Luận văn Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai

MỞ ĐẦU . 1

CHưƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ

DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐưA VÀO CƠ SỞ CAI

NGHIỆN BẮT BUỘC . 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc . 7

1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc . 7

1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc . 8

1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc. 9

1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc. 12

1.3. Đối tượng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 13

1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc. 13

1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc . 16

1.3.3. Thẩm quyền quyết áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc . 18

1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc . 21

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. 30

Tiểu kết chương 1 . 32

pdf93 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 21/02/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rồng và hút thuốc phiện. Năm 2005, nghiện ma túy đã lan rộng và xuất hiện trên cả nước với số lượng 12.228 người; năm2015 là 200.134 người; đến tháng 6 năm 2016 là 20.334 người; đến tháng 6 năm 2017 là 21.654 người. Nghiện ma túy xuất hiện ở mọi thành phần của xã hội, mọi lứa tuổi, song chủ yếu ở lớp trẻ, theo khảo sát của Cục phòng chống tệ nạn xã hội, 76% trong tổng số người nghiện có độ tuổi dưới 35 tuổi; 60% số người nghiện sử dụng ma túy lần đầu dưới độ tuổi 25, trong đó có 8% sử dụng ma túy lần đầu ở độ tuổi dưới 18 [14, tr 55]. Tổng số người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên cả nước tăng qua từng năm, cụ thể theo báo cáo của Bộ tư pháp về công tác thi hành pháp luật về xử lý hành chính như sau: Biểu đồ 1. Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong cả nước. 1032 13157 14115 15132 17181 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 16000 18000 20000 2014 2015 2016 2017 2018 35 Nhìn chung, tình hình nghiện ma túy hiện nay đang diễn biến khá phức tạp, khó kiểm soát và gia tăng mạnh trên địa bàn cả nước. Tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cũng vậy, số người nghiện, sử dụng ma túy ở ngoài cộng đồng còn nhiều. Nếu không nhanh chóng đưa các đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì sẽ gây nên hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội. Nhận thấy đây là vấn đề rất nghiêm trọng, công an các xã, thị trấn trên địa bàn tổ chức nhiều đợt ra quân tuyên truyền phòng, chống ma túy ở các khu dân cư, trường học, trên địa bàn. Tuy nhiên, tỉ lệ người nghiện vẫn tăng mạnh qua các năm, cụ thể, theo báo cáo số 27/2018/BC-CA của Công an huyện Long Thành thể hiện: Tỷ lệ người nghiện năm 2018 tăng 7,3% so với năm 2017 và tăng 36% so với năm 2014. Các đối tượng nghiện lợi dụng khách sạn, nhà trọ, khu công nghiệp để mua bán và sử dụng ma túy diễn biến phức tạp. Địa bàn sử dụng trái phép chất ma túy có xu hướng chuyển từ nơi hoang vắng sang hoạt động trong các cơ sở lưu trú. Đa số người nghiện hoạt động sử dụng trái phép chất ma túy nhiều lần ở nhiều địa bàn khác nhau.Địa bàn phức tạp về tệ nạn ma túy thường là khu vực tập trung đông dân nhập cư, có nhiều khu công nghiệp. Người sử dụng ma túy ngày càng trẻ hóa. Chất ma túy được sử dụng trái phép có xu hướng chuyển dần từ heroin sang ma túy tổng hợp. Hình thức sử dụng cũng chuyển từ việc tiêm chích sang hút, hít chất ma túy. Các đối tượng sử dụng có xu hướng chuyển từ sử dụng cá nhân sang sử dụng chung nhiều người với nhau. Nguy hiểm hơn là xuất hiện một số loại ma túy mới, trong đó có loại ma túy không nằm trong danh mục các loại ma túy do Chính phủ quy định tình trạng nghiện ma túy tổng hợp, nhất là ma túy đá gia tăng do phần lớn thanh thiếu niên nhận thức sai lệch là sử dụng ma túy đá và "cỏ Mỹ" không gây nghiện. Trong khi ma túy tổng hợp, nhất là ma túy đá, thường tạo ra ảo giác mạnh và kéo dài, đối tượng sử dụng không kiểm 36 soát được nhận thức và hành vi, có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây hệ lụy lớn cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy, huyện Long Thành luôn quan tâm, chú trọng đến việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; trên địa bàn có một cơ sở điều trị nghiện của Thành phố Hồ Chí Minh, còn các đối tượng nghiện trên địa bàn sau khi có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được đưa vào cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai, có trụ sở tại xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Người bị nghiện sau khi đưa vào cơ sở điều trị nghiện được tổ chức điều trị cắt cơn giải độc theo đúng phác đồ điều trị; được phân loại, bố trí vào từng khu ở phù hợp như: khu dành riêng cho nữ, khu dành riêng cho cai nghiện tự nguyện, khu cai nghiện lần đầu... Học viên được học văn hóa, học nghề được thăm gặp gia đình, được xem xét giảm thời gian cai nghiện khi đạt kết quả phấn đấu rèn luyện tốt. 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành. 2.2.1. Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là nhiệm vụ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã với sự hỗ trợ của Công an xã. Tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, số người nghiện theo thống kê của Công an huyện Long Thành năm 2016 là 555 người, năm 2017 là 580 người và số người nghiện ngày càng gia tăng nhất là trong độ tuổi thanh thiếu niên, những người không có nghề nghiệp ổn định; trong đó trên 70% đối tượng nghiện trên địa bàn huyện sử dụng ma túy tổng hợp bằng hình thức hút chủ yếu; tập trung ở các xã, thị trấn như thị trấn Long Thành, xã An Phước, Phước Thái, Long Phước, Tân Hiệp; tuy nhiên, việc lập 37 0 10 20 30 40 50 60 70 Thị trấn Long Thành Xã An Phước Xã Phước Thái Xã Long Phước Xã Tân Hiệp 2016 2017 TT.Long Thành An Phước Phước Thái Long Phước Tân Hiệp 2016 52 22 45 34 29 2017 65 30 55 36 16 hồ sơ đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc lại chiếm tỷ lệ không cao, cụ thể: Biểu đồ 2. Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an huyện Long Thành Như vậy, Có thể nhận thấy thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều đối tượng nghiện nhất. Sỡ dĩ thị trấn Long Thành là địa bàn có nhiều người nghiện nhất vì đây là khu hành chính tập trung dân cư và gần các cụm khu công nghiệp lân cận, thu hút lượng dân nhập cư đông. Tại đây có nhiều nhà nghỉ, khách sạn giá rẻ mọc lên, giao thông thuận lợi cho việc mua bán ma túy nên rất thuận tiện cho các đối tượng thực hiện hành vi nghiện hút. Chính vì vậy mà đây là địa bàn có tỉ lệ người nghiện nhiều và tăng theo từng năm. Tiếp theo là xã Phước Thái, địa bàn có người nghiện chiếm thứ hai trong toàn huyện, lại tiếp giáp với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên các đối tượng tập trung đông tại đây. Tiếp đến là xã Long Phước, An Phước, Tân Hiệp. Còn lại 10 xã theo thống kê là không có người nghiện, tuy nhiên, đây chỉ là con số về mặt thống kê, trên thực tế ở các địa bàn trên người nghiện ma túy vẫn ngày một gia tăng. 38 Đến năm 2018, cơ quan Công an lập hồ sơ đề nghị áp dụng đối với 106 đối tượng, trong khi, số người nghiện còn bên ngoài cộng đồng là 620 người (theo báo cáo số 24/BC-CA ngày 02/01/2019 của Công an huyện Long Thành về việc xử lý các đối tượng nghiện). Sáu tháng đầu năm 2019, mặc dù, số lượng người nghiện vẫn tiếp tục tăng nhưng việc lập hồ sơ để áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn hạn chế. Từ những số liệu đã được phân tích ở trên, ta có thể nhận thấy rằng: - Cơ quan công an đã lập số lượng lớn đối với người bị nghiện cần được đi cai nhưng chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số người nghiện trên toàn huyện năm 2016 là 182/555; năm 2017 là 222/580. - Trên thực tế, số lượng người nghiện ngoài cộng đồng vẫn còn rất nhiều, số lượng người nghiện chưa bị phát hiện vẫn còn nhiều. Số người bị cơ quan công an lập hồ sơ chiếm tỉ lệ ít so với thực trạng ngoài xã hội. - Người nghiện không ngừng tăng qua các năm và tập trung ở một số địa bàn nhất định. Đối với thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì khoản 1 Điều 8 Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định về thời hạn xác định nơi cư trú của người bi phạm với thời gian là tối đa 15 ngày. Tuy nhiên, thực tế Công an các xã thị trấn trên địa bàn huyện không thực hiện đúng mà thường vi phạm thời hạn xác minh nơi cư trú dẫn đến thời gian lập hồ sơ bị kéo dài. Về xác định đối tượng nghiện vừa thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà có yếu tố “côn đồ hung hãn”, các cơ quan có thẩm quyền rất khó xác định thế nào là “côn đồ hung hãn” nên cơ quan lập hồ sơ, cơ quan đề nghị và cơ quan xem xét, áp dụng thường áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người bị đề nghị; cụ thể, theo báo cáo thống kê hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm 2016 (thời gian tính từ ngày 39 01/10/2015 đến hết ngày 30/9/2016), tổng số đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là 1317, trong đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 1312, đối tượng bị áp dụng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 2, đưa vào trường giáo dưỡng là 03; năm 2018 (thời gian tính từ ngày 01/10/2017 đến hết ngày 30/11/2018) thì tổng số đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là 870, trong đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 867, đối tượng bị áp dụng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc là 1, đưa vào trường giáo dưỡng là 02. Về độ tuổi người nghiện ma túy đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: Khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ 18 tuổi trở lên mà không có quy định về việc áp dụng biện pháp này đối người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi. Nhưng trong xu thế phát triển hiện nay, kéo theo hệ lụy là người nghiện ma túy và sử dụng ma túy dưới 18 tuổi ngày càng nhiều và có xu hướng gia tăng; cụ thể, tuổi trung bình sử dụng ma túy tại Hà Nội và Hải Phòng là 16, tại Thành phố Hồ Chí Minh là 17 tuổi, đáng chú ý có tới 30-40% vị thành niên từ 13 tuổi trở lên sử dụng ma túy đá. Tại tỉnh Sóc Trăng số người nghiện mà sử dụng ma túy dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 10,44% so với tổng số của người nghiện và liên quan đến ma túy [7, tr 14]. Còn tại tỉnh Đồng Nai, theo báo cáo thống kê này 30/12/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, người nghiện ma túy, sử dụng ma túy dưới 18 tuổi chiếm tỷ lệ 11.48% trong tổng số người nghiện và liên quan đến ma túy; trong đó, số người nghiện dưới 18 tuổi tại huyện Long Thành chiếm 7,4% trên tổng số người nghiện. Số đối tượng trên hiện đang ở cộng đồng và chưa có biện pháp nào để quản lý, cai nghiện; điều đó, ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và thể chất của đối tượng vị thành niên, mặt khác, lại ảnh hưởng đến tâm lý của cộng đồng dân cư, bởi lẽ nghiện hay sử dụng ma túy sẽ 40 kéo theo nhiều tệ nạn khác xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay các địa phương vẫn chưa có chế tài áp dụng đối với những đối tượng này. Về xác định tình trạng nghiện ma túy: Chính vì pháp luật chỉ quy định quy trình xác định tình trạng nghiện đối với hai nhóm chất dạng thuốc phiện OPIATS) và ma túy tổng hợp chất dạng AMPHETAMIN (ATS) nên có những trường hợp khi bắt giữ được đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không nằm trong hai nhóm chất trên nên không có sinh phẩm để xét nghiệm dẫn đến tình trạng cơ quan công an không tiến hành lập được hồ sơ đối với các đối tượng đó. Đối với thời gian để xác định tình trạng nghiện thì trên địa bàn huyện Long Thành thường tiếp nhận đối tượng và trả kết quả là Phiếu trả lời kết quả về việc xác định tình trạng nghiện ma túy trong cùng một ngày. Thực tế cho thấy, ở mỗi địa phương khác nhau thì sẽ có cách xác định tình trạng nghiện khác nhau. Tại Thành phố Hà Nội thì Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 7144/QĐ-UBND ngày 27/12/2014 ban hành Quy chế về trình tự, thủ tục thẩm quyền tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn Thành phố Hà Nội; theo đó, đối với các đối tượng đã có hồ sơ quản lý tại địa bà thành phố nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và hồ sơ chỉ cần chưa quá 03 năm thì bị xác định là người nghiện ma túy. Tại thành phố Đà Nẵng, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 28/2014/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; theo đó, đối với các đối tượng đã có hồ sơ quản lý tại địa bàn thành phố nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và hồ sơ chỉ cần chưa quá 04 năm thì bị xác định là người nghiện ma túy. Ngoài ra, cả hai địa phương đều quy định cách xác định nếu có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy và có bản khai báo của đối tượng hoặc thân nhân gia đình thì được xác định là người nghiện ma túy. Còn tại huyện Long Thành áp dụng theo Quy định số 08/2016/QĐ-UBND ngày 04 41 tháng 02 năm 2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc ban hành Quy chế phối hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; theo đó, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai việc xác định tình trạng nghiện thực hiện theo Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015. Về thủ tục giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp theo quy định: Tại Điều 131 Luật XLVPHC năm 2012 quy định giao cho gia đình, tổ chức quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Quy định trên thể hiện tính nhân văn; tuy nhiên lại gây nên nhiều khó khăn cho các địa phương. Trường hợp người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định giao cho gia đình quản lý trong thời gian làm thủ tục. Tại các địa phương và cụ thể là huyện Long Thành, trong thời gian lập hồ sơ cũng đã tiến hành giao cho gia đình người bị đề nghị về cho gia đình quản lý, nhưng cũng chính vì quy định này gây khó khăn rất lớn cho các cơ quan có thẩm quyền, và kể cả gia đình của đối tượng; bởi lẽ các đối tượng nghiện ma túy đều lệ thuộc nặng nề vào ma túy cả về tinh thần lẫn thể chất, họ thường có thái bộ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt việc đưa vào cơ sở cại nghiện bắt buộc mà gia đình lại là nơi che chở, đùm bọc họ nên gia đình rất khó quản lý. Hơn nữa, việc giao cho gia đình quản lý trong trường hợp người bị đề nghị bỏ trốn khi cơ quan công an chưa ra thông báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và chưa tống đạt được cho người bị đề nghị để họ có quyền đọc hồ sơ. Trường hợp này cơ quan Công an chưa biết xử lý như thế nào. 42 Đối với trường hợp người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, pháp luật xử lý hành chính quy định giao cho các tổ chức xã hội quản lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính.Tại Điều 14 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện mà tổ chức xã hội phải đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, nhân sự.Thực tế ở những thành phố lớn có tiềm năng về kinh tế cũng không thể đáp ứng được các điều kiện như pháp luật quy định cho tổ chức xã hội. Ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai thực tế không có tổ chức xã hội đáp ứng được các điều kiện trên nên những trường hợp bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định đưa vào khu xã hội của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai. Như vậy, vừa quản lý được người nghiện, vừa giúp họ cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện. 2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đề nghị áp dụng cai nghiện đối với người nghiện thuộc thẩm quyền của ngành lao động thương binh xã hội. Cho đến nay, ngoài các nhiệm vụ được giao, ngành đã phát huy và hoàn thành tốt vai trò của mình trong công cuộc giảm thiểu số người nghiện ngoài cộng đồng từ việc đề nghị áp dụng các biện pháp cai nghiện qua việc theo dõi sát sao các đối tượng bị nghiện, cai nghiện, tái nghiện trong các trung tâm, trong cơ sở giáo dục giáo dưỡng, tại gia đình và cộng đồng. Có thể thấy đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên và kiểm tra liên tục. Sau khi xem xét hồ sơ công an gửi qua, ngành Lao động-Thương binh- Xã hội đã phối hợp với cơ quan chức năng kiểm tra lại và phân loại các đối tượng cần đi cai nghiện bắt buộc hay áp dụng biện pháp cai nghiện theo các hình thức khác mà pháp luật quy định. Hiện nay Luật XLVPHC năm 2012 chỉ quy định các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao quyền cho cấp phó như Cưỡng 43 chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính; không quy định các chức danh có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, trong đó có biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được giao quyền cho cấp phó; vì thế, trong thực tế áp dụng có khó khăn vướng mắc vì một số trường hợp Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội đi công tác hay nghỉ phép dài ngày. Không thể thực hiện thẩm quyền của mình trong thời hạn luật định.Điều này dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền lúng túng, không biết xử lý thế nào. Tại huyện Long Thành, trường hợp này cũng đã xảy ra, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành giải quyết bằng cách đưa Phó phòng ký rồi chuyển hồ sơ qua Tòa án huyện. Theo quy định của pháp luật, việc thẩm định tính pháp lý của hồ sơ thuộc thẩm quyền của Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao động- Thương binh và Xã hội đối chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013với nội dung văn bản kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng tư pháp cấp huyện và có quyền yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ nếu không bổ sung được thì trả hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ đề nghị. Tuy nhiên trên thực tế, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội còn “dựa” nhiều vào văn bản kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp chứ chưa thực hiện việc kiểm tra, đối chiếu sát sao dẫn đến một số hồ sơ khi chuyển qua Tòa án sẽ bị trả lại hồ sơ. Cụ thể năm 2016, Tòa án nhân dân huyện Long Thành trả 5 hồ sơ lại cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội; năm 2017 số lượng hồ sơ giảm xuống còn 2, năm 2018 giảm còn 1 hồ sơ và sáu tháng đàu năm 2019 Tòa án nhân dân huyện Long Thành chưa trả hồ sơ nào cho Phòng lao động – Thương binh và xã hội; cụ thể như sau: Ví dụ 1. Ngày 14/7/2017, Phòng Lao động chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê Xuân Đông. Ngày 15/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý hồ 44 sơ trên. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Tòa án nhân dân huyện Long Thành nhận thấy Thông báo số 06/TB-PTP ngày 15/6/2017 của Phòng Tư pháp huyện Long Thành về việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và Văn bản số 301/LĐ-TBXH ngày 20/6/2017 của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành về việc đề nghị xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Lê Xuân Đông vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai đều do cấp Phó Trưởng phòng ký và đóng dấu. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 và Điều 13 của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì “Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra phải được thể hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội”và “2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: b) Văn bản đề nghị của Trưởng phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi cho Tòa án nhân dân cùng cấp”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 5 của Thông tư số 19/2015/TT-BTP ngày 28/12/2015 của Bộ Tư pháp thể hiện“, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị” và “3. Kết quả kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị phải được thể hiện bằng văn bản theo mẫu được ban hành kèm theo Thông tư này, có chữ ký của người có thẩm quyền kiểm tra và được đóng dấu của Phòng Tư pháp...”. Mặt khác, theo hướng dẫn tại Văn bản số 225/LĐ-TBXH ngày 10/5/2017 của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội về việc tiếp tục hướng dẫn Quy trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện tỉnh Đồng Nai thì người có thẩm quyền ký 45 đối với 02 văn bản nêu trên là Trưởng phòng Tư pháp và Trưởng phòng Lao động –Thương binh và Xã hội. Ngoài ra, hồ sơ đề nghị chưa đáp ứng đầy đủ tài liệu theo quy định pháp luật như sau: + Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “3. Sinh năm 1999”. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện phải từ đủ 18 tuổi trở lên nên cần ghi rõ ngày, tháng, năm sinh của Lê Xuân Đông để xác định Đông đã đủ 18 tuổi. + Tại bản tóm tắt lý lịch có ghi “17. Thời điểm chích ma túy lần đầu (ghi tháng, năm): 01/6/2017” nhưng tại “15. Hình thức sử dụng ma túy (nuốt, chích, hít): hít” có sự mâu thuẫn. Mặt khác, cần có sự thống nhất trong việc áp dụng biểu mẫu trong việc thực hiện hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giữa Thông tư số 14/2014/TT- BLĐTBXH ngày 12/6/2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Từ những nhận định trên Tòa án đã ra Thông báo số 01/TB.TA ngày 26/6/2017 trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành. Cùng thời điểm với hồ sơ trên Tòa án nhân dân ra Thông báo số 02/TB.TA ngày 26/6/2017 về việc trả hồ sơ cho Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Long Thành đối với hồ sơ Trần Ngọc Phú. Ngoài những lý do về thẩm quyền như ở ví dụ 1 thì đối với hồ sơ này còn có thêm một số nhận định để Tòa án trả hồ sơ như: + Tại mục 17 của bản tóm tắt lý lịch có ghi thời điểm sử dụng ma túy gần nhất: 14/5/2017. Tuy nhiên, theo bản tường trình, biên bản ghi lời khai của Trần Ngọc Phú, biên bản xét nghiệm chất ma túy và biên bản vi phạm 46 hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma túy đều thể hiện thời điểm Phúc sử dụng ma túy gần nhất là vào lúc 01 giờ ngày 15/5/2017. + Tại Phiếu xác minh tình trạng cư trú có thể hiện Phúc bị xử phạt tù 02 lần vào năm 2005 và năm 2016 và 01 lần bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Bố Lá vào năm 2012. Tuy nhiên, hồ sơ chỉ cung cấp 01 bản phô tô giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 515/GCN ngày 23/3/2016 ngoài ra không có tài liệu thể hiện việc Phúc bị xử phạt tù năm 2005 đã được xóa án tích hay chưa và cũng chưa cung cấp được giấy chứng nhận chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện Bố Lá năm 2012. + Tại biên bản ghi lời khai và bản tường trình thể hiện Phúc sinh ngày 15/11/1986 tại Bến Tre. Tuy nhiên, tại biên bản vi phạm hành chính có ghi “nguyên quán: Đồng Nai”và tại phiếu xác minh tình trạng cư trú có ghi “6. Nơi sinh: Tiền Giang. 7. Nguyên quán: Tiền Giang” là có sự mâu thuẫn. Những thiếu sót được nêu ra trong những Thông báo trả hồ sơ phần lớn là những thiếu sót từ giai đoạn lập hồ sơ đề nghị của Công an cấp xã; giai đoạn kiểm tra tính pháp lý của Phòng Tư pháp và đối chiếu, kiểm tra của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cần được chú trọng hơn để tránh những trường hợp bị Tòa án trả hồ sơ làm mất thời gian. Trong năm 2014, Phòng Lao đông – Thươn binh và xã hội có văn bản đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 01 đối tượng, năm 2015 đề nghị áp dụng với 4 đối tượng, năm 2016 đề nghị áp dụng 182 đối tượng, năm 2017 đề nghị áp dụng đối với 202 đối tượng, năm 2018 đề nghị áp dụng đối với 94 đối tượng, sáu tháng đầu năm 2019 đề nghị áp dụng đối với 62 đối tượng (theo báo cáo tống kết số 09/BC.TA ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành). Như vậy, có thể thấy số lượng hồ sơ Phòng Lao động Thương binh và Xã hội chuyển qua Tòa án huyện tăng từng năm; tuy nhiên, do vụ việc học 47 viên trốn khỏi Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai nên việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị hạn chế. Các đối tượng chủ yếu sẽ được quản lý tại địa phương, chỉ một số trường hợp gặp khó khăn nhất định trong việc quản lý mới lập hồ sơ đề nghị áp dụng. 2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng. Mặc dù, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2014. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến việc đưa đối tượng nghiện ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy vẫn chưa được thực hiện. Theo báo cáo tổng kết hàng năm của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, năm 2014 (tính theo thời gian là năm thi đua của ngành Tòa án từ tháng 10 năm 2013 đến 30 tháng 9 năm 2014) toàn tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_ap_dung_bien_phap_xu_ly_hanh_chinh_dua_vao_co_so_ca.pdf
Tài liệu liên quan