MỞ ĐẦU . 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN. 9
I. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận của việc vận dụng
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho
thanh niên Việt Nam hiện nay . 9
II. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên
Việt Nam hiện nay . 15
III. Các công trình nghiên cứu liên quan đến việc đề xuất giải pháp nhằm
tăng cƣờng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục chủ
nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam thời gian tới. 18
IV. Giá trị cần tham khảo của các công trình nghiên cứu trên và những vấn
đề cần tiếp tục làm sáng tỏ. 22
Chƣơng 1: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG
TÁC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. 27
1.1. Một số khái niệm cơ bản. 27
1.2. Chủ nghĩa yêu nƣớc Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục
thanh niên và sự vận dụng vào việc xác định nội dung, phƣơng thức giáo
dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 32
1.3. Sự cần thiết của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác
giáo dục chủ nghĩa nƣớc cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 59
Chƣơng 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG
TÁC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƢỚC CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA . 662.1. Những yếu tố tác động đến việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong
công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam hiện nay 66
2.2. Thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục
chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam hiện nay. 77
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong
công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam hiện nay 98
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU
NƢỚC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 108
3.1. Quan điểm tăng cƣờng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo
dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam trong thời gian tới .108
3.2. Giải pháp tăng cƣờng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo
dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên Việt Nam trong thời gian tới .119
KẾT LUẬN . 143
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ. 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 147
205 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên Việt Nam hiện nay - Ngô Xuân Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính
năng động của thanh niên có bƣớc phát triển đáng kể. Nhìn chung, khả năng
thích ứng của thanh niên đối với đòi hỏi của sự cạnh tranh về nhân lực trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng tốt hơn. Một bộ phận thanh niên có năng lực,
phẩm chất sẽ có điều kiện vƣơn lên trƣớc. Những tài năng trẻ sẽ xuất hiện
nhiều hơn, đặc biệt là trong những ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn của
nền kinh tế, trong kinh doanh và quản lý. Trình độ học vấn, khoa học, công
nghệ, chuyên môn, nghề nghiệp của thanh niên đƣợc nâng lên là một yếu tố
quan trọng giúp cho thanh niên đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trƣờng lao
động trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Để có sự chuẩn bị nghề nghiệp tốt cho tƣơng lai, đã có hàng triệu lƣợt
thanh niên, học sinh tham gia các buổi tƣ vấn, hƣớng nghiệp (từ năm 2012-
2017 đã có hơn 8 triệu lƣợt thanh niên, học sinh) và học nghề [24; tr.8]; tính
đến tháng 9/2017, có 4.917 Đoàn xã thành lập đƣợc câu lạc bộ thanh niên
phát triển kinh tế; 4.967 câu lạc bộ thanh niên phát triển kinh tế đƣợc thành
lập; và tổng số thanh niên tham gia vào các câu lạc bộ này từ năm 2013 đến
tháng 9/2017 là 309.068 ngƣời [24; tr.43]; v.v.. Ý chí tự lực, tự cƣờng, không
cam chịu đói nghèo, lạc hậu, nỗ lực vƣơn lên hoàn thiện bản thân trong cuộc
sống của thanh niên ngày càng đƣợc khẳng định. Điều đó thể hiện tinh thần
không lùi bƣớc và quyết vƣợt mọi khó khăn gian khổ, thiếu thốn về vật chất,
tinh thần, luôn nỗ lực cố gắng bằng mọi ý chí, nghị lực mạnh mẽ, sự quyết
82
tâm cao trong học tập, lao động, sản xuất của bản thân mỗi cá nhân và thanh
niên hiện nay cũng coi trọng hơn các yếu tố giá trị nhân văn, giá trị thiết thực,
các hoạt động cụ thể và hƣớng tới mục tiêu ”dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”. Trong những năm gần đây, tham gia vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc, phấn đấu đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành
một nƣớc công nghiệp hiện đại vào năm 2020 có vai trò quan trọng của một
bộ phận thanh niên tài năng, luôn đi đầu trong học tập và lao động. Họ là
những điển hình tiên tiến, là những tấm gƣơng sáng đại diện cho thế hệ thanh
niên mới, góp phần xây dựng một hình ảnh mới của đất nƣớc đó là những
doanh nhân trẻ thành đạt. Hầu hết, họ là những thanh niên có trình độ học
vấn, có năng lực, năng động, sáng tạo trong công việc, có ý chí lập thân, lập
nghiệp, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh những hoạt động
sản xuất, kinh doanh, họ cũng là những ngƣời tích cực, có tâm huyết, tiềm
năng và đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động xã hội. Hàng năm, nhiều
thanh niên tiêu biểu đã đƣợc TW Đoàn tổ chức trao các giải thƣởng cao quý
trong các lĩnh vực: Giải thƣởng Lý Tự Trọng, Trần Văn Ơn, Sao Tháng
Giêng, Lƣơng Định Của, Ngƣời thợ trẻ giỏi, Giáo viên trẻ giỏi, Cán bộ Đoàn
cơ sở xuất sắc (26/3), Sao Đỏ, v.v..
Trong cuộc sống, hầu hết thanh niên đều nhận thức đƣợc trách nhiệm
“sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, ý thức đƣợc “pháp luật thƣợng
tôn” trong công việc, trong cuộc sống thƣờng ngày của họ. Đoàn viên, thanh
niên tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật, tham
gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Hơn 10.000 đoàn xã, phƣờng, thị
trấn triển khai, giúp đỡ hơn 62.800 thanh thiếu niên chậm tiến [24; tr.4]; v.v..
Trong các phong trào hành động cách mạng, thanh niên đã thể hiện được
vai trò tiên phong, xung kích của tuổi trẻ. Đa số thanh niên đƣợc hỏi đều trả lời
sẵn sàng tình nguyện vì cộng động (69,6%) [Phụ lục 5]. Thanh niên tích cực
thực hiện các chủ trƣơng, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, tham
83
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc: tham gia “chung tay xây dựng
nông thôn mới” và “xây dựng văn minh đô thị” đƣợc triển khai rộng khắp, sáng
tạo; đã đóng góp gần 2,7 triệu ngày công tham gia xây dựng, hoàn thiện nông
thôn với 10.907 km đƣờng giao thông, 89.205 km kênh mƣơng nội đồng, 2.820
nhà văn hóa, 5.255 nhà nhân ái, nhà bán trú dân nuôi [24; tr.32]; triển khai 46
đội hình thanh niên tình nguyện sơ cứu, ứng cứu nhanh tai nạn giao thông và lắp
đặt 71 pa-nô tuyên truyền an toàn giao thông dọc Quốc lộ 1 và đƣờng Hồ Chí
Minh đoạn qua Tây Nguyên và tỉnh Bình Phƣớc; xây dựng 40 tuyến hẻm an
toàn, văn minh, tiết kiệm; sửa chữa giàn khoan Đại Hùng - 01; tham gia chăm
sóc ngƣời già neo đơn có hoàn cảnh khó khăn; hàng triệu lƣợt thanh niên đã
tham gia cuộc vận động “Thanh niên với văn hóa giao thông”, các cấp bộ đoàn
tổ chức 37.000 đợt ra quân tuyên truyền thu hút trên 4 triệu đoàn viên, thanh
niên, thiếu nhi và nhân dân tham gia; đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia
phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn dân cƣ thông qua các mô hình, đội thanh
niên xung kích;...[24; tr.32].
Thanh niên vẫn ý thức được cần phải có tinh thần đoàn kết quốc tế. Họ
cho rằng cho bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sự đoàn kết quốc tế ngày
càng quan trọng (61,5%) [Phụ lục 5]. Chính vì vậy, công tác quốc tế thanh
niên tiếp tục đƣợc mở rộng, đổi mới, có bƣớc phát triển về chiều sâu, chất
lƣợng đƣợc nâng lên, đóng góp tích cực vào thành chung của công tác đối
ngoại nhân dân. Trong những năm qua, Trung ƣơng Đoàn tổ chức gần 500
hoạt động giao lƣu quốc tế thanh thiếu nhi với sự tham gia của trên 11.000
thanh thiếu nhi Việt Nam và quốc tế; Đoàn cấp tỉnh tổ chức hơn 600 hoạt
động giao lƣu quốc tế thanh thiếu nhi. Quan hệ hữu nghị với các tổ chức
thanh niên các nƣớc láng giềng đƣợc đặc biệt phát triển cả về quy mô và chất
lƣợng. Quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các tổ chức bạn bè truyền thống, cánh
tả, cộng sản tiếp tục đƣợc duy trì. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã thể hiện trách
84
nhiệm, vai trò tích cực trong các hoạt động của Liên đoàn Thanh niên dân chủ
thế giới [24; tr.12-13].
* Thành tựu trong việc triển khai phương thức giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho thanh niên trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
- Sự phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội có nhiều chuyển biến tích
cực. Đa số các gia đình trên toàn quốc đã thể hiện đƣợc vai trò trong việc giáo
dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho con em mình. Ông bà, cha mẹ thƣờng xuyên
nhắc nhở con cháu phải yêu thƣơng ngƣời trong gia đình, họ hàng, làng xóm,
thầy cô giáo, phải gắn bó với quê hƣơng đất nƣớc, phải cố gắng rèn luyện
trong việc tu dƣỡng nhân cách” (78,1%); “do sự gƣơng mẫu của cha mẹ và
các thành viên trong gia đình” (83,7%) [Phụ lục 6].
Đội ngũ giáo viên không ngừng tự bồi dƣỡng nhằm nâng cao kiến thức,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giảng dạy, cũng luôn tìm tòi đổi mới, áp
dụng các phƣơng pháp tích cực trong giảng dạy, linh hoạt trong lồng ghép nội
dung giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc trong các môn học cho phù hợp.
Biểu đồ 2.2: Tương quan giữa phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp
giảng dạy tích cực với hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên
(Nguồn: Kết quả trưng cầu ý kiến do tác giả thực hiện, tháng 3-8/2017)
85
Các đoàn thể nhân dân các cấp đã tích cực quản lý, giáo dục cảm hóa,
giúp đỡ những thanh niên lầm lỗi tái hòa nhập với cộng đồng, đồng thời phối
hợp với công an địa phƣơng ngăn ngừa, hạn chế các đối tƣợng thanh niên vi
phạm pháp luật và mắc phải các tệ nạn xã hội.
Biểu đồ 2.3: Mức độ hiệu quả của công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước trên cơ
sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua các tổ chức chính trị - xã hội
(Nguồn: Kết quả trưng cầu ý kiến do tác giả thực hiện, tháng 3-8/2017)
- Các hình thức giáo dục của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có nhiều đổi
mới mang lại chất lượng và hiệu quả trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho thanh niên trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Các loại
hình, phƣơng tiện tuyên truyền, giáo dục đa dạng, phong phú hơn. Kết quả
điều tra đánh giá về mức độ hiệu quả của các hình thức giáo dục do Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh tổ chức đều đạt từ mức trung bình trở lên, cụ thể: Những
hình thức giáo dục đạt ở mức hiệu quả cao là thông qua các phong trào của
Đoàn thanh niên (87,5%); thông qua các tấm gƣơng điển hình, nhân vật lịch
sử (83,2%); lồng ghép vào các môn học trong nhà trƣờng (82,9%); lồng
ghép trong các buổi sinh hoạt chi đoàn (80,5%); Những hình thức giáo dục
đạt ở mức hiệu quả khá là thông qua các hoạt động tham quan thực tế
(73,7%), thông qua các lớp tập huấn, bồi dƣỡng (72,7%), thông qua các tổ đội
86
tuyên truyền (71,1%), thông qua các cuộc tọa đàm, diễn đàn, hội thảo
(70,9%), thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
(70,9%); Những hình thức giáo dục đạt ở mức hiệu quả trung bình là thông
qua các phƣơng tiện Tivi, đài(66,3%), thông qua tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu (54,2%); thông qua hệ thống sách, báo, tạp chí (50,9%); thông qua
internet và mạng xã hội (50,4%) [Phụ lục 7].
- Thanh niên chủ động, tích cực trong quá trình tự giáo dục chủ nghĩa
yêu nước thông qua việc tiếp thu tri thức các môn học, đặc biệt là tri thức các
môn lý luận chính trính trị, các môn khoa học xã hội và nhân văn, tham gia
các phong trào do Đoàn Thanh niên, các tổ chức chính trị - xã hội khác phát
động. Kết quả khảo sát học sinh Trung học phổ thông cho thấy một điều khá
thú vị, khi chọn các khối thi đại học, đa số học sinh (75% - 80%) thƣờng chọn
các khối A, B bởi đỡ phải học thuộc, còn về sự yêu thích các môn thì có từ
60% - 65% số học sinh đƣợc hỏi trả lời thích học các môn khoa học xã hội vì
cho rằng các môn học này “dạy cách sống tốt hơn” (60,5%), “giáo dục lòng
yêu nƣớc, tự hào dân tộc” (64,8%), “giúp nhận thức đƣợc trách nhiệm của bản
thân đối với Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay” (63,1%); v.v.. Trong các trƣờng
trung cấp, cao đẳng, đại học, khi đƣợc hỏi thì có 53,9% đến 61,6% số sinh viên
cho rằng thích thú với các môn: Chính trị học, Các nguyên lý chủ nghĩa Mác-
Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Đƣờng lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam; số thanh niên “thích” (68,7%) và “rất thích” tham gia các hoạt động
chính trị - xã hội hƣớng tới cộng đồng (73,5%) [Phụ lục 11].
- Trong những năm qua, từ những phong trào thi đua, khen thưởng, nêu
gương đã phát hiện được nhiều nhân tài, người tốt, việc tốt; đồng thời động
viên, khuyến khích những cá nhân đó tiếp tục ủng hộ cho phong trào thi đua
và tiếp tục cổ vũ cho các phong trào của Đoàn thanh niên ở địa phƣơng, đã có
142.017 đoàn viên sinh viên và tập thể đƣợc tuyên dƣơng “Sinh viên 5 tốt”;
87
hàng trăm thanh niên có những thành tích xuất sắc đóng góp vào sự phát triển
đất nƣớc đƣợc tôn vinh, v.v.. [24; tr.32].
2.2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu trên
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng và Nhà nƣớc về công
tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên trên cơ sở vận dụng tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh bằng các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, v.v.. đã chỉ ra những
phƣơng hƣớng xác thực, phù hợp với thời điểm đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng. Đó là những cơ sở để cả hệ thống chính trị cùng tham
gia công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thế hệ trẻ.
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã thực hiện tích
cực việc quy hoạch nguồn cán bộ trẻ đảm bảo có tính kế thừa và phát triển;
đƣa kế hoạch, chƣơng trình công tác bồi dƣỡng, giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc
cho thế hệ trẻ vào kế hoạch công tác của cơ quan, đơn vị, địa phƣơng; đồng
thời đổi mới phƣơng pháp, tác phong của các cấp ủy Đảng, đảm bảo sâu sát
hiệu quả, phù hợp với tâm lý, nguyện vọng, khả năng và lợi ích của tuổi trẻ.
Ngoài ra, các cấp ủy Đảng luôn đặt thanh niên ở vị trí trung tâm trong chiến
lƣợc bồi dƣỡng, phát huy nguồn lực con ngƣời trong sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và sự nghiệp đổi mới hiện nay, cụ thể hóa các chiến lƣợc đó thành
chƣơng trình hành động cụ thể, đặc biệt giải quyết kịp thời những vấn đề nảy
sinh thuộc về quyền và nghĩa vụ của tuổi trẻ. Sự phối hợp trong quá trình triển
khai các nhiệm vụ của công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên
của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, nhà trƣờng và gia
đình khá đồng bộ, hiệu quả.
Hai là, sự đóng góp to lớn của đội ngũ những ngƣời trực tiếp làm
nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên trên cơ sở vận dụng tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh. Đó là sự năng động, sáng tạo của các cấp bộ Đoàn đã thể
hiện vai trò tham mƣu cho các cấp ủy Đảng trong giáo dục thanh niên, phối
88
hợp đồng bộ với các cấp chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn
vị, địa phƣơng, huy động có hiệu quả nhiều nguồn lực xã hội tham gia đóng
góp vào hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên; là công sức
của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, giáo viên, giảng viên, v.v.. trong
hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc. Họ không ngừng tự bồi dƣỡng và học
tập để có tƣ cách đạo đức, giàu lòng yêu nƣớc, bản lĩnh chính trị vững vàng,
nâng cao trình độ, nghiệp vụ, có sự đồng thuận, nhiệt tình và phát huy tinh
thần trách nhiệm, triển khai hết sức nghiêm túc công tác giáo dục chủ nghĩa
yêu nƣớc cho thế hệ trẻ.
Ba là, việc xây dựng chƣơng trình giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho
thanh niên trên cơ sở vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh theo hƣớng tinh gọn,
giảm tải; đa số các nội dung giáo dục phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi thanh niên
và yêu cầu thực tiễn của đất nƣớc; phƣơng pháp và hình thức giáo dục đƣợc đổi
mới, đa dạng, phong phú. Giáo dục gia đình, nhà trƣờng, xã hội đƣợc chú ý
quan tâm và đã phát huy hiệu quả: Việc giáo dục của gia đình đƣợc thực hiện
thông qua những lời khuyên bảo, động viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất về vật
chất và tinh thần cho các con học tập, tu dƣỡng các phẩm chất hình thành
nhân cách trong đó có chủ nghĩa yêu nƣớc, thƣờng xuyên giáo dục các con
gắn bó với quê hƣơng, đất nƣớc, yêu thƣơng con ngƣời, cố gắng học tập tu
dƣỡng để lập thân lập nghiệp. Mặt khác, sự gƣơng mẫu của cha mẹ về tình
yêu đất nƣớc, về niềm tin đối với Đảng, với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, với chủ
nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đất nƣớc đã có tác dụng tích cực đối với
việc giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc; giáo dục nhà trƣờng chú trọng đến việc
giáo dục toàn diện, “dạy chữ” gắn với “dạy ngƣời” tạo sự chuyển biến trong
nhận thức của thanh niên trƣờng học về lòng yêu nƣớc; giáo dục xã hội đã tạo
ra sức lan tỏa, khơi dậy lòng yêu nƣớc trong mỗi thanh niên.
Bốn là, những thành tựu của đất nƣớc sau 30 năm tiến hành đổi mới đã
tác động tích cực, mạnh mẽ tới suy nghĩ, nhận thức của mỗi thanh niên. Họ
89
đƣợc tận mắt chứng kiến những thay đổi do công cuộc đổi mới đất nƣớc đem
lại. Vì vậy, niềm tin vào tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc, vào sự lãnh đạo của
Đảng và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong mỗi thanh niên đƣợc củng
cố. Niềm tin đó đƣợc hình thành trên tri thức khoa học và căn cứ thực tiễn trở
thành động lực tinh thần to lớn để họ vƣơn tới những lý tƣởng cao đẹp.
Cùng với đó, sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã đem đến cho
chúng ta những cơ hội để phát triển đất nƣớc nói chung, đổi mới phƣơng thức,
phƣơng tiện giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc nói riêng. Việc tiếp cận với những
thành tựu khoa học - kỹ thuật công nghệ cao của thế giới sẽ giúp thanh niên mở
rộng liên hệ, đối chứng để thấy rõ sự cần thiết phải có đƣợc những chuẩn mực
của chủ nghĩa yêu nƣớc và có cơ hội để thể hiện vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ
của mình trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của Đảng và nhân dân ta.
Năm là, môi trƣờng văn hóa lành mạnh đã dần đƣợc thiết lập và cơ sở
vật chất phục vụ công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên trên cơ
sở vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đã đƣợc chú ý nâng cấp, cơ bản đáp ứng
đƣợc yêu cầu của công tác giáo dục. Việc tăng cƣờng công tác quản lý văn
hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa dành cho thanh niên và sự đầu tƣ vào cải
tạo cơ sở vật chất: trƣờng lớp, giảng đƣờng, phòng học, các phƣơng tiện,
trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, các tài liệu, giáo trình, v.v.. đã góp phần quan
trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu, định hƣớng của công tác giáo dục
chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên hiện nay.
2.2.2. Hạn chế trong việc triển khai nội dung, phương thức giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên Việt Nam hiện nay trên cơ sở vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên nhân của những hạn chế đó
2.2.2.1. Hạn chế trong việc triển khai nội dung, phương thức giáo dục
chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên Việt Nam hiện nay trên cơ sở vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh
90
* Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên trên cơ sở
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh còn một số bất cập
Trên thực tế, công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thế hệ trẻ Việt
Nam còn nhiều bất cập về nội dung giáo dục. Nội dung giáo dục chủ nghĩa
yêu nƣớc trên cơ sở vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh chƣa đƣợc xác định cụ
thể, thống nhất. Thực tế ở nƣớc ta hiện nay vẫn chƣa có một tài liệu nào xác
định một cách cụ thể những tiêu chí về nhận thức và hành vi yêu nƣớc cần
giáo dục cho thanh niên. Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc còn có sự
chồng lấn, trùng lặp, gây lãng phí và giảm hiệu quả của công tác giáo dục.
Ngay cả môn Giáo dục công dân và các môn khoa học lý luận chính trị trong
nhà trƣờng - cũng chƣa thể cụ thể hóa đƣợc những yêu cầu của chủ nghĩa yêu
nƣớc để thanh niên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Điều này gây ra khó khăn
cho các chủ thể khi tiến hành công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc. Ngoài ra,
những biểu hiện mới của chủ nghĩa yêu nƣớc trên cơ sở vận dụng tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, mở cửa hội nhập, phát triển kinh
tế thị trƣờng chƣa đƣợc nghiên cứu để bổ sung kịp thời vào nội dung giáo dục
chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh niên. Nội dung giáo dục chƣa gắn với thực tiễn
là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả của công tác giáo này.
Kết quả khảo sát việc đánh giá về nội dung giáo dục của hoạt động này cho
thấy có đến 11,3% thanh niên cho rằng “không bổ ích, không phù hợp”.
Sau khi tiếp nhận nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc, nhận thức,
niềm tin và hành động của một bộ phận thanh niên vẫn còn nhiều hạn chế. Số
thanh niên chƣa nhận thức đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (20,5,5%);
chƣa chú ý thức đến việc giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc (28,1%); chƣa có tinh thần xung kích, tình nguyện vì cộng đồng
(30,4%); tinh thần đoàn kết quốc tế còn hạn chế (38,5%); v.v.. Một bộ phận
91
thanh niên cho rằng vấn đề chủ quyền đất nƣớc là việc của “ngƣời có trách
nhiệm” (18,3%) và số “không quan tâm đến vấn đề này” (4,2%).[28; tr.60].
Biểu đồ 2.4. Ý kiến của thanh niên về vấn đề chủ quyền đất nước
Nguồn: Kết quả trưng cầu ý kiến do tác giả thực hiện, tháng 3-8/2017)
Một số thanh niên quan niệm “có tiền là có tất cả” (21,7%), đặt lợi ích
cá nhân lên trên lợi ích tập thể (7,9%); định hƣớng giá trị cuộc sống của một
bộ phận thanh niên còn lệch lạc có suy nghĩ vị kỉ, thực dụng và thiếu trách
nhiệm; nhiều thanh niên “chỉ làm việc thiện nếu chắc chắn nhận đƣợc sự đền
bù” (17,5%), cho rằng “sống cao thƣợng là mù quáng” (21,3%). Trong việc
nhận nhiệm vụ đến những vùng khó khăn công tác: 23,7% thanh niên còn
chần chừ, do dự, khi đƣợc hỏi thì trả lời “cảm thấy khó nói về vấn đề này”,
một bộ phận nhỏ thanh niên chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân cho rằng “chỉ
thực hiện nếu công việc đó phù hợp với những lợi ích bản thân” (1,5%),
nghiêm trọng hơn, có tới 13,5% thanh niên khẳng định “không đi cho dù có
bất kỳ chế độ đãi ngộ nào” [28; tr.65]; còn nhiều thanh niên chƣa có ý thức
phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên. Nhiều trào lƣu ngoại lai du nhập
đáng bị phê phán nhƣ “câu like”, ”câu view”, “đủ like là làm”,“thử thách
Momo”, “Emo” trên Face book, v.v.. nhƣng vẫn đƣợc thanh niên tán thành,
thậm chí là suy tôn nhƣ một lý tƣởng sống, coi đó là xu hƣớng mới và phù
hợp với giới trẻ. Số thanh niên vi phạm pháp luật tăng cả về số lƣợng và mức
độ nguy hiểm, số thanh niên ở độ tuổi 18 đến dƣới 30 phạm tội chiếm tỉ lệ cao
92
nhất: 41%. Vẫn còn một bộ phận thanh niên chƣa hiểu biết đầy đủ truyền
thống cách mạng của Đảng và dân tộc; thờ ơ chính trị, ít quan tâm đến tình
hình đất nƣớc (6%), sống không có ƣớc mơ, khát vọng, giảm sút niềm tin,
phai nhạt lý tƣởng cách mạng, bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động đi ngƣợc
với chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, lợi ích của dân
tộc; thanh niên có biểu hiện phai nhạt lý tƣởng (mức rất nghiêm trọng chiếm
23%, nghiêm trọng chiếm 31,9%); sống thực dụng, ích kỷ (mức độ rất nghiêm
trọng 22,7%, nghiêm trọng 38,1%); không chịu cống hiến, thích hƣởng thụ
(rất nghiêm trọng 22,8%, nghiêm trọng 36,7%) [28; tr.53].
Biểu đồ 2.5: Tình hình phạm tội trẻ
(Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu tội phạm học và điều tra tội phạm (Học viện CSND)
* Việc sử dụng các phương thức giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
thanh niên Việt Nam hiện nay trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn có những hạn chế
- Sự phối gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục thanh niên vẫn
còn chưa chặt chẽ
Vẫn còn nhiều gia đình quá đề cao yếu tố kinh tế, coi kinh tế là một áp
lực mà quên đi nhiệm vụ giáo dục nhân cách cho con mình (21,9%); không ít
gia đình khi các con còn nhỏ thì giao việc chăm sóc cho ngƣời giúp việc
93
(17,3%); khi con lớn lên thì phó mặc việc dạy dỗ con cho nhà trƣờng
(19,2%); bố mẹ mải miết kiếm tiền và tình yêu thƣơng dành cho các con đƣợc
quy đổi bằng tiền nhƣ một sự bù đắp (23,1%). Một số bậc cha mẹ chƣa thực
sự là tấm gƣơng cho các con noi theo (16,3%) [Phụ lục 11].
Việc dạy và học ở nhiều trƣờng, từ cấp Trung học phổ thông cho đến
trung cấp, cao đẳng, đại học còn chạy theo thành tích, tâm lý thi cử nặng nề,
chƣa coi trọng đúng mức yêu cầu “dạy chữ” gắn với “dạy ngƣời”. Do đó, việc
giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho học sinh, sinh viên chƣa đƣợc quan tâm dẫn
đến hiệu quả còn thấp. Khi hỏi sinh viên, học sinh về mức độ hiệu quả của
công tác này, kết quả cho thấy: không hiệu quả (22,7%); chỉ mang tình hình
thức (13,5%); không quan tâm đến vấn đề đó (9,2%). Khi hỏi ý kiến đánh giá
về về phƣơng pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc, có đến 15,4% học sinh, sinh
viên cho rằng vẫn nặng về phƣơng pháp truyền thống - thuyết trình, giáo điều
[Phụ lục 12].
Nhiều lúc, nhiều nơi các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chƣa thực sự chú
trọng đúng mức đối với công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc thanh niên và
chƣa có giải pháp tích cực đối với công tác giáo dục thanh niên ở các vùng trọng
điểm, vùng sâu, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số và tín đồ tôn giáo cũng nhƣ
các đối tƣợng trọng điểm nhƣ thanh niên đƣờng phố, thanh niên dân tộc thiểu số,
thanh niên theo đạo, thanh niên lầm lỗi trở về (33,1%); các phƣơng thức giáo
dục cho thanh niên của các tổ chức này chƣa đa dạng, thiếu hấp dẫn, vì vậy hiệu
quả giáo dục chƣa cao, 35,7% thanh niên đƣợc hỏi cho rằng các hình thức và
phƣơng pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc của các tổ chức chính trị - xã hội
không “hấp dẫn” [Phụ lục 11].
- Một số phương thức giáo dục chủ nghĩa yêu nước của Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh chưa thật sự hiệu quả. Phƣơng pháp và hình thức giáo dục của
Đoàn còn nặng về thuyết giảng, giáo điều, một chiều. Do vậy, mối liên hệ
giữa ngƣời tuyên truyền, giáo dục với ngƣời đƣợc tuyên truyền, giáo dục chƣa
94
chặt chẽ; sự phản hồi ý kiến của đoàn viên, thanh niên còn ít, v.v.. dẫn tới một
số hoạt động giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc không thu hút, hấp dẫn thanh niên
(27,9%) [Phụ lục 8].
Trong việc triển khai công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc cho thanh
niên, một số nơi, nhất là cấp Đoàn cơ sở còn thụ động, cứng nhắc, có biểu
hiện “sao chép” nghị quyết của cấp trên mà ít gắn với đặc điểm, đặc thù của
địa phƣơng, đơn vị (13,7%). Việc tổ chức các phong trào hành động cách
mạng tuy diễn ra sôi nổi nhƣng có nơi cách thức tổ chức yếu, còn mang tính
hình thức, thiếu tính hiệu quả nên tạo ra những dƣ luận không tốt, gây ra sự
phản tác dụng (19,5%). Công tác nắm bắt tƣ tƣởng và dƣ luận xã hội trong
thanh niên chủ yếu dựa vào nguồn thông tin đại chúng, qua các cơ quan chức
năng là chính, chƣa thông suốt và chƣa xuất phát kịp thời từ cơ sở (20,3%);
việc định hƣớng thông tin xuống cơ sở chƣa đƣợc quan tâm; công tác nắm bắt
tƣ tƣởng của thanh niên trên mạng Internet còn yếu, công tác đấu tranh phản
tuyên truyền còn chƣa đƣợc quan tâm (43,9%); ở một số địa phƣơng, đơn vị
chƣa có những giải pháp mang tính đột phá trong định hƣớng lối sống, nếp
sống cho thanh niên, nhất là trƣớc những trào lƣu mới đang xâm nhập vào đời
sống thanh niên (21,3%) do đó chƣa hình thành và tạo ra những trào lƣu lối
sống mới tích cực trong thanh niên (28,1%) [Phụ lục 11].
- Một bộ phận thanh niên chưa chịu tự giáo dục, tự rèn luyện chủ nghĩa
yêu nước. Nhiều thanh niên ngộ nhận cho rằng chỉ cần đọc mấy cuốn sách,
thuộc mấy bài đạo đức, mấy bài lịch sử dân tộc, mấy bài văn thơ yêu nƣớc thế
là đủ (22,3%) mà không thấy đƣợc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_van_dung_tu_tuong_ho_chi_minh_trong_cong_tac_giao_du.pdf