tri” và “hành”. Ông không xuất phát từ góc độ chính diện để trả lời cho câu
hỏi “tri” của thời kỳ này được nảy sinh từ đâu, tách khỏi “hành” khi nói về
“tri”, đã xa rời đường lối nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Ông khuếch đại một
cách quá đáng uy lực các tri thức khoa học, cho rằng chỉ cần dựa vào các tri
thức khoa học để làm thì nhất định sẽ thành công. “Tri” ở đây được tuyên bố là
những chân lý tuyệt đối, do vậy sẽ không có vấn đề là cần dùng “hành” tức là
thực tiễn để kiểm nghiệm chân lý và phát triển chân lý.
Có thể thấy rằng, ở mệnh đề này, Tôn Trung Sơn đã tách biệt “tri” với
“hành”, điều này mâu thuẫn với quan điểm “lấy việc làm mà tìm biết, rồi do
biết để tiến lên làm” do chính ông đưa ra. Ông đã cường điệu thái quá vai trò
của những cá nhân đặc biệt, gọi họ là “nhà phát minh”, “tiên tri tiên giác”;
đồng thời coi quần chúng nhân dân là những “người thực hành”, “bất tri bất
giác”, ông chưa nhận thức được chính thực tiễn xã hội của quần chúng nhân
dân mới là cái nguồn của tri thức chân chính, lấy mãi không hết, dùng mãi
không cạn. Do đó, ông cho rằng, “tri” và “hành” phải có sự phân định rõ ràng –
“người biết bất tất phải tự làm, người làm bất phải tự biết” (người biết thì
không cần phải tự làm, người làm thì không cần phải tự biết). Như thế đã tách
rời giữa “tri” và “hành”, cứ đó suy luận thêm sẽ có thể rút ra kết luận sai lầm
rằng “tri” có thể tách khỏi “hành” mà tồn tại độc lập [Xem: 53, tr.50].
83
3.3. Tƣ tƣởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn trong
Chủ nghĩa Tam dân
3.3.1. Tư tưởng dân chủ
Tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn được nhiều nhà nghiên cứu đánh
giá là một trong những tư tưởng quan trọng nhất trong hệ thống tư tưởng cách
mạng của ông. Tư tưởng này được hình thành trên cơ sở kế thừa, phát huy tư
tưởng “dân là gốc” (dân vi bản) của Nho giáo trong lịch s văn hóa truyền
thống Trung Quốc và các mô hình dân chủ ở các nước Âu Mỹ, đồng thời kết
hợp với tình hình cụ thể của Trung Quốc. Tư tưởng này đã dần dần được bổ
sung và hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn, do
đó, nó hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc như: Tư tưởng về quyền làm chủ của
nhân dân, lý luận về trình tự thực hiện cách mạng, hiến pháp ngũ quyền và
quyền năng phân trị. Có thể nói, tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn đã trở
thành kim chỉ nam lý luận trong giai đoạn Trung Quốc tiến hành cách mạng
dân chủ. Cho đến nay, tư tưởng này vẫn còn ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình xây dựng dân chủ của Trung Quốc hiện nay.
Tôn Trung Sơn là người đi đầu trong việc thực hiện cách mạng dân chủ
ở Trung Quốc. Ông không chỉ là lãnh tụ cách mạnh mà còn được được xem là
nhà tư tưởng dân chủ. Tư tưởng dân chủ của ông là nền tảng để Trung Quốc
thời kỳ cận đại xây dựng Nhà nước dân chủ cộng hòa và thực hiện nền chính trị
dân chủ. Đồng thời, tư tưởng này cũng có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đối với
việc phát triển văn hóa tư tưởng và tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc giai
đoạn Cận đại. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn,
khai thác một cách đầy đủ những nội dung cơ bản và giá trị của tư tưởng này là
một việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Bởi lẽ, việc nghiên
cứu tư tưởng của Tôn Trung Sơn nói chung, tư tưởng dân chủ nói riêng, sẽ giúp
chúng ta hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn lịch s tư tưởng cách mạng Trung Quốc,
84
thực tiễn cách mạng Trung Quốc giai đoạn Cận đại. Xa hơn nữa, việc nghiên
cứu này còn giúp chúng ta hiểu được lịch s tư tưởng dân chủ giai đoạn Cận
đại ở Trung Quốc, qua đó có thể nhận thức đầy đủ hơn đối với phương châm
xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa của Tôn Trung Sơn, cũng như việc xây
dựng nền dân chủ của ông. Cụ thể, có thể tìm hiểu tư tưởng dân chủ của Tôn
Trung Sơn qua một số nội dung cơ bản sau đây:
3.3.1.1. ư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân
Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn. Theo ông, quyền làm chủ của nhân
dân hay nhân dân làm chủ là chỉ tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Tôn Trung Sơn nhiều lần
nhấn mạnh, nên lấy nhân dân làm chủ thể của quốc gia, tức nhân dân là chủ
nhân của quốc gia, các quan lại chỉ là nô bộc của nhân dân. Xuất phát từ tư
tưởng này, Tôn Trung Sơn đã đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân lật đổ
chế độ phong kiến chuyên chế, đấu tranh đòi dân chủ và tự do cho tất cả quần
chúng nhân dân, nhằm xây dựng một chế độ mà ở đó nhân dân có thể làm chủ -
chế độ dân chủ cộng hòa.
Để cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân, Tôn Trung Sơn đã đưa ra
phương pháp “dân quyền trực tiếp”. Dân quyền trực tiếp chính là chỉ nhân dân
trực tiếp quản lý chính phủ, quản lý nhà nước thông qua 4 quyền là bầu c , bãi
miễn, sáng chế và phúc quyết. Theo ông, “nếu nhân dân có 4 quyền này thì mới
được xem là có dân quyền một cách đầy đủ và nếu có thể thực hiện được 4
quyền này trong thực tiễn thì mới được tính là đã thực hiện dân quyền trực tiếp
một cách triệt để” [32, tr.350]. Quyền bầu cử là chỉ nhân dân có quyền bầu c
và được ứng c vào các vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước. Khi
Tôn Trung Sơn đưa ra quyền này, hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới đều
thực hiện quyền này. Tuy nhiên, trong bối cảnh Trung Quốc lúc đó, để có thể
85
thực hiện được quyền này là điều không hề đơn giản. Quyền bãi miễn là chỉ
nhân dân có quyền trong việc thay đổi hay cách chức đối với những quan chức
chính phủ không còn đủ năng lực và không còn đại diện cho lợi ích của toàn
thể nhân dân. Quyền sáng chế chủ yếu là chỉ quyền sáng chế ra pháp luật, ở
đây, công dân sẽ căn cứ vào pháp lệnh đã được sáng chế và phản ánh ý chí
nguyện vọng của nhân dân để buộc chính phủ phải thi hành. Quyền phúc quyết
là chỉ nhân dân có quyền phủ định những pháp lệnh, chính sách gây bất lợi cho
lợi ích của toàn thể nhân dân. Như vậy, một mặt, nhân dân có quyền đưa ra
những pháp lệnh có lợi cho mình, mặt khác, nhân dân cũng có quyền xóa bỏ
hoặc s a đổi những luật lệnh không có lợi đối với mình. Như đã nói ở trên, với
Tôn Trung Sơn một nền chính trị mà ở đó nhân dân đều có thể thực hiện được
4 loại dân quyền này thì mới được gọi là nền chính trị toàn dân [32, tr.350], hay
còn gọi là nền dân chủ triệt để. Thông qua nền chín
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_triet_hoc_cua_ton_trung_son_va_y_nghia_cua.pdf