LỜI CAM ĐOAN .i
LỜI CẢM ƠN.ii
MỤC LỤC.iii
DANH MỤC HÌNH. v
DANH MỤC VIẾT TẮT .vii
MỞ ĐẦU . 1
Mục đích nghiên cứu. 2
Phạm vi nghiên cứu. 3
Phương pháp nghiên cứu. 3
Đối tượng nghiên cứu . 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẬT LIỆU GRAPHENE. 4
1.1. Cấu trúc vật liệu graphene . 4
1.2. Một số tính chất của vật liệu graphene . 6
1.3. Một số phương pháp chế tạo vật liệu graphene . 8
1.3.1. Phương pháp tách cơ học. 8
1.3.2. Phương pháp Epitaxi nhiệt. 8
1.3.3. Phương pháp tách hóa học. 9
1.3.4. Phương pháp tách pha lỏng. 9
1.3.5. Phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học (CVD) . 10
1.4. Một số ứng dụng của vật liệu graphene. 12
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM . 14
2.1. Lựa chọn phương pháp, thiết bị chế tạo vật liệu graphene. 14
2.1. Hệ thiết bị CVD nhiệt . 14
2.2. Lựa chọn vật liệu đế xúc tác . 18
2.2. Quy trình chế tạo graphene. 18
2.3.1. Chuẩn bị mẫu . 18
2.3.2. Qui trình CVD. 19
2.3. Các phương pháp phân tích tính chất quang của màng graphene . 21
2.3.1. Kính hiển vi điển tử quét SEM . 21
54 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 28/02/2022 | Lượt xem: 590 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế tạo và nghiên cứu tính chất quang của màng graphene tổng hợp bằng phương pháp lắng đọng hóa học pha hơi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất điện tử, đồng thời không phù hợp trong việc chế tạo
màng graphene diện tích lớn. Tuy nhiên phương pháp này gợi mở cho các
tiếp cận công nghệ khác nhằm chế tạo graphene số lượng lớn bằng các bóc
tách cơ học[5, 12].
1.3.2. Phương pháp Epitaxi nhiệt
Ở phương pháp này, người ta sử dụng vật liệu nguồn là silicon carbide
(SiC) và thực hiện ở nhiệt độ cao 12500C trong điều kiện chân không siêu cao
(UHV) hoặc trong môi trường khí Argon (Ar). Do nhiệt độ cao Si trong tinh
thể SiC bốc hơi khỏi bề mặt kéo theo sự phá vỡ cấu trúc SiC ở hai bên, còn
lại đơn lớp graphene bên trong . Hạn chế của phương pháp epitaxi là chi phí
9
thiết bị, vận hành cao, sự tương tác mạnh giữa graphene và SiC làm cho việc
tách chuyển nó lên bề mặt vật liệu khác rất khó khăn[7, 16].
1.3.3. Phương pháp tách hóa học
Phương pháp tách hóa học xuất hiện từ rất sớm (1940) bởi S.
Hummers (Đức). Nguyên lý của phương pháp Hummers (lấy theo tên người
tìm ra phương pháp) là ôxy hóa những tấm lớn graphit bằng các axít mạnh để
chèn các phân tử ôxy vào khoảng không gian giữa của các lớp graphit, tạo
thành nhiều lớp ôxit graphit xen kẽ nhau. Tiếp theo, rung siêu âm được tiến
hành để tách rời các tấm ôxit graphene (GO) riêng biệt và phân tán đều trong
nước (lượng axít dư trong dung dịch được loại trừ sau quá trình tách lọc).
Nếu sự ôxy hóa đủ mạnh chúng ta sẽ thu được đơn lớp GO, ngược lại sẽ là đa
lớp GO. Để thu được graphene, màng mỏng GO được khử ôxy bằng phương
pháp vật lý (ủ nhiệt bằng lò nhiệt, lò vi sóng, chiếu tia laser) hoặc phương
pháp hóa học (hơi hydrazine). Phương pháp này cho phép sản xuất số lượng
lớn graphene nhưng nó có nhược điểm là không thể tạo ra màng graphene
kích thước lớn. Ngoài ra, cấu trúc của graphene thu được có chất lượng
không cao do bị ảnh hưởng bởi quá trình ôxy hóa do axit mạnh gây ra[4, 17].
1.3.4. Phương pháp tách pha lỏng
Phương pháp này được thực hiện đầu tiên bởi Y. Hernandez trong khi
nghiên cứu sự tác động của dung môi lên graphit. Cho một lượng nhỏ graphit
vào dung môi N-methylpyrrolidone (NMP), do sự tương tác về năng lượng
giữa bề mặt graphit và dung môi, năng lượng này đủ lớn để phá vỡ được lực
liên kết Van Der Waals giữa các đơn lớp graphit, từ đó phân tách graphit
thành các tấm mỏng graphene phân tán trong dung môi. Dung dịch sau đó sẽ
được quay ly tâm để tách lấy graphene. Phương pháp tách pha lỏng có thể
tiến hành trong nhiều dung môi khác như N,N-Dimethylacetamide (DMA),
Dimetyl sulfoxide (DMSO), 1-Vinyl-2- pyrrolidinone (NVP), v.v... Phương
pháp này có ưu điểm đơn giản và có thể sản xuất số lượng lớn graphene phân
tán trong nhiều dung môi. Tuy nhiên chế tạo graphene từ tách pha lỏng
graphit tồn tại một số hạn chế cơ bản đó là kích thước màng mỏng graphene
10
thu được là nhỏ, chỉ khoảng 1-2 µm2 và điện trở bề mặt khá lớn (5000-8000
Ω/m)[4, 15].
1.3.5. Phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học (CVD)
Việc tổng hợp vật liệu graphit (graphene đa lớp) đã được thực hiện trên
một số đế làm bằng kim loại chuyển tiếp cách đây 50 năm. Đầu tiên là sự
thành công trong việc tạo ra các lớp graphene trên bề mặt kim loại niken (Ni).
Tiếp theo đó, một loạt các kim loại chuyển tiếp khác như Ru, Ir, Co, Re, Pt,
Pd và Cu cũng đã được sử dụng như là vật liệu xúc tác để tổng hợp vật liệu
graphene. Bằng phương pháp CVD, nhìn chung đế Cu và Ni cho kết quả mọc
graphene tốt nhất[13, 14].
Phương pháp lắng đọng pha hơi hóa học ( CVD) tỏ rõ là phương pháp
có nhiều ưu điểm có thể tạo ra những lớp mỏng graphene với diện tích
lớn 2630 m2/g [6,13,16], độ đồng đều của màng cao, và đặc biệt có thể khống
chế được chiều dày hay số lớp graphene, việc tách màng graphene để chuyển
lên bề mặt chất nền khác là tương đối dễ dàng.
Đơn lớp graphene có thể được tạo ra bằng phương pháp lắng đọng hơi
hóa học trên bề mặt những kim loại chuyển tiếp như Ni, Pd, Ru, In hoặc Cu.
Phương pháp này được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1975 bởi Morgan và
Somorjai, hai ông đã sử dụng nhiễu xạ electron với năng lượng thấp (LEED)
để khảo sát sự hấp thụ các khí khác nhau như CO, C2H2, C2H4 lên bề mặt
platinum ở nhiệt độ cao. Những năm sau đó người ta đã suy luận kết quả từ
thực nghiệm và thấy rằng có tồn tại một lớp vật liệu có cấu trúc kiểu graphit,
và lớp này đã làm giảm năng lượng hấp thụ trên bề mặt platinum. Những
nghiên cứu tiếp theo của Blackely và các cộng sự đã chứng minh lớp vật liệu
bám trên bề mặt Pt chính là các đơn lớp graphene. Ngoài bề mặt là Pt, các
ông cũng đã thử nghiệm và thành công với bề mặt kim loại là Ni, Pd, và Co.
Cho đến ngày nay phương pháp CVD đang trở thành phương pháp
thông dụng nhất để có thể chế tạo ra màng graphene phục vụ cho nghiên cứu
cũng như các ứng dụng của graphene trong nhiều lĩnh vực.
11
Hình 1.2: Mô hình mô tả quá trình lắng đọng pha hơi hóa học trên bề
mặt kim loại [5]
Hiện nay tại Việt Nam, phương pháp CVD chế tạo màng graphene trên
đế kim loại Cu đã được thực hiện thành công tại phòng Vật liệu Cácbon
Nanô, Viện Khoa học vật liệu, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam[7, 13].
Cơ chế mọc graphene trên đế Cu:
Quá trình mọc graphene trên đế Cu được thể hiện qua sơ đồ sau:
Hình 1.3: Quá trình hình thành graphene trên đế Cu bằng
phương pháp CVD nhiệt [5]
Khi ở nhiệt độ cao CH4 bắt đầu bị phân hủy ra C và khí H2 tự do,
nguồn C này sẽ lắng đọng một phần trên bề mặt tấm Cu và bị khuyếch tán
vào bên trong cấu trúc tấm Cu. Khi hết thời gian CVD ta hạ dần nhiệt độ
Khí
vào
Thuyền
thạch
anh
Mẫu
Khí ra
Ống thạch anh
Lò
nhiệt
Đế đồng
Các domain graphene
Ủ nhiệt
12
bằng cách dịch lò phản ứng theo thanh ray qua bên khoảng 20cm. Quá trình
dịch lò cần chú ý tốc độ dịch lò vừa phải. Nếu dịch lò nhanh quá thì các
nguyên tử cácbon ở bên trong chưa được khuyếch tán kịp ra bề mặt tấm Cu
nên lớp màng graphene sẽ không được hình thành. Còn nếu dịch lò chậm quá
thì các nguyên tử cácbon sẽ bị khuyếch tán ngược ra môi trường và không
còn đọng lại trên bề mặt tấm Cu và màng graphene cũng sẽ không được hình
thành[2].
Hình 1.4: Hệ thiết bị CVD nhiệt được sử dụng để chế tạo vật liệu graphene
1.4. Một số ứng dụng của vật liệu graphene
Dựa vào các tính chất vật lý đặc biệt của vật liệu graphene, người ta có
thể áp dụng vật liệu này vào rất nhiều lĩnh vực.
Siêu tụ, pin: Dựa vào tính chất dẫn điện tốt, diện tích bề mặt lớn nên
khả năng lưu trữ điện tích dẫn đến năng lượng và mật độ năng lượng trong tụ
tăng lên gấp nhiều lần, khả năng tích trữ lớn hơn pin 100 lần. Do bề dày tấm
graphene rất nhỏ (0,34 nm) nên siêu tụ làm bằng graphene có kích thước và
trọng lượng nhỏ hơn nhiều lần so với siêu tụ thông thường, thời gian sống
dài, ít bảo dưỡng, giá thành thấp[7].
Vật liệu chống thấm, chống ăn mòn: Graphene có kích thước hỗng
trên bề mặt là 0,64Å nhỏ hơn kích thước của phân tử nước (0,95Å). Graphene
13
chống thấm hoàn toàn với các phân tử khí, và trơ về mặt hoá học. Những tính
chất đó cho thấy graphene là một vật liệu lý tưởng dùng dùng để ứng dụng
trong vật liệu chống thấm, chống ăn mòn hiệu quả[5, 7].
Chất lỏng tản nhiệt: Với khả năng dẫn nhiệt tốt (>5000 W/mK)
graphene có thể pha trộn vào chất lỏng để làm chất tản nhiệtdành ho các thiết
bị điện tử công suất. Ngoài ra cũng có thể tổng hợp thành gel tản nhiệt, tuỳ
vào mục đích sử dụng[5].
Vật liệu composite: Graphene có độ bền cơ học cao, cứng hơn thép
200 lần. Do đó, graphene trở thành vật liệu pha trộn lý tưởng dùng để gia cố,
tăng độ bền cơ học cho vật liệu[5].
Pin mặt trời: Do các eleectron trong graphene có độ linh động rất cao,
màng graphene rất trong suốt, chỉ hấp thụ 3% ánh sáng, do đó nó là vật liệu
lý tưởng để chế tạo pin mặt trời. Pin mặt trời được chê tạo bằng graphene có
hiệu suất rất cao (>60%, gấp hai lần giá trị cao nhất khi sử dụng silic). Mặt
khác graphene có thể thay thế Indium Tin Oxide (ITO) trong pin mặt trời để
sử dụng làm điện cực trong suốt[7].
Trasistor: Với độ dẫn điện cao, độ bền cơ học cao và giá thành rẻ
graphene đang được nghiên cứu nhiều để ứng dụng trong ngành công nghiệp
điện tử. Đạ ̆c biệt là chế tạo ra cỏc transistor hiệu ứng trường (FET). Graphene
FET được chế tạo có kích thước nano và tần số đóng cắt rất lớn (vào cỡ THz)
vượt trội so với MOSFET silicon tốt nhất hiện nay[6, 7].
Cảm biến: Trong việc chế tạo sensor nhạy khí thì graphene được xem
là loại vật liệu tốt hơn hết, bởi vì graphene là vật liệu có cấu trúc phẳng 2
chiều nên nó có diện tích bề mạ ̆t rất lớn, (lên đến 2600 m2/g) kết hợp với khả
năng dẫn điện cao và độ nhiễu thấp. Khi các phân tử khí bám vào bề mạ ̆t
graphene sẽ làm thay đổi điện trở cục bộ tại vị trí đó, và dựa trên cơ chế này
mà các phân tử khí sẽ được phát hiện. Các sensor nhạy khí đó được chế tạo
với kích thước micromet, có độ nhạy cao cho phép phát hiện các chất khí với
nồng độ rất thấp[18].
14
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
2.1. Lựa chọn phương pháp, thiết bị chế tạo vật liệu graphene
Các thí nghiệm chế tạo graphene bằng phương pháp CVD nhiệt được
chúng tôi thực hiện trên các thiết bị tại Phòng Vật liệu Các bon nano, Viện
Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Phương
pháp CVD cho chất lượng graphene chất lượng, dễ chuyển từ đế xúc tác đồng
sang các đế xúc tác khác. Kích thước màng graphene khi tổng hợp bằng CVD
rất lớn, dễ chế tạo.
2.1. Hệ thiết bị CVD nhiệt
Hệ thiết bị được xây dựng và lắp đặt tại Phòng Vật liệu các bon nano.
Đây là hệ thiết bị điện tử hoàn toàn tự động. Hệ gồm 2 bộ phận chính là: 1)
Lò nhiệt UP 150, 2) Flowmeter số và bộ điều khiển điện tử GMC 1200.
Hình 2.1: a) Hệ lò CVD nhiệt, b) Sơ đồ nguyên lý hoạt động của lò nhiệt
CVD [22]
Hình 2.1 là ảnh chụp hệ thiết bị CVD nhiệt được sử dụng để tổng hợp
vật liệu graphene trên đế Cu và đế Si/SiO2 với nguồn khí các bon là khí CH4.
Hệ thiết bị CVD nhiệt bao gồm các bộ phận chính: lò nhiệt (hình 2.1a), nhiệt
độ có thể đạt 1100 oC và được điều khiển tự động với độ chính xác 1-2oC;
ống phản ứng là ống thạch anh có đường kính Ø=22mm và chiều dài 1200
mm, hai đầu ống được nối với đường ống dẫn khí (vào và ra); 03 cục
a)
CH
MFC
Valve
Gas in Gas out
Ar
H
2
4
Quartz tube Sample
Quartz plateFurnace
Furnace
Rail
b)
15
flowmeter điều khiển khí Ar, H2 và CH4. 03 cục flowmeter được kết nối với
bộ điều khiển tự động GMC để điều khiển lượng khí đưa vào ống phản ứng
(hình 2.1b).
Lò nhiệt UP 150 là thiết bị điện tử tự động có hiển thị số, toàn bộ quá
trình nâng nhiệt, hạ nhiệt, điều khiển nhiệt độ của quá trình CVD đều được
thực hiện một cách tự động với sai số ± 10C, điều này rất quan trong quá trình
mọc graphene và độ lặp lại của thí nghiệm.
Nguyên lý cấu tạo của lò nhiệt UP 150 sử dụng dây may so bọc bằng
gốm cách điện chịu được nhiệt độ cao. Gốm cách nhiệt có tác dụng giúp cho
nhiệt độ lò ổn định, lò được thiết kế đóng mở cho pháp hạ nhiệt độ nhanh, đặt
được chính xác mẫu vào tâm lò.
Hình 2.2: (a) Lò nhiệt UP 150 và (b) Hình vẽ bộ phận cài đặt
Nguyên lý cài đặt một chương trình nhiệt tự động của hệ UP 150 được
chia ra làm các giai đoạn gọi là Segment (SEG). SP1, SP2, là các điểm
nhiệt. TM1, TM2, là các khoảng thời gian mà người dùng có thể hiệu
chỉnh.
Dưới đây là một vài thông số cơ bản của hệ:
- Kích thước lò nhiệt UP 150: Dài x Rộng x Cao: 400- 275 -360 mm
- Dải nhiệt: 250C - 11000C
- Tốc độ lên nhiệt 300C/ phút
- Vùng nhiệt độ ổn định : 30cm
16
+ Bộ điều khiển điện tử GMC 1200 và Flowmeter MFC SEC- E40
Việc kiểm soát lưu lượng khí cần dùng trong quá trình CVD có vai trò
rất quan trọng, và ảnh hưởng lớn đến kết quả thí nghiệm. Toàn bộ hệ thiết bị
điều khiển dòng khí là hoàn toàn tự động có độ chính xác cao. Hệ thiết bị này
gồm hai bộ phận: Bộ điều khiển lưu lượng khí GMC 1200 và các flowmeter
SEC- E40 khí điện tử.
Hình 2.3: Hệ các van khí và các ống dẫn khí
Hình 2.4: Bộ điều khiển khí flowmetter GMC 1200 có màn hình hiển thị
Ngoài hai phần chính là lò phản ứng và hệ khí hệ CVD còn có một số
bộ phận khác như giá đỡ hệ CVD, ống phản ứng thạch anh, hệ thống đồng hồ
đo áp suất, thuyền thạch anh đựng mẫu trong quá trình CVD
17
b)
Hình 2.5: Khí H2 và Ar được sử dụng trong quá trình CVD
Hình 2.6: (a) Van điều khiển chân không và (b) đồng hồ báo áp suất chân
không trong ống phản ứng thạch anh
Hình 2.5, là ảnh chụp hệ thống bình khí Ar và H2, các đồng hồ hiển thị
áp suất bên trong bình và áp suất khí đưa vào buồng phản ứng trong quá trình
CVD. Hình 2.6, là ảnh chụp hệ thống ống dẫn khí (làm bằng thép không rỉ),
các khớp nối giữa ống thạch anh và đồng hồ hiển thị áp suất, khớp nối giữa
ống thạch anh và lắp đậy ống phản ứng (ống thép không rỉ).
a)
18
2.2. Lựa chọn vật liệu đế xúc tác
Hiện nay có rất nhiều các loại đế được sử dụng trong quá trình CVD
chế tạo graphene như: Cu, Ni, Fe, Pt, nhưng đế được sử dụng phổ biến
nhất vẫn
là đế Cu vì các lí do sau:
1) Độ hòa tan của các bon vào đồng rất thấp.
2) Dễ dàng điều khiển quá trình mọc.
3) Dễ dàng ăn mòn đế đồng để chuyển sang các loại đế khác.
2.2. Quy trình chế tạo graphene
2.3.1. Chuẩn bị mẫu
- Chuẩn bị đế Cu
Đế đồng được xư lý để làm sạch thông qua 2 bước:
Bước 1: Xử lý các chất bẩn bề mặt: Đế đồng có bế dày 25µm, diện tiện
4x4(cmxcm) được ép phẳng cơ học bằng hai tấm kính phẳng rồi được rung bằng
máy rung siêu âm trong aceton với thời gian 20 phút nhằm mục đích tẩy các vết
bẩn trên bề mặt, sau đó được sấy không bằng khí N2; Đế đồng sau đó được tiếp
tục rung siêu âm trong dung dịch Isopropyl ancol trong 30 phút để tẩy một số
bẩn còn còn lại của bề mặt đế đồng rồi tiếp tục sấy khô bằng khí N2.
Hình 2.7: Qui trình xử lý đế xúc tác
Hình 2.8: Máy rung siêu âm
Aceton Isopropy
l ancol
Đánh
bóng
Sấy
khô
khí N
2
Sấy
khô
khí N
2
19
Bước 2: Xử lý vi mô bề mặt: Sau khi thực hiện xong bước một, một quy
trình tiếp theo nhằm làm phẳng đề đồng ở cấp độ vi mô, nhằm tạo độ nhẵn cao
để màng graphene dễ dàng hình thành trên đế đồng và hạn chế các sai hỏng
không đáng có. Đó là quy trìn đánh bong điện hóa (hình 2.9) bao gồm:1) bộ
nguồn thay đổi thế từ 0-20V, 2) hệ giá nâng/hạ bình điện phân, 3) bình điện
phân chứa dung dịch axit H3PO4 4) Giá đỡ, kẹp và dây dẫn để giữ đế đồng.
Hình 2.9: Hệ thiết bị đánh bóng điện hóa
- Chuẩn bị hệ CVD
Xử lý rửa sạch ống thạch anh sau đó tiến hành đốt nhiệt ống thạch anh
ngay trên hệ CVD ở 10000C trong vòng 1 giờ có sự lưu thông của oxi trong
không khí nhằm oxi hóa và loại bỏ những tác nhân có ảnh hưởng đến quá
trình CVD.
2.3.2. Qui trình CVD
Quá trình thực hiện CVD có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:
1
2
3
4
20
Hình 2.10: Sơ đồ quá trình tiến hành CVD nhiệt
Quy trình tiến hành CVD nhiệt cho quá trình mọc graphene trên đế Cu
thực hiện qua các bước sau:
- Bước 1: Cho mẫu tape Cu lên thuyền thạch anh (khoảng 4 mẫu cho 1
lần CVD) sau đó đưa thuyền thạch anh vào ống thạch anh của hệ CVD rồi di
chuyển thuyền thạch anh vào sâu trong buồng phản ứng ngay chỗ sợi đốt của
buồng phản ứng nhằm đảm bảo nguồn nhiệt cao nhất tránh sự trôi nhiệt.
- Bước 2: Đặt lò cách xa mẫu. Đưa khí H2 (30 sccm), khí Ar (30 sccm)
vào buồng phản ứng rồi mở bơm hút chân không để đưa áp suất trong ống thạch
anh về giá trị 60 Torr; nâng nhiệt độ của lò lên 10000C trong 25 phút.
- Bước 3: Ngắt khí Ar, dịch lò vào vị trí đặt mẫu rồi tiếp tục điề chỉnh lại
van áp suất sao cho áp suất trong buồng là 60 Torr trong thời gian 30 phút tại
nhiệt độ 10000C để khử bề mặt đế đồng.
- Bước 4: Sau thời gian 30 phút để khử đế đồng, ta đưa khí CH4 (0.3
sccm) để tiến hành CVD. Thời gian CVD tùy thuộc vào quá trình khảo sát.
- Bước 5: Khi thời gian CVD hết ta tiến hành ngắt nguồn cung khí CH4
thông qua bộ điều chỉnh nguồn khí, đồng thời dịch lò phản ứng khoảng 20cm để
cho mẫu tape Cu không còn ở vị trí trung tâm của lò phản ứng tạo điều kiện cho
21
cơ chế hình thành graphene trên đế Cu. Trong thời gian này ta vẫn duy trì khí H2
trong khoảng 10 phút nhằm loại bỏ cácbon vô định hình. Lượng CH4 dư còn lại
trong ống sẽ được đẩy ra ngoài lò phản ứng bởi khí Ar.
- Bước 6: Sau 10 phút ta ngắt nguồn khí H2 và vẫn duy trì khí Ar (100
sccm) tạo môi trường trơ. Lò phản ứng sẽ tự động hạ nhiệt lò xuống nhiệt độ
phòng, sau khi lò nguội ta lấy mẫu ra cho vào túi nilon bảo quản tránh bụi bẩn.
Hình 2.11: Hình vẽ mô tả các quá trình xẩy ra trong quá trình
CVD mẫu Cu để tổng hợp graphene [22].
2.3. Các phương pháp phân tích tính chất quang của màng graphene
2.3.1. Kính hiển vi điển tử quét SEM
Kính hiển vi điện tử quét (Scanning Electron microscope, viết tắt là
SEM), là một loại kính hiển vi có thể tạo ảnh với độ phân giải cao của bề mặt
mẫu vật bằng cách sử dụng một chùm điện tử hẹp quét trên bề mặt mẫu. Việc
tạo ảnh của mẫu vật được thực hiện thông qua việc ghi nhân và phân tích các
bức xạ phát ra từ tương tác của chumg điện tử với bề mặt mẫu.
Chùm điện tử trong SEM được phát ra từ súng phóng điện tử, sau đó
được tăng tốc. Tuy nhiên sự tăng của các điện tử trong SEM chỉ từ 10kV đến
50 kV vì sự hạn chế của thấu kính từ, việc hội tụ các chùm điện tử có bước
sóng quá nhỏ vào một điểm kích thước nhỏ sẽ rất khó khăn. Chùm điện tử
hẹp chỉ cỡ vài trăm Angstrong đến vài nanomet sau khi hội tụ nhờ thấu kính
22
từ được quét trên bề mặt mẫu bởi các cuộn quét tĩnh điện. Độ phân giải của
SEM được xác định từ kích thước chùm điện tử hội tụ, mà kích thước chùm
điện tử này bị hạn chế bởi quang sai, chính vì thế mà SEM không thể đạt
được tốt như TEM. Ngoài ra, độ phân giải còn phụ thuộc vào tương tác của
điện tử và vật liệu tại bề mặt quét.
Hình 2.12: Sơ đồ hoạt động của kính hiển vi điện tử quét SEM
[vi.wikipedia.org/wiki/Kính hiển vi điện tử quét]
Tuy không có độ phân giải tốt nhưng kính hiển vi điện tử quét có khá
nhiều ưu điểm, như phân tích mẫu mà không cần phá hủy bề mặt mẫu và có
thể hoạt động ở điều kiện áp suất thấp. Một điểm mạnh khác mà người ta hay
quan tâm trong kính hiển vi SEM là thao tác điều khiển đơn giản, dễ sử dụng,
giá thành khi sử dụng.
SEM là thấp hơn rất nhiều so với TEM. Một số kính hiển vi điện tử
quét hoạt động ở chân không siêu cao có thể phân tích được phổ Auger, rất
hữu ích cho các phân tích tinh tế trên bề mặt. Scanning Electron Microscopy
23
with Polarisation Analysis là một chế độ ghi ảnh của SEM mà ở đó, các điện
tử thứ cấp phát ra từ mẫu sẽ được ghi nhận nhờ một detector đặc biệt có thể
tách các điện tử phân cực spin từ mẫu, do đó cho phép chụp lại ảnh cấu trúc
từ của mẫu.
Các mẫu đo SEM được chúng tôi thực hiện đo tại Viện khoa học vật
liệu, Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam.
2.3.2. Kính hiển vi điện tử truyền qua TEM
Kính hiển vi điện tử truyền qua (transmission electron microscopy, viết
tắt: TEM) là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn. Trong phương pháp
này, người ta sử dụng các thấu kính từ để tạo ảnh của chùm điện tử có năng
lượng cao chiếu xuyên qua mẫu vật mỏng. Ảnh có thể tạo ra trên film quang
học, màn hình huỳnh quang hay ghi nhận bằng máy chụp kỹ thuật số.
Trong TEM, điện tử sử dụng thay cho ánh sáng, các điện tử được tạo ra
từ súng phóng điện tử. Có hai cách chính để tạo ra chùm điện tử. Thứ nhất, sử
dụng nguồn phát xạ nhiệt điện tử, năng lượng nhiệt do đốt nóng làm cho các
điện tử có động năng lớn và thoát ra khỏi kim loại. Do đốt nóng nên súng
phát xạ nhiệt thường có tuổi thọ thấp, độ đơn sắc của chùm tia yếu. Tuy nhiên
lại có ưu điểm lớn là giá thành rẻ và không đòi hỏi chân không cao. Thứ hai,
sử dụng súng phát xạ trường (Field Emission Gun, viết tắt: FEG TEM), cách
này điện tử được phát ra nhờ một hiệu điện thế lớn. Do đó, tuổi thọ của súng
phát xạ trường rất cao, cường độ chùm điện tử lớn và độ đơn sắc rất cao. Tuy
nhiên, nhược điểm của súng điện tử trường là giá thành rất cao và đòi hỏi
chân không siêu cao.
Xét về nguyên lý, ảnh của TEM vẫn được tạo theo các cơ chế quang
học, nhưng tính chất ảnh phụ thuộc vào các chế độ ghi ảnh. Sự khác biệt quan
trọng nhất của ảnh TEM với ảnh quang học là độ tương phản. Trong với các
kính hiển vi quang học, ảnh sẽ có độ tương phản do hiệu ứng hấp thụ ánh
sáng thì trong TEM ảnh lại chủ yếu xuất phát từ khả năng tán xạ điện tử. Tính
năng mạnh nhất của kính hiển vi điện tử tuyền qua là độ phân giải cao, cho
phép quan sát ở chế độ phân giải cao từ các lớp tinh thể của chất rắn. Trong
24
thuật ngữ khoa học, ảnh hiển vi điện tử truyền qua với độ phân giả cao
thường viết tắt lag HR-TEM. Chế độ HR-TEM chỉ có thể thực hiện được khi:
+ Kính hiển vi có khả năng thực hiện được việc ghi ảnh ở chế độ
phóng đại lớn.
+ Quang sai của hệ đủ nhỏ ở mức cho phép.
+ Việc điều chỉnh tương điểm phải đạt mức tối ưu.
+ Độ dày của mẫu phải đủ mỏng, thường dưới 70 nm.
Đối với các mẫu có từ tính, khi các điện tử truyền qua sẽ bị lực Lorentz
kéo các điện tử lệch khỏi phương truyền. Do vậy mà phép ghi ảnh theo cơ
chế này cung cấp các thông tin liên quan đến từ tính, cấu trúc từ và cho chúng
tha có thể nghiên cứu các tính chất từ vi mô của vật liệu. Chế độ ghi ảnh này
có thể phát triển thành thành các kiểu: Kính hiển vi Lorentz và toàn ảnh điện
tử.
Hình 2.13: Sơ đồ hoạt động của kính hiển điện tử truyền qua TEM
[vi.wikipedia.org/wiki/Kính hiển vi điện tử truyền qua]
25
Hình 2.14: Phổ Raman của
SWCNT[5, 22]
Hình 2.15: Minh họa các mode dao động
RBM (a) và G (b) trong phổ Raman của
CNT[5, 22]
Kính hiển vi điện tử truyền qua quétlà một loại kính hiển vi điện tử
truyền qua nhưng khác với CTEM là chùm điện tử truyền qua mẫu là một
chùm điện tử được hội tụ thành một chùm hẹp và được quét trên mẫu. Nhờ
việc điều khiển khẩu độ và thấu kính hội tụ, chùm điện tử có thế hội tụ thành
một chùm tia có kích thước rất hẹp (các STEM mạnh hiện nay có thể cho
kích thước tới dưới 1 nm) do đó cho phép ghi ảnh với độ phân giải rất cao.
Hơn nữa, vì chùm điện tử là hội tụ, nên góc tán xạ của điện tử sau khi truyền
qua mẫu sẽ rất lớn và tạo ra nhiều phép phân tích mạnh, ví dụ như phép ghi
ảnh trường tối với góc lệch vành khuyên lớn (High-annular dark-field
imaging - HADF), khả năng phân tích phân bố các nguyên tố với độ phân giải
cực cao nhờ phép phân tích phổ tổn hao năng lượng điện tử (EELS) thực hiện
đồng thời với quá trình ghi ảnh. Hơn nữa, ảnh độ phân giải cao trực tiếp liên
quan đến nguyên tử khối của các nguyên tố, do đó rất hữu ích cho việc phân
tích sự phân bố của các nguyên tố hóa học.
Các mẫu đo HR-TEM được
chúng tôi thực hiện đo tại Viện khoa
học vật liệu, Viện hàn lâm khoa học
và công nghệ Việt Nam.
2.3.3. Phổ tán xạ Raman
Phương pháp phổ tán xạ
Raman cho phép chúng ta phân tích
về cấu trúc pha, cấu trúc tinh thể,
cho ta biết thành phần của vật liệu.
Đây là phương pháp mang tên nhà
Vật lý người Ấn Độ C.V Raman.
Phổ tán xạ raman dựa trên nguyên lý
tán xạ không đàn hồi của ánh sáng
đơn sắc chiếu tới, thông thường là từ
một nguồn sáng laser. Tán xạ không
26
đàn hồi là khi tần số của các photon từ nguồn sáng đơn sắc chiếu tới sẽ thay
đổi khi nó tương tác với mẫu vật. Các photon của ánh sáng laser bị hấp thụ
bởi mẫu và sau đó bị tán xạ. Tần số của các photon tán xạ có thể thay đổi
tăng hoặc giảm so với tần số của nguồn sáng đơn sắc khi chiếu tới, đây được
gọi là hiệu ứng Raman. Sự thay đổi này sẽ cung cấp thông tin về độ dao
động, độ quay và các tần số truyền khác của các phân tử. Phương pháp raman
có thể được dùng để phân tích các mẫu dạng rắn, lỏng và khí [12].
Phổ Raman của CNT (hình 2.14) thường được quan sát ở các vùng:
- Vùng thứ nhất là vùng tần số thấp (120 cm-1<ω < 350 cm-1), được kí
hiệu trên phổ Raman là dải RBM (Radial Breathing Mode). Vùng này mô tả
các mode dao động theo phương bán kính với cấu trúc graphit (hình 2.14) và
là mode đặc trưng chỉ được quan sát đối với SWCNT hoặc ống nanô các bon
hai tường (DWCNT - Double Wall CNT). Sở dĩ không quan sát thấy RBM ở
MWCNT là do cấu trúc xếp lớp của chúng, MWCNT gồm nhiều hình trụ
đồng tâm có các mode tần số khác nhau, các mode này có thể giao thoa với
nhau dẫn đến sự dập tắt của RBM. Vùng thứ hai là vùng tần số trung bình
(500 cm-1 <ω < 1500 cm-1) với đỉnh nằm trong khoảng từ 1200 ÷ 1400 cm-1,
được kí hiệu trên phổ Raman là dải D (D - band). Vùng này mô tả tính hỗn
độn mất trật tự trong cấu trúc graphit mà nguyên nhân là do sự có mặt của
các sai hỏng mạng (như tạp chất, chỗ trống, ống bị xoắn, v.v) hoặc sự tồn
tại của cácbon vô định hình[2].
- Vùng thứ ba là vùng tần số cao ứng với tần số ω > 1500 cm-1, được kí
hiệu trên phổ Raman là dải G (G - band). Vùng này mô tả các mode dao động
theo phương tiếp tuyến với cấu trúc graphit (hình 2.15b) và do đó đặc trưng
cho cấu trúc sắp xếp trật tự trong mạng graphit.
- Vùng thứ tư là vùng ứng với đỉnh tần số xung quanh giá trị 2600 cm-1,
vùng họa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_che_tao_va_nghien_cuu_tinh_chat_quang_cua_mang_grap.pdf