DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU . ii
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN VĂN iii
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN v
MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT TỔNG QUAN . 4
1.1. Các nguyên tố đất hiếm . 4
1.1.1. Cấu hình điện tử và quang phổ của các nguyên tố đất hiếm . 4
1.1.2. Các mâu thuẫn trong quang phổ của ion RE3+. 5
1.1.3. Các mức năng lượng của ion RE3+ trong trường tinh thể . 6
1.1.4. Đặc điểm quang phổ của ion Sm3+ . 9
1.2. Thủy tinh pha tạp đất hiếm . 10
1.2.1. Khái niệm, tính chất và phân loại thủy tinh . 10
1.2.2. Cấu trúc và thành phần của thủy tinh . 12
1.2.3. Thủy tinh borate . 14
1.3. Cường độ của các chuyển dời f-f . 15
1.3.1. Lực vạch trong chuyển dời f-f . 15
1.3.2. Lực vạch của một chuyển dời lưỡng cực từ (MD) . 16
1.3.3. Lực vạch của một chuyển dời lưỡng cực điện . 17
1.4. Lý thuyết Judd-Ofelt . 19
1.4.1 Tóm tắt nguyên lý của lý thuyết JO . 19
1.4.2. Tính các thông số cường độ Ωλ. 20
1.4.3. Quá trình phân tích các thông số quang học theo lý thuyết JO . 22
CHƯƠNG II . 24
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN. 24
1.2. Phương pháp chế tạo thủy tinh . 24
2.2. Phương pháp nghiên cứu tính chất vật lý của vật liệu . 25
2.2.1. Đo chiết suất của vật liệu . 25
2.2.2. Đo khối lượng riêng của vật liệu . 26
2.3. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc vật liệu . 26
2.3.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X . 26
2.3.2. Phương pháp phổ tán xạ Raman . 27
2.3.3. Phổ hấp thụ hồng ngoại (FT-IR) . 28
2.4. Các phương pháp nghiên cứu tính chất quang của vật liệu . 29
2.4.1 Phương pháp phổ hấp thụ quang học . 29
2.4.2. Phương pháp phổ quang huỳnh quang, kích thích huỳnh quang . 30
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
67 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 536 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế tạo và khảo sát tính chất quang của thủy tinh alkali - Alumino - borate pha tạp Sm3+, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích. Toán tử 
lưỡng cực điện là toán tử lẻ đối với phép đảo qua một tâm. Các chuyển dời lưỡng 
cực điện trong cùng cấu hình sẽ bị cấm bởi quy tắc Laporte. Tuy nhiên, tương tác 
bất đối xứng tâm cho phép sự trộn các trạng thái ngược nhau của các điện tử. Trong 
trường hợp này, các chuyển dời thu được có cường độ nhỏ hơn nhiều so với các 
chuyển dời lưỡng cực điện thông thường. Chúng thường được gọi là các chuyển dời 
lưỡng cực điện cảm ứng. Đối với một chuyển dời ED, lực dao động tử có thể tính 
một cách đơn giản thông qua phổ hấp thụ theo công thức Smakula [18, 19]: 
ννε df ∫
−
×= )(10318,4 9
exp
 (1.10) 
18 
trong đó ε là hệ số hấp thụ phân tử (mol-1l cm-1) tại tần số ν. Đại lượng này được 
biểu diễn thông qua độ hấp thụ A bằng cách sử dụng định luật Lambert-Beer: 
 A = ε.C.d (1.11) 
 Như vậy, lực dao động tử của một chuyển dời ED có thể được tính bằng thực 
nghiệm thông qua phổ hấp thụ theo công thức [7, 8]: 
9
exp
4,318 10
f Ad
Cd
ν
−
×
= ∫ (1.12) 
 Trong đó ∫ νAd chính là diện tích của dải hấp thụ, d là chiều dài của đường 
truyền quang học, chính là bề dày mẫu, C (mol.dm-3) là nồng độ của các ion của đất 
hiếm pha tạp trong tinh thể, đại lượng này được tính theo công thức [19]: 
 δ××
×
= Z
NV
C
Au
27
10
 (1.13) 
 Trong đó Vu là kích thước ô mạng cơ sở của nền (Å
3), NA là số Avôgadro, δ 
là nồng độ mol % (ví dụ, nồng độ pha tạp là 5 mol % thì δ = 0,05), Z là số đơn vị 
cấu trúc trên một ô cơ sở. Trong các nền thủy tinh, chúng ta có thể tính nồng độ tạp 
theo công thức [19]: 
M
molRE
C
).(%2 3+
=
ρ
 (1.14) 
 Với ρ là khối lượng riêng của thủy tinh, M là khối lượng phân tử trung bình. 
Lực vạch S liên quan đến lực dao động tử f theo biểu thức [19, 23]: 
ed
e S
he
cm
f ν
pi
2
2
exp
8
= (1.15) 
 Đối với chuyển dời có sự tham gia của cả chuyển dời MD và ED thì lực vạch 
tổng cộng được tính theo công thức [19, 23]: 
mded
S
J
S
J
S
12
'
12
exp
+
+
+
=
χχ
 (1.16) 
trong đó χ và χ’ là các số hạng hiệu chỉnh cho môi trường điện môi: 
19 
,
9
)2( 22
n
n +
=χ n='χ (quá trình hấp thụ) (1.17) 
,
9
)2( 22 +
=
nn
χ 3' n=χ (quá trình phát xạ) (1.18) 
 Một vấn đề quan trọng là đưa ra biểu thức lý thuyết của lực vạch cho một 
chuyển dời lưỡng cực điện. Gọi P
 là toán tử lưỡng cực điện ( ∑−=
i
i
reP
), lực 
vạch cho một chuyển dời giữa hai trạng thái có hàm sóng lần lượt SLJMα và 
''''' MJLSα được đánh giá bằng biểu thức: 
2
''''' MJLSPSLJMS
ed
αα
= (1.19) 
 Tuy nhiên, việc tính toán lực vạch là không thể thực hiện vì quá phức tạp. 
Năm 1940, Racah đề ra phương pháp toán tử tensor để giải quyết định lượng các bài 
toán của quang phổ 4f cũng như các quang phổ các nguyên tử phức tạp. Mặc dù 
vậy, bài toán tính cường độ quang phổ của chuyển dời f-f vẫn không thể thực hiện 
vì có quá nhiều phần tử ma trận phải tính cho một chuyển dời. Ví dụ, ta xét các 
chuyển dời của 2 mức 5I8 và 
5H6 trong ion Ho
3+, để đánh giá được cường độ của 
chuyển dời này, chúng ta cần phải tính 1105 yếu tố ma trận riêng rẽ [17, 18], điều 
này hiển nhiên là không thể làm được. Tháng 8 năm 1962 hai tác giả người Mỹ là 
B. R. Judd và G. S. Ofelt đã đồng thời và độc lập đưa ra lý thuyết tính cường độ phổ 
quang học của các nguyên tố đất hiếm trong môi trường đông đặc. Từ đó, đã hình 
thành lý thuyết Judd-Ofelt về cường độ của phổ các ion đất hiếm [20, 21]. 
1.4. Lý thuyết Judd-Ofelt 
1.4.1 Tóm tắt nguyên lý của lý thuyết JO 
 Lý thuyết JO là lý thuyết bán thực nghiệm cho phép xác định một cách định 
lượng cường độ của các chuyển dời hấp thụ và huỳnh quang của các ion đất hiếm 
hóa trị 3. Thuyết này dựa trên mô hình mang 3 yếu tố gần đúng: trường tĩnh điện, 
ion tự do, cấu hình đơn [17, 18]. Trong mô hình trường tĩnh điện, ion trung tâm bị 
ảnh hưởng bởi các ion nền xung quanh thông qua trường tĩnh điện của trường 
ligand hay trường tinh thể. Trong mô hình ion tự do, người ta xem trường tinh thể 
20 
tĩnh của nền xung quanh như một nhiễu loạn của Hamiltonian ion tự do. Trong gần 
đúng cấu hình đơn, sự tương tác của các điện tử giữa các cấu hình khác nhau (4f, 
5d) là không đáng kể, ở đây ta xem cấu hình 4f không bị ảnh hưởng của các cấu 
hình khác. Như vậy, lý thuyết JO rất phù hợp để miêu tả cường độ phổ của các 
lanthanide, actinide trong chất rắn và chất lỏng. Giá trị của lý thuyết JO là ở chỗ nó 
đã chỉ ra một biểu thức lý thuyết khá đơn giản cho lực vạch S. Theo lý thuyết JO, 
lực vạch (Sed) và lực dao động tử (fed) của chuyển dời MD từ trạng thái đầu (J) sang 
trạng thái cuối (J’) của ion RE3+ trong quá trình hấp thụ được tính theo các công 
thức[18, 19]: 
2
)(λ
λ
λ
US
ed ∑Ω= (1.20) 
2
2 2
2
( )8 2
3 (2 1) 3
ed
mc n
f n U
h J n
λ
λ
λ
pi
Ω
λ
 +
=  
+  
∑ (1.21) 
 Trong đó: J là mô men góc tổng cộng ở trạng thái đầu; λ là bước sóng ở đỉnh 
của dải hấp thụ; số hạng (2J + 1) trong phương trình (1.25) hàm ý rằng các điện tử 
phân bố đều trên các mức Stark; ( )U λ là yếu tố ma trận rút gọn kép của toán tử 
tensor đơn vị hạng λ (λ = 2,4,6) giữa hai mức J và J’ trong ion RE3+. Giá trị U(λ) ứng 
với chuyển dời giữa hai mức nào đó của cùng một ion RE3+ là như nhau dù đó là 
quá trình hấp thụ hay phát xạ, chúng gần như không phụ thuộc vào nền và có thể tra 
trong tài liệu [33]; Ωλ là thông số cường độ, đại lượng này tỷ lệ với số hạng 
2
4 4
t
tp
nl
A f r nl nl r f
E∆
 (1.22) 
với Atp là các số hạng bậc lẻ trong khai triển trường tinh thể; ∆Enl là sự chênh lệch 
năng lượng giữa các cấu hình 4f và các cấu hình kích thích 4fn-1nl1, các số hạng ở tử 
số là các tích phân bán kính, với r là phần bán kính của hàm số sóng gần đúng một 
điện tử, t = λ ± 1. 
1.4.2. Tính các thông số cường độ Ωλ 
 Ưu điểm rất lớn của thông số cường độ Ωλ là chỉ phụ thuộc vào loại đất hiếm 
và mạng nền mà không phụ thuộc vào chuyển dời cụ thể nào [17, 18]. Vì vậy: chỉ 
21 
với một hệ ba thông số Ωλ, chúng có thể mô tả tất cả các quá trình hấp thụ và huỳnh 
quang giữa hai mức năng lượng bất kỳ của ion RE3+, kể các các chuyển dời mà các 
thiết bị không ghi nhận được [19, 23]. Do đó, việc tính các thông số này là vấn đề 
cốt lõi trong lý thuyết Judd-Ofelt. Các thông số cường độ Ωλ thường được tính từ 
phổ hấp thụ nhưng đôi khi có thể tính từ phổ huỳnh quang (trường hợp Europium) 
[28]. Hệ đơn vị dùng trong các tính toán là hệ CGS (centimet, gam, giây) [19]. 
Trường hợp tính các thông số cường độ Ωλ thông qua hấp thụ, chúng ta cần biết ít 
nhất ba chuyển dời hấp thụ, mặc dù vậy kết quả càng đáng tin cậy nếu số dải hấp 
thụ càng nhiều [23]. Sử dụng phương trình (1.12), chúng ta tính được lực dao động 
tử thực nghiệm,fexp, cho mỗi chuyển dời. Thay các giá trị này vào phương trình 
(1.22), ta thu được hệ [23]: 
 )6(
16
)4(
14
)2(
12
exp
1
UUU Ω+Ω+Ω=∆ 
 )6(
26
)4(
24
)2(
22
exp
2
UUU Ω+Ω+Ω=∆ (1.23) 
 .. 
 )6(
6
)4(
4
)2(
2
exp
nnnn
UUU Ω+Ω+Ω=∆ 
trong đó 
 +
+
=∆
2
22
exp
exp
3
2
)12(3
8
/
n
n
n
Jh
mc
f
λ
pi
 (1.24) 
 Sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu để tìm các giá trị của Ωλ. Sau 
đó, thay giá trị của Ωλ vào phương trình (1.22), ta sẽ thu được các giá trị của lực 
dao động tử chính xác hơn lực dao động tử thực nghiệm, đại lượng này được gọi là 
lực dao động tử tính toán, fcal. Sai số của tính toán được đánh giá theo công thức: 
( )
1/2
2
exp
3
cal
i
f f
RMS
N
 −
 
=  
− 
 
∑
 (1.25) 
22 
1.4.3. Quá trình phân tích các thông số quang học theo lý thuyết JO 
 Sau khi xác định được các thông số Ωλ, cùng với chiết suất của vật liệu, ta 
có thể tiên đoán được một số tính chất phát xạ quan trọng và một số đặc điểm về 
cấu trúc của vật liệu như [23]: 
 - Xác suất chuyển dời của các vạch phát xạ, AJ’J 
 - Tỷ lệ phân nhánh của phổ huỳnh quang, βR 
 - Thời gian sống của các vạch huỳnh quang, τR 
 - Tiết diện ngang phát xạ cưỡng bức của của một chuyển dời σ(λp) 
 - Tiết diện phát xạ tích phân của một chuyển dời, ΣJJ’. 
 Ý nghĩa của các đại lượng đó được giải thích như sau: 
 Lực dao động tử và xác suất chuyển dời: Cường độ của một chuyển dời hấp 
thụ được đặc trưng bởi lực dao động tử f(JJ’). Cường độ huỳnh quang từ mức kích 
thích J xuống mức J’ thấp hơn tỉ lệ với xác suất chuyển dời AJJ’. Mỗi chuyển dời có 
thể chứa cả các chuyển dời dipole điện và dipole từ nên ta có [19, 23]: 
+
 +
+
=+=
mdedmded
SnS
n
n
Jhc
AAJJA
3
2
2
3
34
3
2
)1'2(3
64
),'(
νpi
 (1.26) 
+
+
+
=+=
mdedmded
nSS
n
n
Jhe
m
ffJJf
9
)2(
)12(3
8
)',(
22
2
2
νpi
 (1.27) 
trong đó, ν là tần số của chuyển dời, n là chiết suất của vật liệu. 
Xác suất chuyển dời tổng cộng từ một trạng thái kích thích nào đó đến tất cả các 
mức dưới được cho bởi công thức [17, 18]: 
∑=
'
'
)(
J
JJT
AJA (1.28) 
 Thời gian sống của mức kích thích J được tính bởi [21]: 
)(
1
)(
JA
J
T
R
=τ (1.29) 
 Hiệu suất lượng tử: để đánh giá hiệu suất phát quang của một vật liệu, 
chúng ta có thể sử dụng khái niệm hiệu suất lượng tử. Đại lượng này được đo bằng 
tỉ số giữa số photon phát ra và số photon bị vật liệu hấp thụ trong trong cùng thời 
23 
gian. Lý thuyết Judd-Ofelt đã chỉ ra rằng hiệu suất lượng tử chính là tỉ số thời gian 
sống thực nghiệm và thời gian sống được tính theo lý thuyết [19]: 
cal
τ
τ
η
exp
= (1.30) 
Hiệu suất lượng tử thường nhỏ hơn 1, do thời gian sống thực nghiệm nhỏ hơn thời 
gian sống tính toán. Sự khác nhau giữa tính toán và thực nghiệm liên quan đến các 
quá trình chuyển dời không phát xạ (bao gồm phục hồi đa phonon và truyền năng 
lượng). Thời gian sống thực nghiệm, τexp, bao gồm tất cả các quá trình phục hồi 
(phát xạ và không phát xạ), trong khi giá trị tính toán, τcal, chỉ liên quan đến quá 
trình phục hồi phát xạ. 
 Tỷ số phân nhánh: được dùng tiên đoán cường độ tương đối của tất cả các 
vạch huỳnh quang phát sinh từ mức kích thích đã cho, kể cả các chuyển dời không 
bức xạ mà các máy quang phổ không ghi nhận được. Tỉ số phân nhánh thực nghiệm 
có thể xác định bằng diện tích tương đối của các vạch huỳnh quang [18, 19] 
)(
)'( '
JA
A
JJ
T
JJ
R
=→β (1.31) 
 Tiết diện ngang bức xạ cưỡng bức đỉnh, σ(λp) và tiết diện phát xạ tích 
phân, Σjj’: đặc trưng cho khả năng phát xạ cưỡng bức (tức là bức xạ laser) của một 
chuyển dời phát xạ nào đó. Các đại lượng này được xác định theo các công thức sau 
[23]: 
'2
4
8
)(
JJ
eff
P
P
A
cn 
∆
=
λpi
λ
λσ (1.32) 
'2
2
'
8
JJJJ
A
cnpi
λ
=Σ (1.33) 
trong đó, λp (nm) là bước sóng của bức xạ đỉnh và ∆λeff (nm) là độ rộng vạch hiệu 
dụng của chuyển dời tìm được bằng cách chia diện tích của dải huỳnh quang cho độ 
cao trung bình của nó. 
24 
CHƯƠNG II 
CÁC PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN 
 Chương này trình bày phương pháp chế tạo thủy tinh và một số phương pháp 
nghiên cứu tính chất vật lý, cấu trúc, tính chất quan như: Đo khối lượng riêng và 
chiết suất vật liệu; nhiễu xạ tia X; hấp thụ hồng ngoại và Raman; đo phổ hấp thụ, 
huỳnh quang và thời gian sống. 
1.2. Phương pháp chế tạo thủy tinh 
 Theo các công bố gần đây, vật liệu quang học dạng thủy tinh chủ yếu được 
chế tạo theo phương pháp nóng chảy [12, 13, 23, 28]. Ngoài ra, một số thủy tinh 
như alumino-silicate có thể chế tạo bằng phương pháp sol-gel [34]. Trong phương 
pháp nóng chảy, có hai quy trình là nung nóng chảy hai lần và nung chảy một lần. 
Trong quy trình thứ nhất: đầu tiên nền thủy tinh được chế tạo, sau đó mẫu được 
nghiền mịn và bổ sung tạp đất hiếm rồi lại nung nóng chảy lần hai [35]. Với quy 
trình thứ hai: hỗn hợp các tiền chất và tạp được nghiền mịn và nung nóng chảy một 
lần [12, 13, 14, 15, 16, 23, 28]. Thủy tinh vô cơ với thành phần hình thành mạng 
chính là B2O3 thường được chế tạo bằng phương pháp nóng chảy một lần [13, 15, 
30, 32]. Trong đó, các tiền chất thường là hỗn hợp các oxit hay muối vô cơ kim 
loại, ví dụ như Al2O3, B2O3, SiO2, Na2CO3, CaCO3, NaF, CaF, Eu2O3, Sm2O3, 
Dy2O3 nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp phụ thuộc vào tỉ lệ các hợp phần và có giá 
trị trong khoảng từ 900 đến 1450 oC [30, 32, 35, 37, 41, 44, 45]. 
Trong luận văn này, chúng tôi thực hiện chế tạo và nghiên cứu tính chất quang của 
thủy tinh alkali-alumino-borate pha tạp ion Sm3+, với các thành phần là: 
(70-x)B2O3+10PbO+10Na2O+10Al2O3+xSm2O3 
Trong đó, x = 0,1; 0,5; 1,0; 2,0 và 3,0 mol%, ký hiệu BPNA. 
Hình 2.1. Quy trình chế tạo thủy tinh BTNA bằng phương pháp nóng chảy 
25 
 Dựa trên việc tham khảo quy trình chế tạo thủy tinh với các nền tương tự 
[35, 37, 44, 45 ] và điều kiện phòng thí nghiệm, chúng tôi chọn phương pháp nóng 
chảy để chế tạo vật liệu. Các mẫu được chế tạo theo quy trình được biểu diễn trên 
hình 2.1. Các hoá chất ban đầu gồm B2O3, TeO2, PbO, Al2O3 và Sm2O3 của hãng 
Aldrich, có độ sạch 4N, được cân theo tỉ lệ dự kiến. Hỗn hợp được trộn đều trong 
cối sứ sau đó nung ở nhiệt độ 1250 oC trong 1 giờ trong hệ lò nung có điều khiển 
thời gian và nhiệt độ (hình 2.2). Sau đó sản phẩm được làm nguội đến nhiệt độ 
phòng. Tiếp theo, mẫu được ủ nhiệt 350 oC trong 6 giờ nhằm tăng cường độ ổn định 
của các liên kết đồng thời tạo sự đồng nhất về phân bố mật độ khối của thủy tinh. 
Sản phẩm thủy tinh thu được sau khi ủ có độ trong suốt cao. Cuối cùng các mẫu có 
kích thước đủ lớn được chọn để cắt, mài và đánh bóng phục vụ cho các phép đo 
quang học, một phần khác được nghiền nhỏ để đo phổ hấp thụ hồng ngoại và nhiễu 
xạ tia X. 
Hình 2.2. Hệ lò chế tạo mẫu tại khoa Năng Lượng, trường Đại học Thủy Lợi 
2.2. Phương pháp nghiên cứu tính chất vật lý của vật liệu 
2.2.1. Đo chiết suất của vật liệu 
 Trong việc khảo sát tính chất quang của vật liệu theo lý thuyết JO, chiết suất 
làm một thông số quan trọng. Vật liệu có chiết suất lớn thường có các thông số phát 
xạ lớn. Chiết suất n của một vật liệu là tỷ số giữa tốc độ ánh sáng trong chân không 
và tốc độ pha của ánh sáng trong vật liệu đó n = c/v. Chiết suất của các mẫu sử dụng 
trong luận văn được đo tại Công ty Vàng bạc đá quí DOJI, bằng khúc xạ kế 
26 
Eickhorst SR 0,005 Refractometer, sử dụng bước sóng 589,3 nm của đèn Natri, chất 
lỏng 1- bromonaphthalin được sử dụng làm chất tiếp xúc. 
2.2.2. Đo khối lượng riêng của vật liệu 
 Khối lượng riêng cũng là là một thông số vật lý quan trọng, từ đại lượng này, 
chúng ta có thể tính được nồng độ của các ion tạp trong vật liệu. Phép đo khối 
lượng riêng được thực hiện tại Công ty Vàng bạc đá quí DOJI theo phương pháp 
Archimede, sử dụng nước nguyên chất làm chất lỏng ngâm mẫu. Theo phương pháp 
này, mẫu được cân bằng cân điện tử, khối lượng thu được là m, sau đó ngâm mẫu 
vào nước nguyên chất và cân khối lượng m’ của mẫu lúc này. Khối lượng riêng của 
vật liệu được tính theo công thức [23]: 
0
'
ρρ
mm
m
−
= (2.2) 
trong đó ρ0 = 1000 g/dm
3 là khối lượng riêng của nước nguyên chất. 
2.3. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc vật liệu 
2.3.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X 
 Nhiễu xạ tia X (XRD) là phương pháp rất hữu ích trong việc xác định cấu 
trúc pha của các vật liệu dạng tinh thể. Mỗi loại tinh thể có một bộ vạch nhiễu xạ 
đặc trưng (thẻ chuẩn). Việc so sánh giản đồ XRD của mẫu chế tạo với thẻ chuẩn sẽ 
cho phép kết luận về chất lượng của vật liệu, từ đó có thể xác định được các hằng số 
mạng và thể tích của ô đơn vị [1, 2, 3, 23]. Tuy nhiên, vật liệu thủy tinh có cấu trúc 
vô định hình do đó không có bộ vạch đặc trưng. Thủy tinh là vật liệu vô định hình 
nên không có các vạch đặc trưng trong ảnh nhiễu xạ tia X, do đó không thể dùng 
phương pháp này nghiên cứu cấu trúc. Với vật liệu này, giản đồ XRD xuất hiện các 
dải nhiễu xạ rộng, đặc trưng của vật liệu vô định hình (hình 2.4). Như vậy, mục đích 
của việc sử dụng phương pháp nhiễu xạ tia X cho thủy tinh chỉ đơn giản là đánh giá 
xem với quy trình chế tạo như đã chọn, hỗn hợp các chất ban đầu đã chuyển pha 
dạng thủy tinh hoàn toàn chưa [12, 13, 14, 15, 23].. 
 Phép đo nhiễu xạ tia X các mẫu sử dụng trong luận văn được thực hiện trên 
nhiễu xạ kế tia X D5000 của hãng Siemens tại Trung tâm Khoa học Vật liệu, Khoa 
27 
Vật lý, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (hình 2.3). 
Bức xạ kích thích là tia X Cu-Kα có bước sóng 1,54056 Å 
Hình 2.3. Hệ đo ảnh nhiễu xạ tia X D5000 
tại trường Đại học Quốc Gia Hà Nội. 
Hình 2.4. Ảnh nhiễu xạ tia X của thủy 
tinh boro-tellurite [12]. 
2.3.2. Phương pháp phổ tán xạ Raman 
 Chúng ta biết rằng vật chất ở dạng rắn như các thinh thể hoặc thủy tinh được 
xây dựng từ các nhóm cấu trúc đặc trưng cho vật liệu. Ví dụ, mạng thủy tinh borate 
được xây dựng từ các nhóm cấu trúc đơn vị [BO3] và [BO4], các nhóm này liên kết 
với nhau tạo ra các nhóm cấu trúc đặc trưng. Mỗi nhóm có thể tham gia nhiều kiểu 
dao động như kéo căng hoặc uốn cong.... Mỗi kiểu dao động có một tần số riêng, 
các tần số này có thể tính được từ lý thuyết nhóm. Phương pháp quang phổ tán xạ 
Raman được sử dụng trong vật lý để tìm ra tần số của các dao động xuất hiện trong 
chất rắn, từ đó khẳng định sự có mặt của các nhóm cấu trúc trong vật liệu. Phương 
pháp này cũng có thể dễ dàng thực hiện trên những mẫu ở thể lỏng, thể khí và 
những mẫu ở nhiệt độ cao hay trong dung dịch pha loãng...mà không cần phá mẫu. 
 Cơ sở của phương pháp này là dựa trên quá trình tán xạ không đàn hồi của 
các photon trên các nhóm cấu trúc của vật liệu. Khi ánh sáng có bước sóng λ0 
(tương ứng với photon có năng lượng hν0) được chiếu tới mẫu, 3 quá trình tán xạ có 
thể xảy ra như sau: (1) Photon tán xạ có năng lượng bằng năng lượng của photon 
tới, trường hợp này được gọi là tán xạ Rayleigh; (2) Photon tới mất mát năng lượng 
trên dao động (có năng lượng là hνv) thì photon tán xạ có năng lượng h(ν0-νv), nhỏ 
hơn năng lượng của photon kích thích. Vạch tán xạ được gọi là vạch tán xạ Raman 
28 
Stokes; (3) Photon tới nhận thêm năng lượng từ dao động trong mẫu vật thì photon 
tán xạ có năng lượng h(ν0+ νv), lớn hơn năng lượng của photon kích thích. Vạch tán 
xạ được gọi là vạch tán xạ Raman anti-Stokes. 
Hình 2.5. Hệ đo phổ tán xạ Rama XPLORA 
tại Đại học Duy Tân, Đà Nẵng. 
Hình 2.6. Hệ đo phổ hồng ngoại Jasco-
FTIR 6300 tại Đại học Quốc Gia Hà Nội 
2.3.3. Phổ hấp thụ hồng ngoại (FT-IR) 
 Tương tự như phương pháp tán xạ Raman, phương pháp phân tích theo phổ 
hồng ngoại cũng được sử dụng một cách hiệu quá trong việc xác định các nhóm cấu 
trúc trong vật liệu. Cơ sở của phương pháp này dựa trên sự hấp thụ năng lượng cộng 
hưởng của các phân tử hay nhóm nguyên tử khi năng lượng tới bằng năng lượng 
dao động của chúng. Một phân tử hay nhóm phân tử chỉ hấp thụ ánh sáng có năng 
lượng đúng bằng năng lượng dao động riêng của nó. Do đó, căn cứ vào các dải hấp 
thụ, chúng ta cũng xác định được sự tồn tại của các nhóm cấu trúc trong vật liệu. 
Phép đo phổ hồng ngoại của chúng tôi được thực hiện trên thiết bị JASCO-FT/IR 
6300 tại trung tâm Khoa học Vật liệu, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội (hình 2.6). 
Dải đo của thiết bị từ 4000 cm-1 đến 400 cm-1 với độ phân giải số sóng là 4 cm-1. 
Mẫu đo phải được nghiền mịn, sau đó trộn với hợp chất KBr và được ép thành viên, 
tỉ lệ trộn theo khối lượng mẫu/KBr là 1:50. Phổ thu được là đường cong có các cực 
đại biểu diễn độ hấp thụ của mẫu phụ thuộc vào năng lượng. 
 Phương pháp phân tích theo phổ tán xạ Raman và hấp thụ hồng ngoại là một 
trong những phương pháp phân tích phổ dao động hiệu quả. Phổ tán xạ Raman tích 
cực với các trường hợp có sự biến thiên độ phân cực, trong khi phổ hấp thụ hồng 
29 
ngoại chỉ tích cực với các trường hợp gây ra độ biến thiên lưỡng cực. Như vậy, hai 
phương pháp phổ Raman và hấp thụ hồng ngoại bổ hỗ trợ rất tốt cho nhau trong 
việc nghiên cứu cấu trúc của vật liệu. Hình 2.7 trình bày phổ tán xạ FTIR và phổ 
Raman của thủy tinh lead borate [37]. Một số mode dao động xuất hiện trong cả hai 
phổ, tuy nhiên một số mode chỉ xuất hiện trong phổ FTIR hoặc phổ Raman. Như 
vậy, hai phổ này có thể bổ trợ cho nhau để đưa ra bức tranh hoàn chỉnh về các nhóm 
cấu trúc trong vật liệu. 
Hình 2.7. Phổ FTIR và phổ Raman của thủy tinh lead borate [37]. 
2.4. Các phương pháp nghiên cứu tính chất quang của vật liệu 
2.4.1 Phương pháp phổ hấp thụ quang học 
 Phổ hấp thụ UV-Vis của vật liệu cung cấp nhiều thông tin quan trọng như 
bản chất tâm hấp thụ, nồng độ tâm hấp thụ. Đối với các ion đất hiếm, phổ hấp thụ 
còn cung cấp các thông tin về cấu trúc các mức năng lượng. Ngoài ra, từ phổ hấp 
thụ chúng ta còn tính được lực dao động tử của một chuyển dời bất kỳ, đại lượng 
này đặc trưng cho cường độ của dải hấp thụ. 
 Phổ hấp thụ của các mẫu thủy tinh pha tạp ion Sm3+ đã chế tạo được đo trên 
hệ thiết bị UV-VIS-NIR, Cary-5000, Varian USA (hình 2.8), tại trung tâm Khoa 
Học Vật Liệu, trường Đại học Khoa Học Tự Nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội. 
30 
Thiết bị UV-VIS-NIR, Cary 5000 hoạt động dựa trên nguyên lý của hệ đo 2 chùm 
tia, dải đo từ 200-2000 nm, độ phân dải ± 1 nm. 
Hình 2.8. Thiết bị đo phổ hấp thụ Carry 
5000, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội. 
Hình 2.9: Hệ đo phổ phát quang FL3–22 , 
trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng 
2.4.2. Phương pháp phổ quang huỳnh quang, kích thích huỳnh quang 
 Để thu được phổ phát xạ của các tâm đất hiếm, mẫu phải được kích thích 
bằng các bước sóng thích hợp, bước sóng này được lựa chọn từ phổ kích thích. Phổ 
huỳnh quang và kích thích huỳnh quang của các mẫu sử dụng trong luận văn được 
đo tại nhiệt độ phòng, trên hệ thiết bị FL3–22 spectrometer, tại trường Đại học Duy 
Tân, Đà Nẵng (hình 2.9). Bức xạ kích thích được phát ra từ đèn xenon (XBO – 450 
W) dải rộng, đầu thu nhân quang điện R928 có độ nhạy cao. Hệ đo này có dải đo 
trong khoảng từ 185-900 nm, độ phân giải phổ cao cỡ 0,2 nm. Hệ thống được điều 
khiển bằng máy tính với phần mềm chuyên dụng. Với phổ kích thích, tín hiệu phát 
xạ của mẫu được giữ cố định tại bước sóng 600 nm, trong khi bước sóng kích thích 
được quét từ khoảng 200-550 nm. Căn cứ vào phổ kích thích, chúng ta có thể tìm 
được bước sóng thích hợp cho phép đo huỳnh quang của mẫu. 
2.4.3. Đo thời gian sống của bức xạ huỳnh quang 
 Thời gian sống là thông số quan trọng để kiểm tra độ tin cậy của các tính 
toán JO. Thời gian sống của một mức kích thích nào đó bằng nghịch đảo của xác 
suất chuyển dời tổng cộng từ mức đó xuống các mức thấp hơn. Ngay sau quá trình 
kích thích, mật độ tích lũy điện tử ở trạng thái kích thích sẽ suy theo thời gian. Điều 
này dẫn đến sự suy giảm của cường độ huỳnh quang theo thời gian. Trong trường 
31 
hợp quá trình truyền năng lượng được bỏ qua, cường độ huỳnh quang sau kích thích 
sẽ suy giảm theo hàm mũ: 
{ }τ/exp)(
0
tItI −= (2.4) 
trong đó I0 là cường độ bức xạ sau khi ngừng kích thích (thời điểm t = 0); I(t) là 
cường độ tại thời điểm t ≠ 0; τ là thời điểm cường độ huỳnh quang giảm đi e lần, đại 
lượng này được gọi là thời gian. Như vậy, muốn tìm được τ, chúng ta cần đo sự 
suay giảm cường độ huỳnh quang theo thời gian. 
 Phép đo huỳnh quang suy giảm theo thời gian của các mẫu chứa Sm3+ được 
thực hiện tại nhiệt độ phòng và trên hệ thiết bị Varian Cary Eclipse Fluorescence 
Spectrophotometer, tại Viện Vật lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt 
Nam. Trong phép đo này, mẫu được kích thích bởi xung tử ngoại phát ra từ đèn 
xenon 450 W, độ dài xung 80 µs. Đường cong suy giảm thời gian được ghi nhận tại 
600 nm với độ phân giải ±10 µs. 
32 
CHƯƠNG III 
CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC VÀ TÍNH CHẤT QUANG CỦA 
THỦY TINH AKALI-ALUMINO-BORATE PHA TẠP Sm3+ 
 Chương này trình bày về kết quả: (1) chế tạo vật liệu thủy alkali-alumino-
borate pha tạp Sm3+ và kết quả nghiên cứu cấu trúc của vật liệu như: phổ nhiễu xạ 
tia X và phổ hấp thụ hồng ngoại, phổ Raman; (2) đo phổ quang học, bao gồm phổ 
hấp thụ, kích thích và huỳnh quang và thời gian sống;(3)đánh giá các đặc điểm của 
môi trường cục bộ xung quanh ion đất hiếm và tính các thông số quang học của vật 
liệu theo lý thuyết Judd-Ofelt. 
3.1. Kết quả chế tạo và phân tích cấu trúc của vật liệu 
3.1.1. Kết quả chế tạo mẫu, đo chiết suất và khối lượng riêng 
 Thủy tinh alkali-alumino-borate pha với thành phần: 
(70-x)B2O3+10PbO+10Na2O+ 10Al2O3+xSm2O3 (trong đó x = 0,1; 0,5, 1,0; 2,0 và 
3,0 mol%) được chế tạo theo phương pháp nóng chảy một lần. Quy trình chế tạo 
mẫu được trình bày trong mục 2.1. Sản phẩm tạo ra là các mẫu thủy tinh có độ 
trong suốt cao trong vùng nhìn thấy. Các mẫu được cắt, mài, đánh bóng tạo thành 
các khối có kích thước trung bình 5x5x2 mm3. Ảnh chụp các mẫu được trình bày 
trong hình 2.1. Hệ thống mẫu sử dụng trong luận văn gồm 5 mẫu được phân biệt với 
nhau bởi tỷ lệ tạp Sm2O3 như được liệt kê trong bảng 2.1. 
Hình 3.1. Ảnh chụp một số mẫu thủy tinh BPNA 
33 
 Thủy tinh borate tinh khiết có hai nhược điểm lớn: thứ nhất là độ bền hóa 
không cao, thứ hai là năng lượng phonon lớn (cỡ 1500-1600 cm-1) [12, 13]. Trong 
khi đó, oxit PbO có năng lượng phonon vào khoảng 950-1150 cm-1 [38]. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
luan_van_che_tao_va_khao_sat_tinh_chat_quang_cua_thuy_tinh_a.pdf