DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH SÁCH PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TUYÊN TRUYỀN HÌNH ẢNH VIỆT NAM RA THẾ GIỚI QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN HÌNH ẢNH VIỆT NAM RA THẾ GIỚI QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI 40
1.1. Lý luận về tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới 40
1.2. Báo chí đối ngoại - một phương tiện tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới 59
1.3. Các yếu tố cấu thành tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo chí đối ngoại 67
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TUYÊN TRUYỀN HÌNH ẢNH VIỆT NAM RA THẾ GIỚI QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 83
2.1. Khái quát các cơ quan báo chí trong phạm vi khảo sát 83
2.2. Những ưu điểm trong tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo chí đối ngoại và nguyên nhân 88
2.3. Những hạn chế trong tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo chí đối ngoại và nguyên nhân 132
CHƯƠNG 3: DỰ BÁO, QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN HÌNH ẢNH VIỆT NAM RA THẾ GIỚI QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI 146
3.1. Dự báo xu thế phát triển của những yếu tố tác động đến báo chí đối ngoại trong tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới 146
3.2. Một số quan điểm cơ bản 152
3.3. Một số giải pháp chủ yếu 156
3.4. Một số kiến nghị 175
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 185
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 197
PHỤ LỤC
329 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo chí đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lan Kaśka và Michał cho biết, họ đều gặp những người Việt Nam thân thiện ở mọi nơi, mọi lúc bất kể trong quán bar, hay hàng quán ven đường. Trong chuyến đi Hội An vào dịp Tết Nguyên đán của họ, gia đình chủ homestay rất thân thiện và tình cảm khi mời họ ăn cơm Tết với nhiều món ăn truyền thống Việt Nam đa dạng [73].
Thứ tư, công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam của báo chí đối ngoại đã làm tăng thêm nhận thức, thái độ và hành vi yêu mến, giúp đỡ Việt Nam của các nhóm công chúng.
Đối với nhóm công chúng là chính phủ, các đảng phái, các tổ chức quốc tế, các nhà báo, nhà khoa học, văn nghệ sĩ và nhân dân các nước trên thế giới, các cơ quan báo chí đối ngoại đã góp phần thuyết phục được họ tin vào Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Các hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam với các nước vẫn diễn ra sôi động, những người có thiện chí với ta vẫn tiếp tục có những hành động thiết thực để ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam. Mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ngày càng được củng cố và tăng cường. Khu vực Đông Nam Á vẫn giữ được môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển, vị thế của Việt Nam được giữ vững và tiếp tục nâng cao trên trường quốc tế.
Đối với nhóm công chúng là những người nước ngoài sinh sống, làm việc, học tập, du lịch, nhân viên các đại sứ quán, phóng viên báo chí nước ngoài tại Việt Nam, báo chí đối ngoại góp phần cung cấp thông tin, giúp họ hiểu sâu sắc hơn về đất nước, con người Việt Nam, thâm nhập thực tế và có những trải nghiệm thú vị trên lãnh thổ Việt Nam. Những bản tin, chương trình tiếng Anh và các ngoại ngữ khác trên VTV4, Vietnam Plus đã giúp người nước ngoài cập nhật thông tin Việt Nam, từ đó có những kế hoạch hoạt động và tham quan hợp lý trong thời gian sinh sống ở Việt Nam. Báo VET thực sự hữu ích đối với các nhà đầu tư. Thông qua báo chí nói chung, VET nói riêng, nhiều doanh nhân nước ngoài hiểu rõ những điều kiện thuận lợi ở Việt Nam, từ chủ trương, chính sách kinh tế rộng mở của Đảng và Nhà nước ta đến một thị trường rộng lớn với trên 90 triệu dân, đã tập trung nguồn vốn xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp tại Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam, đồng thời thu nhiều lợi nhuận từ Việt Nam. Lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn duy trì ổn định trong bói cảnh nền kinh tế thế giới chưa ra khỏi khủng hoảng, tăng trưởng chậm.
Đối với nhóm công chúng là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, báo chí đối ngoại thực sự là cầu nối gắn kết những người con xa xứ với quê hương. Hình ảnh Việt Nam hiển hiện trên màn ảnh nhỏ, trên các trang báo đã giúp họ thêm yêu Tổ quốc và có những hành động thiết thực giúp đỡ đất nước, quê hương. Người Việt dù đi xa nhưng rất quan tâm đến người thân, bạn bè, luôn hướng về gia đình, tổ tiên, nên thường xuyên tìm cách tiếp cận với những thông tin về Việt Nam. Một số người, nhất là trước đây từng làm việc cho chế độ cũ ở miền Nam Việt Nam, do bị lôi kéo, kích động, nhiễm thông tin xấu nên e dè, luôn có tâm lý đề phòng, thiếu hợp tác và thậm chí chống đối chính quyền Việt Nam, nhưng sau một thời gian xem đài VTV4, đọc báo chí Việt Nam, đã nhận thức được chính sách khoan hồng và nhân văn của Nhà nước Việt Nam, đã mạnh dạn về nước, sau đó là đầu tư làm ăn tại Việt Nam hoặc giới thiệu, kết nối các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Những người Việt Nam đang sinh sống học tập và làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài, thông qua báo chí đối ngoại thường xuyên cập nhật thông tin về đất nước, đã có những hoạt động thiết thực, như quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lũ, biểu tình đấu tranh bảo vệ chủ quyền Việt Nam. Hình ảnh đất nước ổn định và bình yên thông qua báo chí đối ngoại đã giúp họ thêm gắn bó với quê hương, tự coi mình là bộ phận không tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
2.2.5. Nguyên nhân của những ưu điểm
2.2.5.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Các quốc gia trên thế giới đang vận động trong xu thế tất yếu khách quan của thời đại là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Các quốc gia dù ở bất kỳ trình độ phát triển nào đều nỗ lực hợp tác, liên kết, hội nhập để đạt được lợi ích lớn hơn trong quá trình phát triển. Đồng thời, các quốc gia cũng cạnh tranh nhau để thu hút sự quan tâm, chú ý của thế giới, khẳng định được giá trị, bản sắc của mình trong cộng đồng quốc tế. Chính nhờ đó mà tuyên truyền đối ngoại là chiếc cầu nối, là phương tiện để vừa tạo sự hiểu biết lẫn nhau, vừa cạnh tranh nhau. Đồng thời, toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ chế hợp tác trong nhiều lĩnh vực giúp nâng cao đáng kể hoạt động tuyên truyền đối ngoại. Hợp tác về thông tin giúp cho các sản phẩm báo chí đối ngoại, nhất là sản phẩm tuyên truyền hình ảnh Việt Nam đến được với nhiều đối tượng hơn. Nhờ có hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo, công nghệ mà chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao, máy móc, trang thiết bị ngày càng được hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của các cơ quan báo chí đối ngoại và của hoạt động tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Mặt khác, sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cũng giúp cho công chúng ở các nước trên thế giới có thể tiếp cận thông tin dễ dàng và tiện lợi hơn, bất kể sự khác biệt về ngôn ngữ, vị trí địa lý. Tốc độ internet cao, thiết bị di động, các phần mềm, công nghệ hiện đại giúp cho người sử dụng ngày càng tiếp cận được với các sản phầm báo chí dễ dàng hơn. Các loại hình báo chí bao gồm cả báo in, báo phát thanh, báo truyền hình, báo mạng điện tử đã có sự thay đổi vượt bậc về công nghệ, như công nghệ về phương thức truyền dẫn, lưu trữ, hình ảnh, âm thanh, web khiến chất lượng các sản phẩm báo chí ngày càng được nâng cao, cả nội dung và hình thức.
Thứ hai, Việt Nam có nhiều bản sắc quốc gia hấp dẫn.
Tuyên truyền hình ảnh quốc gia chỉ là một hình thức truyền thông để truyền tải những thông điệp về những gì mà bản thân quốc gia có đến đối tượng ở bên ngoài nhằm đạt được mục đích hiểu biết, tin tưởng và có những hành động hợp tác, giúp đỡ. Do đó bản thân quốc gia phải có những nét đặc sắc, hấp dẫn thì việc tuyên truyền mới phát huy được hiệu quả. Tuyên truyền hình ảnh quốc gia sẽ không thành công nếu bản thân quốc gia đó không đáp ứng được nhu cầu của các nhóm đối tượng công chúng. Thành công của tuyên truyền hình ảnh quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cơ bản và quan trọng nhất là chất lượng các “sản phẩm, dịch vụ” mà quốc gia đó muốn bán. Cảnh quan thiên nhiên, nét đặc sắc văn hóa, những giá trị lịch sử, những phẩm chất tốt đẹp của người dân, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư, chất lượng các mặt hàng, nguồn lao động, thị trường đầu tư tiềm năng chính là những “sản phẩm, dịch vụ” của quốc gia đó. Hoạt động tuyên truyền hình ảnh quốc gia cũng giống như lời hứa, sự cam kết với những gì mà đối tượng công chúng sẽ nhận được. Nếu không khiến đối tượng hài lòng, tuyên truyền chắc chắn thất bại.
Trên thực tế, với 23 di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và thiên nhiên được UNESCO vinh danh (tính đến năm 2017) [64], Việt Nam có nhiều bản sắc quốc gia hấp dẫn với những cảnh quan thiên nhiên, những giá trị văn hóa - lịch sử mà không nơi nào có được. Lịch sử dựng nước giữ nước của dân tộc gắn với những chiến công vang dội được lưu giữ một phần qua những di tích văn hóa - lịch sử, qua những câu chuyện, truyền thuyết, những đồ vật trưng bày trong bảo tàng Mặc dù một bộ phận người Việt ở một vài địa phương còn có những tính xấu, nạn chèo kéo, lừa đảo khách du lịch vẫn còn, nhưng những phẩm chất tốt, những thành tích đáng ghi nhận đều là những giá trị, những minh chứng tiêu biểu đại diện cho đại đa số người Việt.
Đồng thời, Việt Nam còn là một nền kinh tế năng động với những chỉ số tăng trưởng GDP cao, chỉ số tiêu dùng ổn định, nhiều mặt hàng có lợi thế xuất khẩu. Việt Nam còn là quốc gia có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư với nhiều lợi thế được thể hiện qua các FTA song phương và đa phương đã ký, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, đầu tư, sự hiện diện của nhà đầu tư nước ngoài, nguồn lao động dồi dào giá rẻ, thị trường đầu tư tiềm năng. Chính vì thế, tuyên truyền hình ảnh Việt Nam chỉ đơn giản là truyền tải những bản sắc độc đáo đó của Việt Nam cho người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài theo những phương thức hiện đại, phù hợp với tâm lý, sở thích, trình độ phát triển của họ.
2.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, hầu hết các cơ quan chủ quản, ban biên tập và đội ngũ cán bộ báo chí nhận thức được trách nhiệm phải luôn nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí tuyên truyền đối ngoại.
VTV4 và VET là hai đơn vị có thành tựu trong tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới với những ưu thế về báo truyền hình và báo in. Với kinh nghiệm công tác (từ năm 1991) và kinh nghiệm quản lý lâu năm (từ năm 2001), Trưởng ban Truyền hình đối ngoại VTV4 đã luôn ý thức phải tận dụng được ưu thế của truyền hình để thuyết phục khán giả tin vào những gì họ được nhìn, được nghe trên truyền hình và làm thế nào để các chương trình của mình tới được nhiều hơn với các đối tượng. Chính vì lẽ đó, Trưởng ban VTV4 đã chủ động đề xuất thành lập chuyên mục mới nhằm tuyên truyền hình ảnh Việt Nam tốt hơn. Đặc biệt, Trưởng ban VTV4 đã yêu cầu Phòng tiếng Anh xây dựng các chuyên mục mới để phục vụ nội dung tuyên truyền hình ảnh Việt Nam. Format của chuyên mục bao gồm tên, kết cấu, hình thức, nội dung được phê duyệt lần lượt từ cấp phòng, ban, và Đài. Nội dung cụ thể của các chuyên mục được hình thành từ ý tưởng của biên tập viên và từ ban lãnh đạo. Sau khi được phê duyệt, Phòng sẽ phân công người thực hiện một cách cụ thể, rõ ràng. Đồng thời, trong quá trình làm việc, lãnh đạo VTV4 cũng thường xuyên kiểm tra công việc, chỉ đạo cụ thể, tận dụng tối đa các phương tiện liên lạc hiện đại để đảm bảo công việc luôn được suôn sẻ.
Cơ quan chủ quản và ban biên tập ở ba cơ quan báo chí được khảo sát đều chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng nhân sự. Ngay từ ban đầu, cả ba cơ quan đều thực hiện quá trình tuyển chọn rất khắt khe, đặt ra yêu cầu cao về ngoại ngữ, nghiệp vụ báo chí, và với riêng báo truyền hình, VTV4 nhấn mạnh yếu tố đam mê nghề nghiệp, sự dấn thân. Trong quá trình làm việc, đội ngũ nhân sự tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện tại chỗ hàng ngày, còn chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo trước và trong quá trình làm việc với nhiều hình thức, bao gồm chính thức, không chính thức như học tại Trung tâm đào tạo, tự đào tạo, cử đi học ngắn hạn, dài hạn trong nước và nước ngoài. Ở VTV4, nhà báo có kinh nghiệm, giỏi chuyên môn có trách nhiệm đào tạo, hướng dẫn đội ngũ nhân sự mới theo hình thức “cầm tay chỉ việc” hoặc tham gia giảng dạy tại Trung tâm đào tạo báo chí truyền hình. Quá trình đào tạo cũng diễn ra liên tục trong suốt quá trình làm việc, thông qua việc nhận xét những sản phẩm đã được sản xuất và phát sóng tại một số buổi họp và tại Trung tâm khi có những nội dung đào tạo mới. Riêng đội ngũ nhân vật trải nghiệm là người nước ngoài có thời gian làm việc ở Việt Nam thì được tuyển chọn thông qua thử vai và được bố trí những nội dung phù hợp với những đặc điểm về nghề nghiệp, sở thích của họ.
Tại Ban Biên tập đối ngoại của TTXVN, các biên tập viên khi mới tuyển dụng đều được tham gia học lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ báo chí do chính TTXVN tổ chức. Ngoài ra, đội ngũ biên tập viên còn được bồi dưỡng tại chỗ bởi những người làm lâu năm và đào tạo chính thức thông qua các lớp ngắn hạn về nghiệp vụ báo chí, về ngoại ngữ, về quan hệ quốc tế hàng năm ở TTXVN và ở các bộ, ngành, trung tâm đào tạo khác trong nước trong suốt quá trình làm việc.
Tại VET, đội ngũ biên tập viên, phóng viên đều được đào tạo tại chỗ bởi những nhân sự lâu năm, được đào tạo tập trung tại tòa soạn, cử đi bồi dưỡng tại các lớp của Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí (Hội nhà báo Việt Nam), bổ sung và cập nhật những kiến thức chuyên ngành, đảm bảo có đủ kiến thức, nghiệp vụ để tác nghiệp.
Thứ hai, sự chuyên môn hóa cao của đội ngũ phóng viên, biên tập viên và sự quan tâm tiếp thu ý kiến đóng góp từ đối tượng công chúng.
Thành công lớn của các chuyên mục VTV4 phần nhiều từ sự chuyên môn hóa về quản lý và thực hiện nội dung. Khám phá Việt Nam và Món ngon là chuyên mục dài hạn nên có đội ngũ chuyên trách thực hiện bao gồm producer (tổ chức sản xuất), trợ lý về nội dung, quay phim và nhân vật trải nghiệm. Chuyên mục Mảnh ghép văn hóa có 4 biên tập viên phụ trách nội dung của các tiểu mục (Văn hóa và sự kiện, Phỏng vấn nghệ sĩ, Văn hóa và lối sống, Kết nối văn hóa) và một người hướng dẫn về nội dung. Chính việc chuyên môn hóa trong quản lý và thực hiện nội dung đã tạo điều kiện chủ động và phát huy tối đa trí tuệ các nguồn nhân lực, giúp chất lượng sản phẩm báo chí tuyên truyền ngày càng được nâng cao.
Nhờ triển khai hệ thống đóng góp thông tin của khán giả qua hòm thư điện tử và sử dụng mạng xã hội - có chức năng tương tác với người dùng, các phóng sự của VTV4 được đông đảo độc giả phản hồi, đóng góp ý kiến xây dựng chương trình tốt hơn, cả về nội dung và hình thức. Đồng thời, đội ngũ lãnh đạo, quản lý và phóng viên, biên tập viên VTV4 cũng lắng nghe ý kiến đóng góp của chính những nhân vật người nước ngoài tham gia vào chương trình phóng sự. Do đó, nội dung, phương pháp tuyên truyền của các chuyên mục của kênh VTV4 đã có nhiều sự đổi mới qua nhiều năm và đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực của khán giả trong, ngoài nước và các đối tác nước ngoài.
Là tờ báo đối ngoại đầu tiên của Việt Nam, được hình thành từ rất sớm nên cơ cấu bộ máy của VET rất chuyên nghiệp. Mỗi chuyên mục đều có người phụ trách riêng để đảm bảo bài viết của chuyên mục luôn ra đúng và đảm bảo chất lượng. Đồng thời, tòa soạn báo cũng tổ chức khảo sát ý kiến của độc giả qua các cuộc khảo sát điều tra, do đó chất lượng của báo ngày càng được nâng cao và được khán giả trong và ngoài nước đánh giá tích cực, được cơ quan chủ quản là Hội Khoa học kinh tế Việt Nam ghi nhận thành tích.
Thứ ba, nhiều chủ thể bán chuyên trách; chính quyền, người dân địa phương tạo điều kiện tối đa cho quá trình tác nghiệp.
Lãnh đạo ban biên tập, các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên các cơ quan báo chí đối ngoại rất quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhà báo, phóng viên, biên tập viên, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình sản xuất các sản phẩm báo chí nhằm đạt hiệu quả, hiệu ứng cao. Chẳng hạn ở VTV4, khi phóng viên đi tác nghiệp ở các địa phương xa, cần thuê người dẫn đường, Công đoàn và Đoàn thanh niên cơ quan đều trích quỹ hỗ trợ để công việc chuyên môn không gặp trở ngại nào. Liên chi hội nhà báo hỗ trợ về mặt chuyên môn thông qua các buổi trao đổi nghiệp vụ, mời những chuyên gia về chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Các hoạt động kỉ niệm ngày chuyên mục lên sóng lần đầu tiên, ngày lễ trong năm, các dịp tham quan cũng được tổ chức thường niên; các giải thưởng tôn vinh cán bộ, phóng viên, biên tập viên có thành tích tốt được tổ chức thường xuyên. Bên cạnh đó, chính quyền các địa phương, nhất là vùng miền núi, vùng sâu vùng xa - nơi các nhà báo tác nghiệp cũng tạo điều kiện tối đa về thông tin, phương tiện và cơ sở vật chất khác. Người dân địa phương cũng nhiệt tình đón tiếp, giúp đỡ các nhà báo cả về vật chất và tinh thần, nhất là cung cấp thông tin, chỉ đường, hướng dẫn thao tác các ngành nghề thủ công, những điệu múa, nhạc cụ dân tộc, cách chế biến các món ăn, dẫn đường và giải thích những hang động, cảnh quan thiên nhiên Các yếu tố bên ngoài báo chí này là thành tố quan trọng, góp phần hình thành những tác phẩm truyền hình, phóng sự, phim tài liệu có giá trị nghệ thuật cao.
Thứ tư, về cơ bản, các cơ quan báo chí đối ngoại được quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất kịp thời.
Cả ba cơ quan báo chí đối ngoại được khảo sát đều nhận sự quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất thỏa đáng, mặc dù chưa được đầy đủ nhưng về cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn. Nhiều máy móc, thiết bị cơ bản và hiện đại được trang bị và được các cán bộ tận dụng tối đa hiệu suất để đáp ứng nhu cầu công việc. Các nhà báo, phóng viên của VTV4 được cung cấp máy ảnh, máy quay, flycam (máy quay di động điều khiển từ xa), thiết bị ray cẩu, đèn; hầu hết các đoàn công tác đều có xe ô tô cơ quan đưa đón. Đặc biệt, TTXVN được đánh giá là hãng thông tấn quốc gia lớn nhất khu vực Đông Nam Á về quy mô và trang thiết bị [78]. TTXVN có hệ thống quản trị nội dung (CMS) tiên tiến, giúp quá trình đăng bài và kiểm duyệt nội dung được nhanh chóng và chuẩn xác. Tại VET, nhờ năng lực tài chính tốt do cơ chế tự chủ ngay từ khi mới thành lập nên tòa soạn đáp ứng đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị cho đội ngũ biên tập viên, phóng viên trong quá trình tác nghiệp. Tiền lương, thưởng và nhuận bút cao cũng giúp cán bộ cơ quan yên tâm, phấn khởi làm việc và sáng tạo.
2.3. Những hạn chế trong tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo chí đối ngoại và nguyên nhân
2.3.1. Những hạn chế
2.3.1.1. Những hạn chế của các chủ thể tuyên truyền
Thứ nhất, một số cơ quan báo chí đối ngoại còn thiếu chủ động trong việc nâng cao chất lượng tác phẩm về tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Nhận thức về tầm quan trọng của công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý báo chí đối ngoại chưa đầy đủ. Vì vậy, các chương trình, chuyên mục mang tính đối ngoại chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống cơ quan, đội ngũ nhà báo, phóng viên; hoạt động tuyên truyền hình ảnh Việt Nam có lúc chưa được triển khai thống nhất, bài bản, dẫn đến hiệu quả tuyên truyền còn thấp.
Do khó đo đếm hiệu quả, chất lượng sản phẩm, do công chúng ở xa và có tính chất đặc thù, nên các cơ quan báo chí đối ngoại ít chịu áp lực, công việc diễn ra đều đều, ít có bước phát triển đột phá. Ví dụ, mặc dù đã có hợp đồng ràng buộc quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên, nhưng cơ chế phối hợp hoạt động, nhất là yêu cầu phản hồi, báo cáo giữa UBND thành phố Hà Nội và TTXVN chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ nên làm chậm kế hoạch hoặc chất lượng sản phẩm tuyên truyền hìn ảnh Việt Nam chưa cao. Tại các hội nghị báo cáo giữa các bên, chỉ có phản hồi tích cực mà chưa chỉ ra những hạn chế cần khắc phục. Trong Báo cáo tổng kết công tác tuyên truyền và mở rộng website Hà Nội phục vụ công tác thông tin đối ngoại giai đoạn 2012-2016 chưa có nội dung đánh giá về công tác tuyên truyền văn hóa, ẩm thực, các địa điểm tham quan, du lịch ở các địa phương khác, mà chỉ tập trung vào thành phố Hà Nội.
Vietnam Plus thường xuyên tiến hành khảo sát trực tuyến nhưng chỉ tập trung vào yếu tố nghề nghiệp, ai là người ra quyết định và những quyết định được đưa ra trong gia đình của độc giả, mà không có câu hỏi nào về nhu cầu và nội dung quan tâm của độc giả.
Thứ hai, đội ngũ biên tập viên, phóng viên tại một số cơ quan báo chí còn thiếu về số lượng, bất cập về chất lượng, chưa được chuyên môn hóa.
Tại VTV4, mặc dù đội ngũ nhân sự lành nghề được phân công nhiệm vụ chuyên trách những công việc cụ thể, nhưng số người có năng lực thực sự không nhiều, dẫn đến có người làm quá nhiều, có người không biết và không phải làm, trong khi cơ chế lương, thưởng chưa thỏa đáng nên chưa tạo được động lực cho những người tích cực. Theo lời của Phó trưởng phòng tiếng Anh, phòng này có 30 người, bao gồm viên chức chính thức và nhân viên hợp đồng, cộng tác viên. Số lượng này chưa đáp ứng được nhu cầu công việc, và một số người cũng chưa làm tốt nhiệm vụ được giao, do thiếu năng lực chuyên môn.
Tại Ban biên tập đối ngoại TTXVN, theo ý kiến Trưởng ban Biên tập Đối ngoại, chưa có người phụ trách quản lý và thực hiện nội dung riêng cho các lĩnh vực và chuyên mục. Tại Ban đối ngoại, mỗi phòng ngoại ngữ cũng chỉ có 10-15 người, nên không thể phân công phụ trách theo lĩnh vực hoặc chuyên mục riêng. Các biên tập viên đều “đa năng”, tham gia tất cả các chuyên mục, lĩnh vực. Ban lãnh đạo chỉ khuyến khích cán bộ, biên tập viên tự đào sâu theo chuyên ngành hoặc theo sở thích, do thiếu người và còn do cơ chế làm việc theo ca.
Do Ban biên tập tinh gọn, VET có nhiều cố gắng trong mời cộng tác viên, nhưng đội ngũ người viết hay của VET chưa nhiều, số lượng bài viết sâu, sắc sảo còn phụ thuộc vào các chuyên gia.
2.3.1.2. Những hạn chế về nội dung tuyên truyền
Nhìn chung, lượng thông tin tuyên truyền hình ảnh Việt Nam còn hạn chế, trong nhiều trường hợp khó phân biệt được mục đích của thông tin. Đối với VTV4, Vietnam Plus, và VET, một số nội dung tuyên truyền quan trọng, hấp dẫn nhưng chưa, hoặc ít được đề cập, chưa được phân tích, bình luận sâu.
Thứ nhất, chưa có nhiều tác phẩm về chủ đề lịch sử của Việt Nam
VTV4, Vietnam Pluss chưa có nhiều tác phẩm đề cập về lịch sử Việt Nam và những di tích văn hóa - lịch sử gắn với những truyền thuyết. Trong năm 2016, kênh truyền hình VTV4 chỉ có 6 phóng sự, trong đó có 3 tập phóng sự dài kỳ (Con đường xe đạp thồ sông Mã - Vietnam Discovery - VTV4) đề cập đến các các thời kỳ lịch sử hoặc di tích văn hóa-lịch sử. Trong khi đó, chuyên mục Thăng Long - Hà Nội, Vietnam Plus chỉ có bài viết Hanoi Museum in world’s most beautiful museums (Bảo tàng Hà Nội nằm trong danh sách những bảo tàng đẹp nhất thế giới) trong chuyên mục Điểm đến hấp dẫn không có bài viết nào có đề cập lịch sử hoặc các công trình lịch sử - văn hóa.
Thứ hai, còn ít tác phẩm đề cập đến kiến trúc Việt Nam truyền thống, những thông tin chỉ dẫn, giao tiếp, phong tục tập quán người dân các địa phương
Chưa có những nội dung đề cập đến kiến trúc dân tộc của Việt Nam thể hiện ở nhiều công trình như nhà ở, dân gian, đình, chùa, tháp, nhà thờ, lăng mộ với những nét độc đáo về cách bố trí, vật liệu sử dụng, thể hiện tính đa dạng và khác nhau giữa các vùng miền để thể hiện sự đặc sắc so với kiến trúc của các quốc gia mà Việt Nam chịu ảnh hưởng, như Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp. Trên VTV4 còn thiếu những chỉ dẫn về những điểm du lịch, lưu ý du khách nước ngoài khi trải nghiệm tại Việt Nam. Đây là những nội dung rất quan trọng, được người nước ngoài quan tâm, giúp họ chủ động trong giao tiếp, lập kế hoạch hoạt động trong thời gian ở Việt Nam. Chẳng hạn như những quy tắc luật lệ, luật tục, lệ làng, những những câu nói giao tiếp thông thường, cách phòng tránh, cách xử lý những tình huống khẩn cấp, cách tránh những người bán hàng rong, những sự cố không mong muốn khi du khách đến Việt Nam như lạc đường, bị mất trộm hộ chiếu, hành lý
Thứ ba, lượng thông tin về nền chính trị Việt Nam ổn định an toàn, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa nhiều
Số bài viết về sự ổn định chính trị tại Việt Nam chưa nhiều. Mặc dù năm 2016 là năm diễn ra Đại hội Đảng XII, nhưng việc tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng chưa rõ nét, chưa làm nổi bật hình ảnh đất nước Việt Nam ổn định, thân thiện và hiếu khách.
Đối với tạp chí in VET, trong năm 2016, số bài viết có nội dung nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ có 3% (4 bài viết/130 bài); sự phát triển của công nghệ, khoa học ở Việt Nam chỉ chiếm 2% (3 bài viết/130 bài). Lượng bài viết này là thấp và chưa đủ để giúp độc giả có thể ghi nhớ được những thực tế này đang phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay. Điều này chưa hấp dẫn các nhà đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam.
Tóm lại, nội dung tuyên truyền hình ảnh Việt Nam chưa phong phú, đa dạng, vẫn còn theo lối mòn. VTV4 chưa tích cực khai thác những đề tài, nội dung mới, cho nên một số phóng sự, phim tài liệu chưa gây được ấn tượng với công chúng. Nhiều nét văn hóa độc đáo của các dân tộc thiểu số chưa được phản ánh, cách tiếp cận vấn đề chưa thật sự đổi mới. Vietnam Plus phản ánh nhiều lĩnh vực, khía cạnh của đất nước, nhưng nội dung chưa sâu, ít có bài gây tiếng vang trong giới báo chí. Do là tạp chí chuyên ngành nên nội dung thông tin của VET cũng chỉ đề cập đến những chủ đề kinh tế nhất định, chưa phản ánh đầy đủ thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam, nhất là sự phát triển nông nghiệp những năm gần đây.
2.3.1.3. Những hạn chế về phương thức tuyên truyền
Thứ nhất, hình thức trên một số tác phẩm báo chí đối ngoại còn nghèo nàn, ứng dụng khoa học công nghệ chưa triệt để, hiệu quả nên chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng
Trong bối cảnh công nghệ truyền thông phát triển như vũ bão, nhưng các cơ quan báo chí đối ngoại còn chậm ứng dụng, mô hình tòa soạn hội tụ, tòa soạn đa nền tảng đang được xây dựng nhưng còn lúng túng. Nhìn chung, hình thức tuyên truyền trên báo chí còn đơn điệu, chưa thực sự phù hợp với nhiều đối tượng công chúng khác nhau. Công nghệ thông tin hiện đại còn chưa được chú trọng đầu tư và sử dụng đúng mức. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra nước ngoài.
Hiện nay, báo mạng điện tử được coi là có ưu thế nhất trong áp dụng công nghệ và thu hút khán giả, nhưng Vietnam Plus chưa phát huy tốt lợi thế này. Phương thức tuyên truyền tại chuyên trang Thăng Long - Hà Nội của Vietnam Plus chưa hấp dẫn, cách trình bày còn đơn điệu. Nhiều bài viết còn đơn giản, nghèo nàn về số liệu. Chưa có những bài báo với những bảng biểu,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tuyen_truyen_hinh_anh_viet_nam_ra_the_gioi_qua_bao_c.doc