Luận văn Cảm hứng trữ tình - Sử thi trong thơ Lê Anh Xuân

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN . 3

MỤC LỤC . 4

DẪN NHẬP . 6

1. Lý do chọn đề tài.6

2. Giới hạn đề tài.7

3. Lịch sử vấn đề. .7

4. Phương pháp nghiên cứu. .19

5. Những đóng góp của luận văn. .20

6. Cấu trúc luận văn. .20

CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ CHỐNG MỸ

.21

1.1. Khái niệm cảm hứng trữ tình - sử thi. .21

1.1.1. Cảm hứng nghệ thuật.21

1.1.2. Cảm hứng trữ tình - sử thi. .24

1.2. Đặc điểm cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ chống Mỹ.27

1.2.1. Biên độ thời gian thơ chống Mỹ.27

1.2.2. Đặc điểm về tư tưởng tình cảm. .28

1.2.3. Đặc điểm về cái “tôi” trữ tình.32

1.2.4. Đặc điểm về giọng điệu nghệ thuật. .39

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ LÊ

ANH XUÂN. 48

2.1. Lê Anh Xuân, cuộc đời và hành trình thơ.48

2.1.1. Tiểu sử Lê Anh Xuân. .48

2.1.2. Hành trình thơ Lê Anh Xuân.49

2.2. Cơ sở hình thành cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân.52

2.2.1. Những yếu tố chủ quan.52

2.2.2. Những yếu tố khách quan.55

2.3. Nội dung cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân.57

2.3.1. Cảm hứng về quê hương đất nước. .57

2.3.2. Cảm hứng về con người và thời đại. .68

2.3.3. Cảm hứng về Đảng và lãnh tụ. .78

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG TRỮ TÌNH -

SỬ THI TRONG THƠ LÊ ANH XUÂN. 87

pdf135 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 928 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng trữ tình - Sử thi trong thơ Lê Anh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuân bao gồm hai yếu tố khách quan và chủ quan. Hai yếu tố này kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn với nhau. Không có một thời đại rực lửa đấu tranh “đất chật anh hùng” thì không thể có chất giọng hào sảng, hoành tráng trong thơ ca; nói như Dương Hương Ly: "Tỏa nắng cho thơ là triệu ánh mắt anh hùng". Tuy nhiên, trong sáng tác thơ ca, chủ thể luôn giữ vai trò chủ động, thơ là thế giới nội cảm, là tiếng vọng từ bên trong; nhà thơ không thể thu nhận âm hưởng thời đại một cách vô hồn, vô cảm, vì như vậy sẽ không có thơ. Do đó, đối với Lê Anh Xuân, những tố chất trữ tình vốn có kết hợp với tư duy lịch sử và sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, sự kế thừa truyền thống gia đình và quê hương đã tạo nên một hồn thơ vừa phảng phất cái giọng trong Lục Vân Tiên hoặc Ngư tiều y thuật vấn đáp lại vừa mang khí thế ra trận của thế kỷ hai mươi. Với những tư chất gần như bẩm sinh, tâm hồn thơ Lê Anh Xuân đã được cách mạng bồi đắp thêm những tố chất mới mẻ của thời đại bão táp: chất lý tưởng, chất chiến đấu, chất hùng tráng... nên đã tạo cho thơ ông một giọng điệu thấm đậm chất anh hùng ca, khiến ông trở thành một trong những người phát ngôn xứng đáng và tiêu biểu cho thế hệ mình, thời đại mình bằng thơ ca. 2.3. Nội dung cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân. 2.3.1. Cảm hứng về quê hương đất nước. Với Lê Anh Xuân, quê hương đất nước vừa khách thể về cảm nhận vừa đóng vai trò chủ thể khơi dòng cảm xúc. Thơ Lê Anh Xuân, trước hết là thơ của một con người sống và viết với tất cả những gì chân thực nhất, thiết tha nhất nơi lòng mình mà ông muốn gửi trọn cho đất nước quê hương. • Quê hương đất nước trong ký ức và nỗi khát khao. Đọc thơ Lê Anh Xuân, nhà phê bình Hoài Thanh đã rất tinh tế khi cho rằng: "Chúng ta sung sướng được gặp lại những hạt ngọc của ký ức" [80, tr.39]. Cảm hứng trữ tình sâu đậm nhất về quê hương trong thơ Lê Anh Xuân có lẽ cũng là quê hương trong ký ức. Thơ Lê Anh Xuân trĩu nặng lòng thương nhớ và chứa chan khát vọng trở về. Đành rằng thơ viết về quê hương không bao giờ thiếu nhưng ở Lê Anh Xuân, người đọc vẫn cảm thấy có cái gì đó rung cảm đặc biệt, trữ tình đặc biệt. Đọc thơ ông ta thấy ký ức về quê hương thực sự trở thành dòng chảy của cảm hứng, dòng chảy ấy dạt dào trong tập Tiếng gà gáy, tràn sang cả tập Hoa dừa và đọng lại ở Trường ca Nguyễn Văn Trỗi dưới dạng ký thác. Những ký ức trong thơ Lê Anh 58 Xuân luôn hồn nhiên, tươi tắn, vì đó là ký ức của tuổi thơ và vì người làm thơ vẫn còn giữ nguyên được cái tươi hồn nhiên trong sáng. Nỗi nhớ của Lê Anh Xuân rất cụ thể, hình ảnh quê hương thời thơ ấu hiện về như cơn mưa đầu mùa: Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông Ta lặn xuống, nghe xa vang tiếng sấm Nghe mưa rơi tiếng ấm, tiếng trong. (Nhớ mưa quê hương). Có thể nói, trở về với quê hương trong ký ức, trở về với tuổi thơ là nét nổi bật trong sáng tác nghệ thuật của Lê Anh Xuân. Những kỷ niệm thời thơ ấu cứ đi đi về về trong thơ ông với tất cả vẻ thi vị, trữ tình của nó. Lê Anh Xuân nhớ quê hương từ những cái nhỏ nhặt nhất trở đi. Những cái đó đối với ông hết sức gần gũi và đáng yêu: "Con đường làng cát lún chân em", "Con sông chảy trước nhà em", "Hàng dừa con lá dừa chấm tóc", "mấy lu nước ", "màu xanh lá dừa". Sự đột xuất vươn bay trong thơ Lê Anh Xuân cũng chính ở những cái nhỏ nhặt ấy, ông biết gắn vào những sự kiện còn nóng bỏng ý nghĩa thời sự, đồng thời luồn vào đấy hơi thở tình cảm chân thật của mình: Khi anh đi dưới bóng dừa xanh Anh có thấy bàn chân anh dịu mát Anh nhớ hôn dùm tôi lên từng khuôn mặt Của Má của Em đang đánh giặc ngày đêm Ra phía sau vườn anh thử nhìn xem Mấy lu nước còn đầy hay cạn Trên thân dừa có bao nhiêu vết đạn. (Gởi anh Giang Nam) Không riêng gì những bài thơ được sáng tác trên Miền Bắc, Lê Anh Xuân mới "muốn trở lại tuổi thơ" mà khi đã thực sự sống giữa lòng quê nội, nhà thơ vẫn không nguôi nhớ về thời thơ ấu. Trên thực tế, thời gian cuộc đời chỉ đi mà không trở lại, không ai có thể quay ngược vòng tạo hóa. Thế nhưng trong ký ức, trong nghệ thuật thì trở về tuổi thơ tức là trở về với quê 59 cha đất tổ, trở về với nơi ta cất tiếng khóc chào đời. Kỷ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp, êm đềm, hồn nhiên; quê hương trong tâm hồn tuổi thơ bao giờ cũng sâu sắc, in đậm dấu ấn theo suốt một đời người: Ôi những chiếc thuyền mo cau Đã chở tuổi thơ ra biển cả... Ôi chiếc thuyền mo cau Đang cùng ta đi đánh giặc (Dòng sông tuổi nhỏ) Lê Anh Xuân luôn đan xen giữa quá khứ êm đềm, đẹp đẽ với hiện tại gian khổ, anh hùng của quê hương mình. Vì thế, thơ ông dào dạt, chan chứa tình yêu quê cha đất tổ bằng một thứ tình yêu trong sáng, hồn nhiên, không gợn chút quằn quại đau đớn. Nỗi nhớ quê trong thơ ông không lạc lõng mà luôn gắn bó với những cái lớn lao hơn: quê hương, Tô quốc, nhân dân, cách mạng. Tập thơ Tiếng gà gáy có nỗi lòng da diết thấm sâu nhưng cũng có cả âm hưởng hào hùng, vang dậy : Có lúc bỗng phong ba dữ dội Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối Giấc mơ xưa có chớp giật sấm gầm, Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông Sau đồng khởi Bến Tre, với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng khắp và mạnh mẽ. Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân cũng trở nên sôi động, bùng cháy hơn. Bên cạnh những dòng thương nhớ đầy hoài niệm là khí thế tiến công bắt đầu trỗi dậy trên quê nhà: Bến Tre ơi dừa xanh soi bóng Thuyền tuổi thơ rẽ sóng năm nào Nay nghe đã căng buồm "giải phóng" Cờ mít tinh lồng lộng trên cao. (Những dòng sông anh hùng) 60 Phong trào cách mạng trên quê hương càng phát triển thì khát vọng trở về trong thơ Lê Anh Xuân cũng bùng cháy theo. Có thể nói, càng về cuối tập Tiếng gà gáy cảm hứng trở về hầu như choán hết hồn thơ Lê Anh Xuân. Ở đây có môtíp hóa thân. Nhà thơ muốn "hóa thành sông" để cùng bà con quê hương đi tranh đấu (Những dòng sông anh hùng) và cũng muốn hóa thành sông để "chảy trước nhà em" thật trữ tình, thơ mộng (Anh là con sông chảy trước nhà em): Anh là con sông chảy trước nhà em Em có nghe sóng vỗ ngày đêm... Anh vẫn bên em. Em có nghe không Tiếng sóng vỗ - tiếng lòng anh sâu thẳm Nhà thơ hóa thân đồng nghĩa với hành trình trở về, trong tâm khảm Lê Anh Xuân luôn vang vọng tiếng gọi của quê hương. Thật khó phân biệt được trạng thái thức - ngủ, khi toàn bộ đời sống tinh thần của nhà thơ đều thuộc về quê hương: Đã nhiều đêm ta không ngủ được Ta nghe tiếng chèo ghe mát nước Thấy mình đang ở giữa quê hương Cùng bà con tấp nập lên đường. Tất nhiên khát khao trở về là cốt để được hành động cách mạng, để được cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương. Thơ Lê Anh Xuân luôn ngân vọng điệp khúc trở về: Ta muốn về quê nội; Ta muốn trở lại tuổi thơ; Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha: Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá... Càng ngày niềm khát khao ấy càng thôi thúc, giục giã: "Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng / Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè" hoặc: "Bến Tre, Bến Tre mảnh đất quê cha /Đang gọi ta về tay cầm chắc súng" (Về Bến Tre). Và cũng từ khát vọng được cầm súng mà thơ Lê Anh Xuân trở nên khỏe khoắn, sôi nổi bên cạnh cái êm đềm, tươi mát. Ông muốn luyện sao cho ngòi bút của mình có thêm sức chiến đấu và sức mạnh khái quát. Có khi cảm hứng về quê hương đất nước lại được Lê Anh Xuân ký thác vào nhân vật trữ tình. Tuy cách biểu hiện có khác đi nhưng trước sau, nguồn cảm hứng ấy vẫn được vọng về từ ký ức, qua ký ức. Đó là nỗi nhớ quê của anh Trỗi trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Ở trường ca này, Lê Anh Xuân diễn tả rất sinh động đến não nùng những hoài niệm của nhân vật anh 61 hùng đối với quê hương mình. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước, những hoài niệm sâu thẳm ấy đã góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần để anh Trỗi đấu tranh không khoan nhượng với quân thù và sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng: Xa xăm ký ức hiện về Quảng Nam mưa nắng trời quê dãi dầm Xa Đà Nẵng đã mười năm Mà lòng anh vẫn nghe thầm tiếng kêu Nhìn chung, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân được hiện lên khá đậm nét qua ký ức, hoài niệm và nỗi khát khao. Có điều, hoài niệm chỉ là hoài niệm và cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn lao nếu chủ thể trữ tình chỉ đắm mình trong nỗi nhớ triền miên, bất lực. Lê Anh Xuân thì không thế, trong dòng hồi ức của ông, quê hương đất nước hiện về như một thần tượng vừa trữ tình, kỳ vĩ lại vừa rất chung thủy và cũng rất riêng. Thần tượng ấy luôn trỗi dậy, thôi thúc nhà thơ cần phải dấn thân, cống hiến; cần trở về với mảnh đất ông cha. Và nhờ vậy mà nhận thức của nhà thơ về Tổ quốc mình cũng ngày càng mở rộng và sâu đậm hơn. • Quê hương đất nước từ hành động dấn thân, cống hiến. Lê Anh Xuân khát khao không chỉ để mà khao khát, với ông, khát khao luôn đi liền với hành động dấn thân, cống hiến. Con người ấy thường tự trăn trở, tự quan sát, tự soi mình để sống sao cho xứng đáng với quê hương, làm gì cho quê hương: Sao em chết mà ta còn sống Ta đang nghe máu đọng trong tim Quê hương đang nước sôi lửa bỏng Lẽ nào ta lại sống bình yên? (Gửi Bến Tre) Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân tự nguyện Trở về quê nội đúng vào lúc lửa chiến tranh đang rực cháy trên quê nhà. Có thể nói, kể từ khi trở về với quê hương anh hùng, được trực tiếp chiêm ngưỡng và chiến đấu, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân đã phát triển lên một tầm vóc mới, mang một sắc diện mới. Nếu ở tập Tiếng gà gáy, quê hương vừa là hoài niệm, thiết tha trong xa cách; còn là nhớ nhung, tưởng tượng thì đến tập Hoa 62 dừa, cảm hứng ấy trở nên nóng bỏng khói lửa cuộc đời, phơi phới, đắm say và nồng nàn sắc màu sử thi hơn. Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân được xây dựng trên sự mến phục và niềm tự hào. Quê hương với người yêu nước tự bao giờ cũng đẹp. Nhưng quê hương trong mắt Lê Anh Xuân lại càng đẹp hơn bởi mảnh đất ấy đã lớn lên trong đau thương, trong chiến đấu. Sau hơn mười năm trở lại, nhà thơ vồ vập, đắm say trước sức sống dẻo dai mãnh liệt của quê hương mình: Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại Quê hương ta tất cả vẫn còn đây Dù người thân đã ngã xuống đất này (Trở về quê nội) Thật khó nói hết tình cảm của tác giả đối với đất mẹ quê hương. Dòng cảm hứng trong thơ Lê Anh Xuân cũng có thêm chiều sâu trữ tình mà trước đó chưa có. Trở về quê nội, nhà thơ đi chân đất, cho chân mình ngập trong bùn đất, bước trên những chồi non nhọn sắc mới mọc sau trận bom na-pan, để sống cái cảm giác trực tiếp gắn bó với đất, để nghe hơi thở ấm áp của đất, nghe thấm vào mình sự sống của đất mẹ quê hương. Trên đất mẹ, những vết chân nối tiếp nhau, vết chân của nhà thơ hồi nhỏ đã lẫn vào trong vết chân của anh bộ đội, của em giao liên ngày nay. Và giờ đây, bước chân của nhà thơ lại hòa vào bước chân của bao người anh hùng mới xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cứ thế, chiều sâu trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân bao giờ cũng gắn chặt với chất giọng hùng ca: Đất là mẹ của ta. Ôi ta yêu mẹ nhất Mẹ đã đẻ ra lớp lớp những anh hùng Mẹ nhớ mặt từng đứa con đã khuất Mẹ chôn vùi bao lũ giặc xâm lăng Mẹ cho ta, mẹ chẳng để lại gì cho mẹ cả Ôi những vườn sầu riêng, những vườn cam trĩu quả (Ta lại đi chân đất) 63 Tình yêu đất mẹ nặng trĩu trong lòng nhà thơ. Nhưng Lê Anh Xuân yêu quê hương không phải chỉ để ngắm, để nhìn quê hương mà ông đang cùng quê hương chiến đấu và lớn lên với quê hương. Nếu trước đây ông viết về phong trào cách mạng ở Miền Nam chỉ bằng trí tưởng tượng thì giờ đây ông có thêm sự trải nghiệm của bản thân. Ở tập Hoa dừa có hình ảnh của nhiều địa danh khác nhau trên vùng đất thành đồng. Ngoài Bến Tre dạt dào sức sống, anh dũng quật cường là "Chiều Ấp Bắc trong veo / Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt" mặc cho"Quân giặc đêm ngày vẫn giội bom trút đạn" (Qua Ấp Bắc), là An Đức "Trăng đang nhô lên sáng rực" soi bóng những người du kích đang luồn sâu vào lòng địch (Nhìn về An Đức), là Đồng Tháp Mười có "Bông sen trắng, bông sen hằng thơm ngát", có "cánh cò bay trong sắc trời lá mạ / Cá quẫy đầm sen thiết tha / Xôn xao bông súng nở xòa" (Anh đứng giữa Tháp Mười). Đó là dòng sông Cổ Chiên trong đêm chói lòa ánh lửa bởi em nhỏ giao liên ôm thủ pháo lao vào tàu giặc (Ánh lửa bên sông), là Sài Gòn "những phố hè, những hàng me xanh ngát" với "Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó / Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về "(Mùa xuân Sài Gòn, mùa xuân chiến thắng). Người đọc cảm thấy trong thơ Lê Anh Xuân có khí thế sục sôi của cách mạng Miền Nam trong những năm tháng ác liệt nhất: Không ở đâu đứng lên đánh Mỹ Như Miền Nam mười bốn triệu người Không ở đâu đứng bên chiến lũy Như Miền Nam hai chục năm rồi (Không đâu như ở Miền Nam) Bằng cái nhìn của người trong cuộc, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân ngày càng có thêm tầm khái quát và chiều sâu suy tưởng. Nếu Chế Lan Viên cảm nhận: "Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu" thì Lê Anh Xuân cũng bắt đầu nhận thấy: "Đánh Mỹ đã trở thành cuộc sống"; và ông đã nhìn cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam trên một tầm vóc mới: Miền Nam ơi ! Người là dũng sĩ Đang đứng canh cho cả trăm miền Khuôn mặt người sáng ngời chân lý.... (Không đâu như ở Miền Nam) 64 Thơ Lê Anh Xuân là tiếng lòng của người thanh niên giàu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng dấn thân cống hiến cho đất nước quê hương. Từ khi có mặt nơi chiến trường ác liệt, thơ Lê Anh Xuân trở nên khỏe khoắn, sinh động hẳn lên, đem đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ hẳn lên. Và do vậy, cảm hứng sáng tạo trong thơ ông cũng có một bước phát triển vượt bậc cả bề rộng lẫn chiều sâu. • Quê hương đất nước từ chiều kích không gian và thời gian. Nhà thơ cũng như mọi người, ai cũng có một quê cha đất tổ, một nơi chôn rau cắt rốn. Nơi ấy đã góp phần tạo nên chất giọng và lớn hơn là phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quê hương, nói như Đỗ Trung Quân: "mỗi người chỉ một như là chỉ một mẹ thôi". Nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì quê hương là không gian đã chở che, vỗ về để mỗi người lớn lên, lập thân, lập nghiệp. Hơn ai hết, nhà thơ là người giàu cảm xúc và luôn hướng tới quê hương theo chiều rộng không gian chứ không chỉ bó hẹp nơi sinh ra mình. Và như vậy, quê hương cũng là đất nước, là xứ sở mà tổ tiên đã ngàn đời dày công gây dựng và bảo vệ. Chế Lan Viên đã rất trữ tình và thuyết phục khi triết lý: "Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương". Lê Anh Xuân cũng vậy, ông có một vùng cảm hứng, có thể nói là rất mặn mà và có duyên. Đó là quê hương Nam Bộ và nhất là quê nội Bến Tre. Nhưng không ai phủ nhận cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân chỉ có ngần ấy. Nhà nghiên cứu Huỳnh Lý khẳng định: "Lê Anh Xuân yêu quê hương nhưng không địa phương chủ nghĩa." và giải thích thêm: "Một chàng trai trẻ yêu đời đã đi suốt Nam Bắc, tất không có lòng thiên vị không thấy còn chỗ nào đẹp nữa ngoài quê hương." [43,tr.61]. Thật vậy, đối với Lê Anh Xuân, quê hương đâu chỉ duy nhất là Bến Tre, nơi có ba con sông rồng bạc xòa chân ôm giữ những dải cù lao, quanh năm dừa xanh trĩu quả. Đối với ông, quê hương còn là Đà Lạt có bờ xanh lặng, có thác trắng gầm reo, có đồi thông dìu dịu mùi hương, có kỷ niệm êm đềm với cô gái vùng cao ngày nào còn "nhỏ xíu" nay đã "đứng lên như một anh hùng". Nhà thơ say sưa sống với hai chiều thời gian, hai chiều tâm trạng, nhưng trước hết là muốn được cùng em cầm súng gìn giữ đất nước quê hương: Muốn được theo em sớm chiều mưa nắng Muốn được cùng em cầm súng giữ làng Tuổi thơ xưa anh thích hồ xanh lặng Nay lòng anh như thác trắng gầm vang. 65 (Em đẹp nhất) Quê hương còn là rừng U Minh tràm đước bạt ngàn, nơi đã chở che cho những người yêu nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; là vùng Năm Căn đất mặn mồ hôi pha mùi nước bể, ngày khô tháng hạn thương nhau san sẻ từng ca nước ngọt, gian khổ đầu mùa chắt chiu từng giọt nước mưa. Ấy thế mà Lê Anh Xuân vẫn quý, vẫn yêu, vẫn nặng ân tình với dải đất Cà Mau: Ơi quê hương nơi mũi Cà Mau Đất mặn xót đau chân máu chảy Nghe trời cao gió giục mây dồn Nghe phập phồng đất thở tuổi non Nghe nước tràn dấu chân thành vũng. (Đất Miền Nam) Quê hương còn là Hà Nội - trái tim của cả nước. Lê Anh Xuân gắn với Hà Nội không chỉ nghĩa chung mà còn có thêm tình riêng nữa: Ôi Hà Nội đường thơm hoa sữa Em có nghe ngoài cửa cây xanh Đang rì rào tiếng vọng của anh. (Về đi em) Từ Miền Nam xa xôi, nhà thơ Chào Hà Nội, chào Thăng Long bằng niềm tự hào và tinh thần chia lửa: Hà Nội vì Miền Nam yêu thương, tiếp thêm sức mạnh cho Miền Nam đánh giặc: "Hà Nội ơi! Hà Nội ơi! / Một sắc trời thu kỳ diệu của Người / Cũng giúp Miền Nam đánh lui bóng tối". Và Miền Nam luôn hướng về Hà Nội, hướng về Thủ đô chung của cả nước mà chiến đấu: Chào Hà Nội, chào Thăng Long! Có chúng tôi trả thù cho Hà Nội Vào Đông Xuân, đường hành quân bước vội. Tinh thần ấy, cách Lê Anh Xuân hai mươi năm trước, nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ đã khẳng định bằng hai câu nổi tiếng: 66 Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Và rộng lớn hơn, quê hương của Lê Anh Xuân còn là cả Miền Bắc yêu thương, nơi đã gắn liền với bước trưởng thành của ông cả về tâm hồn lẫn thể chất. Có thể nói, Lê Anh Xuân là một trong số không nhiều nhà thơ lúc bấy giờ có những dòng ân nghĩa sâu sắc đối với Miền Bắc: Miền Bắc ơi! Sao tôi yêu quá Như yêu em, yêu má, yêu ba Xa quê hương Miền Bắc là nhà Tôi như lá xanh chen trong cành biếc. (Mười năm) Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân khi đã mở rộng về thời gian và không gian thì theo đó, nhận thức của nhà thơ cũng được nâng lên. Đó là nhận thức về một đất nước trọn vẹn từ: "Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang" đến: "Cà Mau cuối đất mỡ màng phù sa" (Trường ca Nguyễn Văn Trỗi). Nhà thơ yêu Miền Nam cũng như yêu Miền Bắc và yêu quê hương mình là yêu sự nghiệp trên cả hai miền đất nước. Cảm hứng về quê hương đất nước không tách rời chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà: Trong mỗi việc làm Trong từng giây suy nghĩ Chúng tôi đều đánh Mỹ Vì một ánh trăng xã hội chủ nghĩa đang rằm Soi sáng thành Thăng Long mặt nàng Kiều lấp lánh. (Chào Hà Nội chào Thăng Long) Một nét đặc sắc góp phần định hình nên hồn thơ Lê Anh Xuân, đó là cảm nhận đất nước từ chiều sâu tâm linh. Chiều kích này chỉ tồn tại trong thế giới nghệ thuật và chỉ có thể nắm bắt được bằng tình cảm chứ không thể đo đếm bằng thước tấc. Đây là hồn thiêng sông núi, là tiếng vọng của ông cha, là lịch sử trở mình sống dậy. Đọc thơ Lê Anh Xuân, ta như bắt gặp một nhà thơ trẻ luôn trầm tư lắng nghe quá khứ. Ông nghe: "Sóng Bạch Đằng 67 xưa", nghe "tiếng lịch sử cuồn cuộn triều dâng", "nghe gió ngàn xưa đang gọi/Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua nghe "lời cây cỏ gió mưa/Đang hát bài ca bất khuất ngàn xưa"... Lê Anh Xuân lắng nghe cốt để hiểu hiện tại, hiểu cuộc chiến đấu hôm nay. Ông nhìn cuộc kháng chiến chống Mỹ như một sự nối tiếp truyền thống cha ông: "Tay cầm súng, tay cầm lịch sử", "Lưng dựa vào lịch sử bốn ngàn năm " và ngay cả chiến công hôm nay cũng có phần của quá khứ: "Xác phản lực rơi cạnh mũi tên đồng". Lịch sử tiếp sức cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, và như vậy là lịch sử không ngủ yên, lịch sử đang được đánh thức, đang hành quân ra trận: "Tất cả giáo gươm trong viện bảo tàng / cũng náo nức xuống đường giết giặc. Trong tâm thức Lê Anh Xuân, nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu, tuy là người của thế kỷ trước mà như vẫn hiện hữu trong cuộc chiến đấu hôm nay, ngay trên quê hương nhà thơ: Ôi có phải nhà thơ Đồ Chiểu Từng ngâm thơ dưới rặng dừa này Tôi tưởng thấy nghĩa quân đuổi giặc Vừa qua đây còn lầy lội đường dây. (Dừa ơi) Như vậy, cảm hứng về quê hương trên trục thời gian, thơ Lê Anh Xuân luôn có sự kết nối giữa hôm qua với hôm nay, giữa truyền thống với hiện đại. Và khi đã tìm ra sự liên thông giữa các chiều kích thời gian trong lịch sử dân tộc thì sức mạnh của thời đại sẽ được nhân lên gấp bội. Chưa bao giờ trong thơ Lê Anh Xuân quá khứ và hiện tại lại quyện hoà trong một âm hưởng hào sảng, phấn chấn đến thế: Hỡi anh hùng ngàn năm dựng nước Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Quang Trung Tất cả hôm nay xuất trận trùng trùng Lớp lớp anh hùng tràn như sóng cuộn Trương Định cũng vượt Trương Sơn về đây bóng che Nhà hát lớn. (Chào Hà Nội, chào Thăng Long) Ở đây không chỉ là truyền thống chống ngoại xâm mà còn là truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc. Lê Anh Xuân cô đúc vẻ trầm mặc, cổ kính các di tích lịch sử văn hóa "Tháp Rùa, Đền Trấn Võ, Gò Đống Đa / Đẹp như dáng ông cha đang suy nghĩ". Đúng là tư duy nghệ 68 thuật của nhà thơ đã nhuốm màu lịch sử, hình tượng văn chương có thêm nét trầm tư lịch sử. Đọc thơ Lê Anh Xuân, nhà phê bình văn học Hoài Thanh cảm nhận: "Ta sẽ còn gặp lại nhiều lần trong thơ anh một cái nhìn có thể nói không dừng lại ở chiều dọc, chiều ngang của sự vật mà còn có thêm chiều sâu lịch sử"[80, tr.45]. 2.3.2. Cảm hứng về con người và thời đại. Con người vừa là đối tượng vừa là cứu cánh của văn học. Suy cho cùng, vấn đề cốt lõi, muôn thuở của văn học vẫn là con người. Tuy nhiên sự thể hiện con người trong văn học lại còn tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, từng thời đại cụ thể của nó: "Con người trong văn học dù là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, bao giờ vẫn là con đẻ của thời đại. Đặc điểm chung của thời đại có vai trò chi phối lớn đến diện mạo văn học một thời" [75, tr.6]. Cũng như các nhà thơ cùng thế hệ, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân không tách rời cảm hứng về con người và thời đại. Tất nhiên quan niệm về con người trong thơ Lê Anh Xuân cũng không nằm ngoài khuynh hướng trữ tình - sử thi của nền thơ chống Mỹ. Đó là con người cộng đồng, đậm dấu ấn thời đại; cụ thể là thời đại chống Mỹ, thời đại mỗi người tự nguyện hy sinh cái riêng cho cái chung; Tổ quốc trên hết. Ở họ vẻ đẹp hàng đầu là dám xả thân cứu nước và rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đồng thời cảm hứng về con người và thời đại trong thơ Lê Anh Xuân còn hướng tới những bản sắc Nam Bộ, thế giới nhân vật trong thơ ông, nhất là ở tập Hoa dừa đều là những con người mang đậm tính cách của vùng sông nước, thổ ngơi nơi cực nam Tổ quốc, ở xứ sở này, con người sống bộc trực, phóng khoáng, thích thực tiễn hơn lý luận, thích hành động hơn nói năng, coi trọng tình hơn lý... Họ đánh giặc giữ nước từ tầm vông, giáo mác: "Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ" (Nguyễn Đình Chiểu). Tất cả những tính cách ấy đều hiện hữu khá đậm trong các sáng tác của Lê Anh Xuân khiến cho nhân vật trữ tình trong thơ ông vừa có những nét cách tân hiện đại của thời chống Mỹ lại vừa kế thừa những nét truyền thống mà trước đây cụ Đồ Chiểu đã từng ngợi ca. Nhưng trước hết, tương ứng với cảm hứng về một quê hương rộng mở là sự hiện diện của con người khắp mọi miền của đất nước, đủ các thành phần lứa tuổi, trên cả mặt trận sản xuất và chiến đấu. Lê Anh Xuân viết về họ không chỉ để chiêm ngưỡng, ngợi ca mà còn muốn ký thác một niềm tâm sự, một quan niệm sống của mình. • Con người trong tập Tiếng gà gáy. 69 Tập thơ Tiếng gà gáy được Lê Anh Xuân viết trên quê hương Miền Bắc, trong thời điểm Miền Bắc rạo rực khí thế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Viết về sự nghiệp này là một trong hai đề tài lớn mà thơ ca thời ấy hướng tới. Lê Anh Xuân say sưa ca ngợi những con người lao động quên mình, khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, chắt chiu từng hạt thóc để xây dựng cơ đồ: Ôi đẹp làm sao các chị, các anh Buổi đầu tiên làm chủ đời mình Lưỡi cày mới cày lên mảnh đạn Trâu thiếu, người thưa, mất mùa, úng hạn. (Mười năm) Có khi nhà thơ cùng bà con Miền Bắc chống lũ lụt, vật lộn với giặc nước, tuy vất vả nhưng vẫn vui, vui do tìm được nguồn thơ từ lao động, hướng về cuộc sống và con người lao động: Nhớ những ngày chống úng gian lao Mưa xối trên đầu, nước dâng tận cổ Lòng tưởng đang ngâm trên cảnh đồng Nam Bộ (Mười năm) Ở tập Tiếng gà gáy, Lê Anh Xuân muốn dùng cảm xúc mãnh liệt như Mưa quê hương, muốn dùng tình cảm tươi mát, tràn trề như Những dòng sông anh hùng cuộn chảy để tác động vào trái tim người đọc; nên ông không lưu ý chạm trổ nên những hình tượng, vẽ lên những cuộc đời tương đối hoàn chỉnh trong một bài thơ. Nhưng nếu nhìn bao quát cả tập Tiếng gà gáy, nếu tổng hợp các hình tượng lại, ta vẫn thấy có một con người hoàn chỉnh: Em bé liên lạc "giục giã đôi chân", chị phụ nữ chít lại vành khăn, chuẩn bị "sáng này đi chống giặc"; những người anh, người cha "đã mang trong mình hai mảnh đạn, đã hai lần chống giặc ngoại xâm ". Tất cả những con người ấy đã hóa làm một, vụt lớn lên, mạnh mẽ như bức thành đồng: Con người Miền Nam ! Con người Miền Nam trong thơ Lê Anh Xuân lúc này đang hành quân, đang "đứng lên như những anh hùng". Nhà thơ như nghe được bước đi rầm rập của những người trên quê hương anh dũng, như đang thấy: "Mỗi bước đi nở một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_01_23_4023559301_7739_1869310.pdf
Tài liệu liên quan