Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC
BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1. Chủ thể của tội phạm 8
1.1.1. Khái niệm chủ thể của tội phạm 8
1.1.2. Các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm 11
1.2. Chủ thể đặc biệt của tội phạm 20
1.2.1. Khái niệm chủ thể đặc biệt của tội phạm 20
1.2.2. Những đặc điểm của chủ thể đặc biệt 21
Chương 2: CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM 1999. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT TỪ NĂM 2010 ĐÉN
NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY.
25
2.1. Các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình
sự Việt Nam 1999
25
2.1.1. Những đặc điểm về chức vụ, quyền hạn 25
2.1.2. Những đặc điểm về tuổi, giới tính, quan hệ giữa tội phạm và
nạn nhân
34
2.1.3. Những đặc điểm về nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân 40
2.2. Các trường hợp liên quan đến vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm 42
2.2.1. Trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể 42
21 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 622 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chủ thể đặc biệt trong luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ thể đặc biệt của tội phạm 42
2.2.1. Trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể 42
2.2.2. Trường hợp thay đổi tội danh của chủ thể 43
2.2.3. Trường hợp dấu hiệu riêng là dấu hiệu định tội trong cấu
thành tội phạm
44
2.2.4. Nhân thân người phạm tội 44
2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự về chủ thể
đặc biệt của tội phạm từ năm 2010 đến nay
47
2.3.1. Thực trạng các quy định của luật hình sự về chủ thể đặc biệt 47
2.3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về chủ thể
đặc biệt của tội phạm từ năm 2010 đến nay.
52
2.4 Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật hình sự về
chủ thể đặc biệt của tội phạm
62
2.4.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật
hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm
62
2.4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm
64
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban
hành từ năm 1985, là công cụ sắc bén của Nhà nước trong quản lý xã hội,
phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và công
dân, góp phần có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 30 năm thi hành, Bộ luật hình sự có nhiều lần sửa đổi, bổ
sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997, 1999 và 2009). Việc liên tục sửa
đổi, bổ sung nhằm giúp Bộ luật hình sự ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu
cầu thực tiễn, nhiều quan hệ xã hội mới nảy sinh trong đời sống xã hội cần
được các quy phạm pháp luật của Bộ luật hình sự điều chỉnh, nhiều quan hệ
xã hội có sự biến đổi đòi hỏi luật phải điều chỉnh cho phù hợp.
Một trong những nội dung quan trọng của luật hình sự đó là vấn đề
cấu thành tội phạm, việc xem xét cấu thành tội phạm giúp xác định một hành
vi do một chủ thể nào đó thực hiện có xâm hại khách thể được luật hình sự
bảo vệ hay không, quan hệ xã hội đó có chịu sự điều chỉnh của các quy phạm
pháp luật hình sự hay không, chủ thể thực hiện hành vi có phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không Việc xác định chính xác các yếu tố cấu thành tội
phạm giúp cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người đúng tội, không
bỏ lọt tội phạm cũng như không làm oan người vô tội. Trong các yếu tố cấu
thành tội phạm, chủ thể của tội phạm là yếu tố có vai trò quan trọng, tuy
không phải là yếu tố đầu tiên được xem xét trong cấu thành tội phạm nhưng
lại là yếu tố có tính chất xuất phát điểm của các yếu tố khác. Không có con
người với tư cách là chủ thể của hành vi, chủ thể của hoạt động thì không có
2
hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải xem xét đến các yếu tố của mặt chủ
quan, không có khách thể nào bị hành vi nguy hiểm cho xã hội tác động đến.
Không có chủ thể của tội phạm thì cũng không diễn ra các hoạt động tố tụng
có liên quan. Chủ thể của tội phạm có những đặc điểm, dấu hiệu chung trên
cơ sở những quy định có tính bắt buộc của luật hình sự. Luật hình sự quy định
cụ thể những đặc điểm, dấu hiệu này mà chỉ khi thỏa mãn các dấu hiệu đó thì
một người mới phải chịu trách nhiệm hình sự, những chủ thể tội phạm thỏa
mãn những dấu hiệu chung này được gọi là chủ thể thường. Trong yếu tố chủ
thể của tội phạm, một nội dung quan trọng được Bộ luật hình sự quy định đó
là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên
đa dạng, phức tạp, nhiều quan hệ xã hội mới nảy sinh chưa có quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa sâu, nhiều quan hệ xã hội cũ ngày một
biến đổi không ngừng. Theo đó, các quan hệ xã hội do ngành luật hình sự
điều chỉnh cũng liên tục thay đổi, tính chất các loại quan hệ được điều chỉnh
cũng theo chiều hướng đa dạng, có nhiều quan hệ xã hội có tính chất đặc biệt
mà chỉ có một số chủ thể nhất định có dấu hiệu riêng, dấu hiệu đặc biệt mới
có thể xâm hại được các loại quan hệ xã hội này, loại chủ thể đó được gọi là
chủ thể đặc biệt. Như vậy, chủ thể đặc biệt ngoài việc thỏa mãn những dấu
hiệu của chủ thể thường thì còn phải có các dấu hiệu riêng, đặc biệt khác.
Bộ luật hình sự hiện hành đã thể hiện có nhiều quy định về chủ thể
đặc biệt của tội phạm, phần lớn các quy định nằm trong các điều luật ở phần
các tội phạm, các quy định có thể trực tiếp đưa ra các dấu hiệu riêng trong cấu
thành cơ bản của tội phạm, hoặc có thể gián tiếp thể hiện qua việc mô tả tính
chất của loại tội phạm. Tuy nhiên, những quy định của Bộ luật hình sự về vấn
đề chủ thể đặc biệt còn chưa thống nhất, chưa cụ thể và rõ ràng, chặt chẽ,
nhiều quy định còn tạo ra cách hiểu khác nhau hoặc có những hướng dẫn
3
mang tính suy diễn. Điều này gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử hoặc dẫn đến việc giải thích, áp dụng pháp luật không thống nhất, đồng bộ.
Khó khăn trong việc xác định chủ thể tội phạm gây ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án, xử lý đúng người, đúng tội.
Thực tiễn cho thấy, những vụ án có liên quan đến chủ thể đặc biệt của
tội phạm diễn ra ngày càng nhiều, tính chất của hành vi phạm tội ngày càng
phức tạp và nguy hiểm, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng như các tội
phạm về chức vụ, tội phạm hiếp dâm Những quy định của Bộ luật hình sự
về vấn đề chủ thể đặc biệt là căn cứ để giải quyết các vụ án có liên quan, điều
này đòi hỏi những quy định về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm phải ngày
càng đầy đủ, thống nhất, cụ thể, rõ ràng, việc nắm vững các quy định này giúp
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy
ra, giải quyết vụ án nhanh gọn, chính xác, xử lý đúng người, đúng tội, đảm
bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài "Chủ thể đặc
biệt trong Luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ là vấn đề mang
tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn
trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là một nội dung trong vấn đề chủ thể
của tội phạm trong luật hình sự, đây cũng là nội dung có chiều hướng ngày
càng phát triển theo sự phát triển của các quan hệ xã hội được Luật hình sự
điều chỉnh. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp
nghiên cứu nội dung này mà nó chỉ được đề cập đến là một phần trong những
nghiên cứu về vấn đề chủ thể của tội phạm, một số nghiên cứu lại đề cập đến
những nội dung có liên quan đến vấn đề chủ thể đặc biệt. Ở cấp độ chung có
Giáo trình Luật hình sự do PGS.TSKH.Lê Cảm chủ biên, Ở cấp độ luận văn
4
có luận văn thạc sĩ "Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của Lê
Đăng Doanh; các công trình nghiên cứu ở phạm vi nhỏ xem xét từng mặt, khía
cạnh của vấn đề như: "Bàn về vấn đề quy định pháp nhân là chủ thể của tội
phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam" của Phạm Xuân Khoa, "Bàn về chủ thể
của tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999" của Trương Thị Hằng.
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí Công an nhân
dân, Trật tự an toàn xã hội, Tòa án nhân dân, Dân chủ và pháp luật, Kiểm sát
như: "Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm rửa tiền trong Luật hình sự
Việt Nam" của Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm 2011,
tr. 9-14; "Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước ta với
pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống châu Âu lục địa" của Hồ Sĩ
Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2008, tr. 68-72; "Pháp nhân
có là chủ thể của tội phạm hay không" của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học,
năm 1999, tr. 14-19; "Phạm vi chủ thể của tội phạm Bộ luật hình sự 1999 và
một số vấn đề trong công tác điều tra hình sự" của Bùi Kiên Điện, Tạp chí
Luật học, số 4, năm 2000, tr. 7-11; "Bàn về vấn đề quy định pháp nhân là chủ
thể trong Bộ luật hình sự Việt Nam" của Phạm Xuân Khoa, Tạp chí Kiểm sát,
số 4, năm 2013, tr. 13-15,23 cũng đề cập đến vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập đến góc độ lý luận chung về
yếu tố chủ thể của tội phạm, nội dung chủ thể đặc biệt của tội phạm mới chỉ
được đề cập đến là một phần, một nội dung nhỏ, ở nhiều bài viết, nhiều công
trình phần chủ thể đặc biệt còn mang tính tham khảo, phần nghiên cứu cũng
chưa giải quyết được những hạn chế của Luật về vấn đề chủ thể đặc biệt của
tội phạm, các quy định về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm còn nằm rải
rác ở các quy định của luật, nhiều chỗ còn thể hiện gián tiếp, chưa có công
trình nghiên cứu nào mang tính chuyên sâu, tổng hợp, có tính hệ thống về chủ
thể đặc biệt của tội phạm.
5
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "Chủ thể đặc biệt trong
luật hình sự Việt Nam" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật
trên thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của luật hình sự về
tội chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 1999 và việc áp
dụng trên thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm, cũng như đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề: Khái niệm, đặc điểm của chủ thể
đặc biệt của tội phạm, các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm, các
nhóm chủ thể đặc biệt của tội phạm, các tội và nhóm tội có chủ thể đặc biệt,
những vấn đề có liên quan đến chủ thể đặc biệt của tội phạm;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự
về chủ thể đặc biệt của tội phạm, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung
quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm cũng như nâng cao khả
năng áp dụng trên thực tế.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan về chủ thể đặc
biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam 1999, nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng trong thực tiễn xét xử
6
của Tòa án và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, quá trình nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thực tiễn, phương pháp thống kê.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình
sự Việt Nam hiện hành, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực
tiễn thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm của chủ thể đặc biệt của tội phạm; các
dấu hiệu của chủ thể đặc biệt và các nhóm chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự,
các vấn đề có liên quan đến dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội phạm, xem
xét mối quan hệ với chủ thể của tội phạm nói chung;
- Xem xét có hệ thống các quy định của luật hình sự về vấn đề chủ thể
đặc biệt của tội phạm;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của luật hình sự về
vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm; những tồn tại, hạn chế về lý luận và
thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của luật hình
sự về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm, cũng như nâng cao hiệu quả áp
dụng trong thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chủ thể đặc biệt của tội
phạm trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 1999.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về chủ thể
đặc biệt của tội phạm và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định này trên thực tiễn.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT
CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
1.1.1. Khái niệm chủ thể của tội phạm
Tội phạm là hành vi của con người có tính nguy hiểm cho xã hội, chủ
thể của tội phạm là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể
chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu đặc biệt do quy phạm pháp luật
hình sự tương ứng quy định)
Xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân,
mục đích của các biện pháp trách nhiệm hình sự là giáo dục, cải tạo những cá
nhân cụ thể đã thực hiện tội phạm, Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận
pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Trường hợp người có chức vụ, quyền hạn
trong pháp nhân đã điều hành hoặc lợi dụng địa vị pháp lý của pháp nhân gây
thiệt hại cho xã hội thì trách nhiệm hình sự đặt ra với những cá nhân đó chứ
không phải cho pháp nhân. Hiện nay, một số nước phát triển trên thế giới đều
đã công nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm và quy định những vấn đề
pháp lý đối với vấn đề chủ thể của tội phạm là pháp nhân, ví dụ như Hoa Kỳ,
Điều 2.07 Bộ luật hình sự mẫu 1962 xác định:
Các tập đoàn (công ty), các hiệp hội đều có thể là những chủ
thể của tội phạm (trừ các tập đoàn và các hiệp hội được sáng lập với
tính chất là các cơ quan nhà nước hay được nhà nước sáng lập để
thực hiện những chương trình của nhà nước). Các tập đoàn và các
hiệp hội đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không thực
9
hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định họ phải thực hiện. Trách
nhiệm hình sự mà các tập đoàn và hiệp hội phải gánh chịu là vì ban
lãnh đạo hoặc người đại diện của tập đoàn và hiệp hội do sơ suất
trong hành vi của mình (thay mặt cho tập đoàn hoặc hiệp hội) mà đi
đến chỗ phạm tội [61].
Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 1994 tại Điều 121.2 có quy định trừ
Nhà nước, các pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp
quy định trong luật về các tội phạm được thực hiện vì lợi ích của họ bởi các
cơ quan, đại diện của họ. Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trước đây, pháp
luật hình sự cũng không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Tuy
nhiên, trong Bộ luật hình sự mới nhất được thông qua tháng 3 năm 1997 đã có
các quy định pháp nhân cũng là chủ thể của tội phạm.
So với một số quốc gia khác mà ở đó pháp luật hình sự coi pháp nhân
là chủ thể của tội phạm thì nhịp độ phát triển kinh tế của nước ta chưa cao.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trong số các tội phạm kinh tế có không
ít các tội phạm do pháp nhân thực hiện. Báo cáo của ngành thuế hàng năm
cho thấy, mỗi năm Nhà nước thất thu hàng nghìn tỉ đồng tiền thuế mà nguyên
nhân của tình trạng này là do các cơ sở sản xuất kinh doanh cả của quốc
doanh và ngoài quốc doanh trốn thuế. Báo cáo của ngành quản lí thị trường
cũng chỉ ra tình trạng kinh doanh trái phép, làm và buôn bán hàng giả, lưu
hành sản phẩm kém phẩm chất, vi phạm các quy định về quảng cáo v.v...
đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Mặc dù vậy, việc xử lí về hình sự các
hành vi vi phạm kể trên rất khó vì luật hình sự nước ta không coi pháp nhân là
chủ thể của tội phạm.
Qua nghiên cứu tình hình tội phạm và thực tiễn hoạt động tố tụng hình
sự ở nước ta, cho thấy rằng đã đến lúc trong pháp luật hình sự của nước ta
phải có các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Trước đây, chúng
10
ta không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm bởi khi ấy chưa cần thiết
vì số các vi phạm pháp luật của pháp nhân đạt tới mức nguy hiểm như tội
phạm còn ít, chưa đáng kể, nhưng trong xu hướng phát triển gần đây, việc quy
định pháp nhân là chủ thể của tội phạm là cần thiết.
Động vật được con người sử dụng để gây thiệt hại cho xã hội thì
người quản lý hoặc sử dụng chúng phải chịu trách nhiệm, chủ thể của tội
phạm không thể là con vật.
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đang sống. Người đã chết
không thể là chủ thể của tội phạm. Nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình
sự với người đã chết mặc dù trước đó người này đã thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Một người sẽ trở
thành chủ thể của tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi mà luật hình sự quy định. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện để
chủ thể có lỗi. Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở năng lực nhận thức ý
nghĩa xã hội của hành vi mà người đó thực hiện và năng lực điều khiển hành
vi của mình theo những đòi hỏi và chuẩn mực xã hội. Một người nhận thức và
điều khiển được hành vi của mình thì mới có khả năng tiếp thu được những
biện pháp tác động mang tính giáo dục của xã hội, và nhà nước mới đặt vấn
đề giáo dục, cải tạo họ.
Năng lực nhận thức điều khiển hành vi của con người không thể có
ngay từ khi họ mới sinh ra, nó được hình thành từng bước theo thời gian trong
quá trình sống và hoạt động của chủ thể, khi chủ thể đạt tới độ tuổi nhất định.
Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
hai điều kiện của chủ thể tội phạm, hai dấu hiệu bắt buộc của chủ thể tội
phạm. Tuy nhiên, ngoài hai dấu hiệu bắt buộc và phổ biến này của chủ thể,
một số tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu bắt buộc khác, trường
hợp này được gọi là chủ thể đặc biệt.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo thi hành Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu Tập huấn chuyên
sâu về Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 25/9/2001 hướng dẫn áp dụng Chương "Các tội xâm
phạm chế độ hôn nhân và gia đình", Hà Nội.
3. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình
sự, tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. (Tái bản lần thứ nhất - 2003).
5. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những
vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
8. Chính phủ (2009), Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 hướng
dẫn Luật phòng chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã, Hà Nội.
12
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Bùi Kiên Điện (2000), "Phạm vi chủ thể của tội phạm Bộ luật hình sự 1999
và một số vấn đề trong công tác điều tra hình sự", Luật học, (4), tr. 7-11.
15. Phạm Hồng Hải (1999), "Pháp nhân có là chủ thể của tội phạm hay
không", Luật học, tr.14-19.
16. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (1999), "Thuật ngữ Luật hình sự", Trong
sách: Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển Pháp luật hình sự, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
19. Phạm Xuân Khoa (2013), "Bàn về vấn đề quy định pháp nhân là chủ thể
trong Bộ luật hình sự Việt Nam", Kiểm sát, (4), tr. 13-15, 23.
20. Liên hợp quốc (2003), Công ước về phòng chống tham nhũng.
21. "Luật hình sự một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật,
(Số chuyên đề).
22. Uông Chu Lưu (Chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 1999 (Phần chung), tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Minh (2011), "Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm
rửa tiền trong Luật hình sự Việt Nam", Dân chủ và pháp luật, tr. 9-14.
13
24. Nguyễn Quốc Nhật, Phạm Trung Hòa... (2001), Giáo dục, giúp đỡ người tù
tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần
chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (1986), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
31. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2000), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
33. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội
34. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
36. Quốc hội (2006), Luật bình đẳng giới, Hà Nội.
37. Quốc hội (2007), Luật phòng chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
38. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
39. Quốc hội (2009), Luật dân quân tự vệ, Hà Nội.
40. Quốc hội (2009), Luật dân quân tự vệ, Hà Nội.
41. Trần Thị Quỳnh (2007), Chế định miễn hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
42. Nguyễn Sơn (2002), Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
14
43. Hồ Sĩ Sơn (2008), "Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự
nước ta với pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống châu Âu lục
địa", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 68-72.
44. Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
45. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
46. Tòa án nhân dân tối cao (1967), Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/5/1967
hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm trẻ em và các tội phạm khác
xâm phạm về mặt tình dục, Hà Nội.
47. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố
tụng, Hà Nội.
48. Tòa án nhân dân tối cao (1999-2006), Thống kê tình hình xét xử của
ngành Tòa án nhân dân từ năm 1999 đến 2006, Hà Nội.
49. Tòa án nhân dân tối cao (1999 - 2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành
Tòa án nhân dân từ năm 1999 đến 2006, Hà Nội.
50. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày
4/8/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự 1999, Hà Nội.
51. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp -
Bộ Công an (2000), Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP-BCA ngày 12/6/2000 hướng dẫn thi hành Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10
và Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 về việc thi hành Bộ luật hình sự,
Hà Nội.
52. Trịnh Quốc Toản (2010), Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
53. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Hà Nội.
15
54. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp
luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
55. Đào Trí Úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050006278_309_2010052.pdf