Từ đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội cho thấy huyện Phú Ninh có những
thuận lợi sau:
- Có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng thâm canh
cao, đa dạng hóa sản phẩm; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung.
Vùng Đông kênh chính Phú Ninh có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước
ngọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm; vùng phía Tây trên kênh chính Phú Ninh có lợi thế
phát triển chăn nuôi đại gia súc và phát triển kinh tế vườn – rừng theo hướng nông –
lâm kết hợp.
- Có tiềm năng phát triển công nghiệp với quy mô lớn.
- Có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, lịch sử.
- Có tiềm năng mở rộng các hoạt động thương mại – dịch vụ.
- Huyện Phú Ninh thuộc vùng kinh tế động lực của tỉnh Quảng nên có nhiều lợi
thế trong phát triển kinh tế - xã hội như: huy động nguồn vốn đầu tư, đào tạo nguồn
nhân lực; tiếp cận khoa học công nghệ và gần kề thị trường lớn có thu nhập cao.
- Kinh tế trên địa bàn huyện Phú Ninh liên tục có nhịp độ tăng trưởng ổn
định ở mức cao, CCKT đang có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Đời sống của
người dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, số hộ nghèo ngày
một giảm; niềm tin của người dân vào Đảng ngày càng được củng cố, là cơ sở cho
phát huy khối đại đoàn kết, để thúc đẩy phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
- Đặc biệt là huyện Phú Ninh được Ban Bí thư chọn xã Tam Phước là 1 trong
11 xã điểm toàn quốc để xây dựng mô hình nông thôn mới, đại diện cho khu vực
duyên hải Nam trung bộ. Đây là miềm vinh dự, cơ hội lớn, nhưng cũng là thách
thức, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện phải nỗ lực lớn, quyết tâm cao trong
việc xây dựng nông thôn mới.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NH
TÊ
́ HU
Ế
42
2.1.2.3. Văn hóa, xã hội
- Tập trung đầu tư mở rộng hệ thống trường, lớp, thực hiện tầng hóa, kiên cố
hóa trường học; đã xây dựng mới trường Trung học phổ thông Nguyễn Dục; tầng
hóa, kiên cố hóa lên 22 trường; tăng thêm 13 trường học đạt chuẩn quốc gia, nâng
số trường đạt chuẩn lên 15 trường, có 100% trường trung học cơ sở dạy tin học. Đội
ngũ cán bộ, giáo viên ngành giáo dục đạt chuẩn trên 98%, trong đó có 48% trên
chuẩn. Công tác phổ cập giáo dục bậc tiểu học, trung học cơ sở được duy trì. Có 1
xã được công nhận phổ cập giáo dục bậc trung học. Phong trào khuyến học, khuyến
tài phát triển rộng khắp.
- Xây dựng hoàn thành Trung tâm y tế huyện, có 9 xã, thị trấn đạt chuẩn
quốc gia về y tế. Công tác phòng, chống dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm được tích cực triển khai. Công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em được
chú trọng, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 11,52%, giảm 8,54% so với
năm 2005.
- Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và công tác tuyên truyền có
nhiều tiến bộ. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đi vào thực
chất; có 80,6% số gia đình, 15 thôn, 16 tộc họ đạt chuẩn văn hóa. Các thiết chế văn
hóa được đầu tư tăng thêm. Có thêm 2 di tích được công nhận cấp quốc gia,16 di
tích được công nhận cấp tỉnh. Trùng tu, nâng cấp một số di tích với kinh phí trên 6,8
tỷ đồng. Phong trào tập luyện thể dục thể thao trong nhân dân có phát triển. Hạ tầng
kỹ thuật thông tin truyền thông và hệ thống truyền thanh được đầu tư mở rộng.
- Các chế độ đối với người có công cách mạng, gia đình chính sách được giải
quyết kịp thời; lập hồ sơ giải quyết chế độ cho 5.208 trường hợp. Đã xóa 247 nhà
tạm và nâng cấp, sữa chữa 516 nhà ở cho đối tượng chính sách. Xây dựng hoàn
thành nghĩa trang liệt sĩ trung tâm huyện. Công tác giảm nghèo đạt kết quả tích cực,
tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 13,29%, giảm 8,74% so với năm 2005. Xây dựng, nâng cấp
trên 860 nhà ở cho đối tượng xã hội, đã hoàn thành xóa nhà dột nát vào năm 2008.
Hằng năm giải quyết việc làm mới cho trên 600 lao động, đến nay tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt 23,9%.
ĐA
̣I H
Ọ
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
43
2.1.3. Đánh giá chung về đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.3.1. Thuận lợi
Từ đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội cho thấy huyện Phú Ninh có những
thuận lợi sau:
- Có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng thâm canh
cao, đa dạng hóa sản phẩm; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung.
Vùng Đông kênh chính Phú Ninh có tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước
ngọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm; vùng phía Tây trên kênh chính Phú Ninh có lợi thế
phát triển chăn nuôi đại gia súc và phát triển kinh tế vườn – rừng theo hướng nông –
lâm kết hợp.
- Có tiềm năng phát triển công nghiệp với quy mô lớn.
- Có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, lịch sử.
- Có tiềm năng mở rộng các hoạt động thương mại – dịch vụ.
- Huyện Phú Ninh thuộc vùng kinh tế động lực của tỉnh Quảng nên có nhiều lợi
thế trong phát triển kinh tế - xã hội như: huy động nguồn vốn đầu tư, đào tạo nguồn
nhân lực; tiếp cận khoa học công nghệ và gần kề thị trường lớn có thu nhập cao.
- Kinh tế trên địa bàn huyện Phú Ninh liên tục có nhịp độ tăng trưởng ổn
định ở mức cao, CCKT đang có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Đời sống của
người dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, số hộ nghèo ngày
một giảm; niềm tin của người dân vào Đảng ngày càng được củng cố, là cơ sở cho
phát huy khối đại đoàn kết, để thúc đẩy phát triển nông thôn văn minh, hiện đại.
- Đặc biệt là huyện Phú Ninh được Ban Bí thư chọn xã Tam Phước là 1 trong
11 xã điểm toàn quốc để xây dựng mô hình nông thôn mới, đại diện cho khu vực
duyên hải Nam trung bộ. Đây là miềm vinh dự, cơ hội lớn, nhưng cũng là thách
thức, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân toàn huyện phải nỗ lực lớn, quyết tâm cao trong
việc xây dựng nông thôn mới.
- Huyện có nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động cần cù, chịu khó, từng
bước được đào tạo nghề; bộ máy hành chính từ huyện đến xã đang nỗ lự cải cách
ẠI
HO
̣C K
INH
TÊ
́ HU
Ế
44
hành chính, xây dựng các cơ chế chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư, tạo điều kiện cho
huyện bước vào giai đoạn mới – giai đoạn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
2.1.3.2. Khó khăn
- Tuy công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vài năm gần đây có phát triển khá,
nhưng tỷ trọng ngành nông nghiệp trong CCKT vẫn còn cao, tỷ trọng lao động nông
nghiệp còn lớn. Bên cạnh đó, điểm xuất phát kinh tế và kết cấu hạ tầng thấp, tỷ lệ
hộ nghèo còn cao, nguồn thu ngân sách ít ỏi, nên có thể nói Phú Ninh là một trong
huyện nghèo ở khu vực đồng bằng của tỉnh Quảng Nam. Do vậy, để tạo sự bức phá
trong phát triển, ngoài phát huy nội lực, rất cần sự ưu tiên của Tỉnh, Trung ương và
các tổ chức khác, để tập trung xây dựng huyện trở thành huyện nông thôn mới.
- Chất lượng nguồn lao động, trình độ dân trí thấp, tiếp cận kinh tế thị
trường, sản xuất sản phẩm hàng hóa còn nhiều hạn chế.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng tuy đã có sự tập trung đầu tư khá, nhưng vẫn còn
yếu và thiếu, nhất là cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật; trong đó bức xúc nhất là giao
thông, thủy lợi; do vốn đầu tư quá ít ỏi, nên tốc độ xây dựng còn chậm, làm hạn chế
phát triển kinh tế.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khu vực sản xuất nông nghiệp chưa ổn
định; tỷ trọng nông phẩm hàng hóa được tiêu thụ thông qua các hợp đồng còn rất
thấp, chủ yếu vẫn dưới hình thức tự sản xuất, tự tiêu thụ vì vậy, người nông dân
chưa yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất; việc liên kết “4 nhà” vẫn còn nhiều bất cập.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành ở huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam
2.2.1.1. Cơ cấu kinh tế ngành theo GDP
- Phú Ninh là một huyện nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt của miền
Trung, chỉ chiếm 6% về dân số của tỉnh Quảng Nam. So với nhiều huyện trong tỉnh,
qui mô nền kinh tế của huyện thuộc loại nhỏ.
ĐA
̣I H
ỌC
KIN
H T
Ế H
UÊ
́
45
Bảng 2.1. Qui mô, tốc độ tăng trưởng GDP theo ngành trên địa bàn
huyện Phú Ninh giai đoạn 2005 – 2010
Năm Tổng số Trong đó
Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp
và xây dựng
Dịch vụ
1. Qui mô GDP (triệu đồng, giá cố định 1994)
2005 187.677 108.853 45.043 33.781
2006 218.986 117.157 61.754 40.075
2007 255.627 123.212 82.823 49.592
2008 297.788 135.791 110.479 51.518
2009 349.007 135.763 144.837 68.407
2010 413.071 140.444 190.012 82.615
2. Tốc độ tăng trưởng (%)
2006 16,7 7,6 37,1 18,6
2007 16,7 5,2 34,1 23,7
2008 16,5 10,2 33,4 3,9
2009 17,2 0 31,1 32,8
2010 18,4 3,4 31,2 20,8
Nguồn: [26, 40], [20, 4]
Tổng sản phẩm của huyện năm 2010 tính theo giá hiện hành là 2.014,8 tỷ đồng
(theo giá so sánh 1994 là 935,094 tỷ đồng). Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng trong 6 năm
qua đạt được khá cao, trong giai đoạn 2005 - 2010 đạt hơn 18%, đã làm cho quy mô
GDP năm 2010 gấp hơn 2 lần so với năm 2005. Trong đó, quy mô GDP năm 2005
của ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là cao nhất, sau đó đến quy mô GDP của ngành
công nghiệp và xây dựng và thấp hơn cả là quy mô GDP của ngành dịch vụ. Tuy
nhiên, đến năm 2010 thì thứ tự này đã có sự thay đổi lớn, ngành công nghiệp và xây
dựng có quy mô GDP cao nhất, sau đó đến ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản và
cuối cùng là ngành dịch vụ.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
46
Hình 2.1. Biểu đồ qui mô GDP theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 – 2010 (giá 1994)
Từ bảng 2.1 và hình 2.1 cho thấy ngành công nghiệp và xây dựng trong
những năm gần đây mang lại GDP khá lớn trong CCKT, điều này đã thể hiện đúng
thực tế trong thời gian qua huyện đã dành nguồn vốn lớn đầu tư cho ngành này, đặc
biệt là xây dựng các khu, cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ và các dự án đang
đi vào hoạt động. Giá trị GDP của ngành dịch vụ năm 2010 tăng 2,5 lần so với năm
2005, mặc dù có sự tăng lên về quy mô GDP nhưng huyện vẫn chưa khai thác hết
lợi thế của ngành này, điều này một phần là do các dịch vụ đi kèm với ngành du lịch
và các dịch vụ khác chưa tốt, nguồn lực đầu tư chưa nhiều để có được động lực thực
sự cho ngành này phát triển. Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản có giá trị GDP lớn
nhất nhưng sự tăng lên về quy mô GDP của ngành này không lớn, năm 2010 chỉ
tăng gấp 1,3 lần so với năm 2005, so với hai ngành còn lại thì sự tăng lên về quy mô
GDP của ngành này không lớn. Như vậy, để có được sự tăng trưởng ổn định thì
trong thời gian đến Phú Ninh cần có sự đầu tư đồng bộ vào các ngành, ngành này
phải tạo được động lực cho sự phát triển của ngành kia và ngược lại.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
47
0
5
10
15
20
25
30
35
40
2006 2007 2008 2009 2010
Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ
Hình 2.2. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP theo ngành trên địa bàn
huyện Phú Ninh giai đoạn 2005 – 2010 (giá 1994)
- Hình 2.2 cho thấy tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành công nghiệp và xây
dựng, dịch vụ của Phú Ninh đều ở mức cao nhưng không ổn định. Điều đó chứng tỏ
dù ở quy mô nhỏ bé nhưng kinh tế của huyện chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế của thế giới khá rõ nét: tốc độ tăng trưởng của dịch vụ năm 2008 chỉ đạt 3,9%;
tốc độ tăng trưởng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2009 hầu như
không tăng. Ta cũng thấy rằng tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp –
xây dựng là cao nhất, đường biểu diễn tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành này nằm
trên các đường biểu diễn tốc độ tăng trưởng so với hai nhóm ngành nông nghiệp và
dịch vụ. Sở dĩ có kết quả này là do trong giai đoạn qua huyện đang có sự ưu tiên
cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho một huyện mới thành lập và sắp tới tốc độ
tăng trưởng của nhóm ngành này sẽ tăng hơn nữa do có sự ưu tiên đầu tư từ nguồn
vốn Trung Ương để xây dựng các hạn mục tiến tới hình thành diện mạo của một
huyện nông thôn mới. Tiếp đến là sự tăng trưởng hết sức bấp bênh của nhóm ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản cho thấy sự phụ thuộc rất lớn của nhóm ngành này
vào các điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết gây nên dịch bệnh cũng như sự biến
động của thị trường. Nếu trong thời gian tới không tìm được cách để tạo ra các
giống cây trồng, vật nuôi mới thích nghi với sự biến đổi khí hậu và tìm kiếm thị
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
48
trường đầu ra cho các sản phẩm còn nhiều yếu kém. Điều đó thể hiện sự phát triển
của kinh tế của huyện còn thiếu bền vững.
- CCKT theo nhóm ngành ở huyện Phú Ninh giai đoạn 2005 - 2010 có sự
chuyển dịch đáng kể. So với năm 2005, trong cơ cấu GDP của huyện năm 2009, tỷ
trọng nhóm ngành công nghiệp và xây dựng tăng 22%; dịch vụ tăng 2%; ngược lại,
nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 24% (xem bảng 2.2). Đáng chú ý là
trong CCKT, nhóm ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng cao nhất (46%).
Điều đó phù hợp với định hướng CCKT: từ cơ cấu nông, lâm nghiệp, thủy sản – công
nghiệp, xây dựng – dịch vụ dần chuyển sang cơ cấu công nghiệp, xây dựng – nông,
lâm nghiệp, thủy sản – dịch vụ mà Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII (2005) đề ra.
Bảng 2.2. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 – 2010
Năm
Tổng GDP tính
giá cố định 1994
(triệu đồng)
Trong đó
Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản (%)
Công nghiệp
và xây dựng
(%)
Dịch vụ
(%)
2005 187.677 58,0 24,0 18,0
2006 218.986 53,5 28,2 18,3
2007 255.627 48,2 32,4 19,4
2008 297.788 45,6 37,1 17,3
2009 349.007 38,9 41,5 19,6
2010 413.071 34,0 46,0 20,0
Nguồn: [26, 40], [20, 4]
Nhìn chung, xu hướng chuyển dịch CCKT của huyện diễn ra nhanh và phù
hợp với xu hướng chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, đã từng bước hình
thành một CCKT tiến bộ hơn.
2.2.1.2. Cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành
- Cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh giai đoạn
2005 – 2010 được thể hiện ở bảng 2.3 và hình 2.3. Qua đó cho thấy: Trong giai đoạn
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
49
2005 – 2010 giá trị sản xuất các ngành đều tăng, trong đó giá trị sản xuất ngành công
nghiệp và xây dựng, dịch vụ tăng nhanh chóng. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản ngày càng giảm, năm 2010 giảm còn 29,4%, so với năm 2005
cơ cấu ngành này chiếm 58%. Trong khi đó cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp
và xây dựng, dịch vụ ngày càng tăng, cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp và
xây dựng tăng từ 26,2% (năm 2005) lên 51,3% (năm 2010), cơ cấu giá trị sản xuất
ngành dịch vụ tăng từ 15,8% (năm 2005) lên 19,3% (năm 2010).
Bảng 2.3. Cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 - 2010
Năm
Tổng giá
trị sản
xuất (giá
cố định
1994)
Trong đó
Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
Công nghiệp và
xây dựng
Dịch vụ
Giá trị
sản xuất
(triệu
đồng)
Cơ
cấu
(%)
Giá trị
sản xuất
(triệu
đồng)
Cơ
cấu
(%)
Giá trị
sản
xuất
(triệu
đồng)
Cơ
cấu
(%)
2005 366.466,2 212.421 58,0 96.009,2 26,2 58.016 15,8
2006 422.915,5 223.762 53,0 127.664,5 30,2 71.489 16,8
2007 508.113,2 236.474 47,0 184.724,2 36,4 86.915 17,0
2008 609.263,2 249.024 41,0 253.180,2 42,0 107.059 17,0
2009 759.461 259.030 34,0 354.931 46,8 145.500 19,2
2010 934.910 275.128 29,4 479.127 51,3 180.655 19,3
Nguồn: [25, 35-75], [26, 47-96], [20, 4]
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
50
Hình 2.3. Biểu đồ giá trị sản xuất theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 – 2010 (giá 1994)
- Sở dĩ cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng
cao nhất trong các ngành là do nhu cầu xây dựng mới các công trình cơ bản của một
huyện mới thành lập và đang trong quá trình xây dựng một huyện nông thôn mới.
Hơn nữa, huyện đã và đang xây dựng các khu, cụm công nghiệp đã mở ra nhiều cơ
hội cho các doanh nghiệp đến đây đầu tư. Cùng với quá trình trên các dịch vụ cũng
được đa dạng hóa, du lịch được quan tâm đúng mức đã dần nâng cao tỷ trọng của
ngành công nghiệp không khói này. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu giá trị
sản xuất của các ngành ở Phú Ninh trong thời gian qua là phù hợp với xu hướng
CNH, HĐH và từng bước hình thành huyện nông thôn mới trong tương lai.
2.2.1.3. Cơ cấu lao động theo ngành
Cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh giai đoạn 2005 –
2010 được thể hiện ở bảng 2.4 và hình 2.4.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
51
Bảng 2.4. Cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 - 2010
Năm
Nông nghiệp Phi nông nghiệp
Số lao động
(người)
Tỷ trọng
(%)
Số lao động
(người)
Tỷ trọng
(%)
2005 26.445 75,0 8.794 25,0
2006 25.791 70,2 10.948 29,8
2007 25.399 68,0 11.953 32,0
2008 25.271 66,5 12.731 33,5
2009 24.810 65,0 13.349 35,0
2010 24.450 63,0 14.393 37,0
Nguồn: [25, 21-78], [26, 23-99], [24]
Hình 2.4. Biểu đồ lao động theo ngành trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 – 2010 (giá 1994)
- Cùng với sự chuyển dịch CCKT thì cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo.
Qua bảng 2.4 và hình 2.4 ta thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động từ lao động
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
52
nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp (công nghiệp, xây dựng và dịch vụ)
ngày càng rõ nét. Cụ thể, trong năm 2005 lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng 75%
nhưng đến năm 2010 đã giảm xuống còn 63%, lao động phi nông nghiệp chiếm tỷ
trọng 25% vào năm 2005 nhưng đến năm 2010 tăng lên 37%. Nếu so sánh với cả
nước thì sự chuyển dịch này diễn ra chậm nhưng đối với một huyện thuần nông như
Phú Ninh, lại mới được thành lập hơn 6 năm thì sự chuyển dịch này cũng ở mức
tương đối nhanh. Có được kết quả này là do những năm gần đây có nhiều mô hình
sản xuất có giá trị kinh tế cao, dự án công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp - thương
mại dịch vụ đã đi vào hoạt động đã thu hút số lao động đi đào tạo trở về địa phương
công tác và số lao động trước đây đi làm ăn ở nhiều nơi đã về định cư và làm ăn lâu
dài trên chính quê hương mình. Điển hình như dự án Nhà máy Công nghệ vật liệu
Việt - Hàn, có tổng nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1 lên đến 50 tỷ đồng, giải quyết việc
làm cho 300 lao động ở xã Tam Lộc. Hay dự án mở rộng nhà xưởng, thiết bị của
Công ty TNHH cơ khí Cao Xuân Dũng, với nguồn vốn hơn 5 tỷ đồng đã giải quyết
việc làm cho 50 lao động địa phương. Đến nay, riêng lĩnh vực phát triển ngành công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, toàn huyện có 573 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, tăng
gấp 1,3 lần so với năm 2005. Trong đó, có 34 doanh nghiệp mới được thành lập và
đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các làng nghề truyền thống trước đây như
nghề đan lát Tam Vinh, làng mộc Văn Hà, nghề đan mây tre Tam Thành đang được
quan tâm đầu tư đúng mức để khôi phục và phát triển, đã góp phần tăng nguồn thu
nhập kinh tế gia đình và giải quyết lực lượng lao động khá lớn ở địa phương.
- Thực tế cho thấy muốn có sự chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp
sang ngành phi nông nghiệp đòi hỏi phải có quá trình đào tạo lâu dài, ít nhất là 1 năm
đối với lao động có tay nghề trung bình, đối với lao động có trình độ cao thì đòi hỏi
thời gian đào tạo lâu hơn. Bên cạnh quá trình đào tạo thì huyện cần phải có chính
sách thu hút nguồn nhân lực sau khi đào tạo trở lại địa phương để làm việc lâu dài là
hết sức cần thiết. Mặc khác, lao động ở một huyện thuần nông như Phú Ninh thường
mang đặc tính, người lao động vừa làm việc trong ngành nông nghiệp, vừa làm việc
trong ngành phi nông nghiệp nên hiệu quả công việc không cao, tính chuyên môn hóa
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
53
thấp. Hệ quả này, một mặt là do lao động trong nông nghiệp với tư liệu sản xuất chủ
yếu là ruộng đất nhưng mức độ tích tụ ruộng đất lại không cao, sản xuất mang tính
manh mún chưa thực sự mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân, mặt khác là
lao động nông nghiệp lại mang tính thời vụ nhiều hơn so với các ngành khác.
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ các ngành sản xuất ở huyện Phú
Ninh, tỉnh Quảng Nam
2.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp
Bảng 2.5. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Phú Ninh
giai đoạn 2005 – 2010 (giá cố định 1994)
Đvt: Triệu đồng
Ngành 2005 2006 2007 2008 2009 2010
1. Nông nghiệp
Trong đó:
Chăn nuôi
202.417,3
66.202,9
195.315
59.655,6
224.721
75.910
231.579
80.134,5
238.891
85.363
250.719
117.837,9
2. Lâm nghiệp 9.286 25.597 10.376 6.420 6.607 6.809
3. Thủy sản 717,7 2.850 1.377 11.025 13.532 17.600
Nguồn: [25, 35], [26, 47], [20, 4]
- Trong giai đoạn 2005 – 2010 giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng dần,
riêng năm 2006 giảm do xuất hiện bệnh dịch tai xanh trên lợn, cúm gia cầm và dịch
lở mồm long móng ở gia súc bùng phát làm cho giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi
giảm so với năm 2005. Từ năm 2006 đến nay, công tác tiêm phòng, ngừa các loại vắc
xin trên gia súc, gia cầm đã được huyện quan tâm nên đã phần nào ngăn chặn và làm
giảm thiệt hại cho người chăn nuôi, tạo tâm lý yên tâm cho người chăn nuôi. Bên
cạnh đó, việc cải tạo đàn lợn có tiến triển tốt, nhiều hộ đã chuyển sang nuôi lợn siêu
nạc nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng; mô hình trồng cỏ nuôi bò cũng được
nhân rộng, đặc biệt là các xã bán sơn địa, tỷ lệ bò lai trong đàn bò ngày càng tăng:
chiếm 35% trong tổng đàn vào năm 2008 bởi vì giống này cho sản lượng thịt cao hơn
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
54
so với bò ta. Ngoài những vật nuôi quen thuộc như trâu, bò, gà, vịt, ngan, ngỗng,
huyện còn đưa vào nuôi những vật nuôi mới phù hợp với điều kiện khí hậu của địa
phương như thỏ, gà sao, gà rừng, nhím, kỳ nhông có giá trị kinh tế cao.
- Giá trị sản xuất của ngành trồng trọt tăng qua các năm do huyện đã áp dụng
biện pháp thâm canh, xen canh cây trồng hằng năm, cải tạo vườn tạp, phòng trừ sâu
bệnh trên cây, tăng đầu tư cho hệ thống thủy lợi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất. Những loại cây lương thực chủ yếu của địa phương như: lúa với năng suất
trung bình 54 tạ/ha, trong đó năng suất lúa ở hai xã Tam Thành và Tam Phước là cao
hơn các xã còn lại. Diện tích ngô tăng qua các năm do thời tiết ngày càng nóng, ruộng
đất bị khô hạn, thiếu nước tưới cho những diện tích đất không chủ động được nước
tưới hoặc có trồng thì năng suất không cao thì việc đưa vào trồng giống ngô lai C919
cho năng suất bình quân 46 tạ/ha. Diện tích sắn cũng tăng qua các năm, chủ yếu là
trồng các giống ngắn ngày như Canh nông xanh hay KM95, năng trung bình khoảng
85 tạ/ha. Ngoài ra địa phương còn trồng lạc, vừng. Đáng kể là diện tích rau (hơn
1000ha mỗi năm) với việc sử dụng phương pháp sản xuất an toàn như trồng rau trong
nhà lưới, tưới phun mưa bằng hệ thống phun mưa đã làm cho giá trị sản xuất của các
loại rau màu tăng qua các năm đã cải thiện đáng kể đời sống của người dân. Năm
2006 đến nay huyện đã mở rộng diện tích giống lúa hàng hóa, đưa công nghệ mới
vào sản xuất như sạ hàng kết hợp bón phân vi sinh Biogro, phương pháp “3 tăng, 3
giảm” đã làm cho năng suất lúa tăng từ 51 tạ/ha vào năm 2005 lên 54 tạ/ha vào năm
2009, tiết kiệm lượng giống cũng như phân bón cho mỗi đợt sạ. Một số mô hình thâm
canh mang lại hiệu quả cao như: lúa đông xuân – lạc hè thu, ngô lai xen lạc đông
xuân, ngô xen đậu xanh hè thu, lúa/ngô lai đông xuân – dưa hấu xuân hè, ngô – lạc hè
thu, vùng cao có thể thâm canh đậu xanh – lúa rẫy hoặc ngô nếp – lúa rẫy hoặc ngô
đông xuân – đậu xanh/đậu nành. Bên cạnh áp dụng thâm canh, trong thời gian qua
huyện đặc biệt chú ý đến công tác cải tạo vườn tạp như mô hình trồng rau diếp cá, ớt,
bí đao, rau cải thay cho diện tích lang hay sắn mang lại giá trị kinh tế khoảng 60 triệu
đồng/ha; nuôi gà – cá nước ngọt, trồng chuối lùn vừa mang lại giá trị kinh tế cao vừa
đảm bảo mô hình VAC. Cùng với việc ứng dụng những biện pháp khoa học kỹ thuật
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
55
mới vào sản xuất là việc chuyển đổi cũng như đưa vào sử dụng những loại cây trồng
mới như ngô lai C919, nhiều giống lúa mới, dưa hấu An Tiêm, ớt Hàn Quốc chủ yếu
là xuất khẩu, trồng cây sa nhân tím để làm thuốc đã mở ra nhiều cơ hội mới cho
người dân vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
- Trong giai đoạn 2005 – 2006 giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp có 2 xu
hướng ngược chiều nhau: năm 2005 – 2006 tăng do phong trào trồng keo lai nổi lên
cùng với chương trình hỗ trợ vốn vay của huyện để tăng diện tích đất trống, đồi trọc
được phủ xanh; năm 2007 – 2008 giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp giảm dần cây
đang trong quá trình sinh trưởng, chưa khai thác hoặc khai thác ít. Bão năm 2009 đã
làm thiệt hại nhiều diện tích cây trồng hàng năm và cây công nghiệp đã làm cho giá
trị của ngành lâm nghiệp liên tục giảm trong những năm gần đây. Mặc khác, công
tác khoanh nuôi, bảo vệ rừng và phòng chống cháy rừng gắn với triển khai kế hoạch
trồng rừng; việc phân hạng rừng, chuyển giao đất rừng cho nhân dân tiến hành
chậm đã ảnh hưởng lớn đến giá trị sản xuất của ngành này.
- Từ năm 2005 đến nay giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng liên tục, năm
2010 tăng gấp 2,5 lần so với năm 2005. Có được kết quả trên là do người nuôi trồng
thủy sản đã áp dụng phương pháp nuôi trồng mới, thành lập các hội để trao đổi kinh
nghiệm trong sản xuất, sử dụng những giống thủy sản mới như: nuôi cá điêu hồng,
ếch, baba, các loại cá lai nước ngọt có khả năng cho năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn, kết hợp với mô hình VAC. Gần đây, mô hình kinh tế nuôi cá nước
ngọt đã được nông dân Phú Ninh "để mắt" tới. Với họ, mô hình này không xa lạ gì,
nhưng đáng nói là cách làm của bà con chưa mới, thiếu đột phá, và do vậy hiệu quả
còn thấp. Từ thực tế này, Hội Nông dân huyện và các cơ quan chuyên môn đã
hướng dẫn nông dân nuôi cá theo hướng chuyên canh giống cá lai năng suất cao, kết
hợp trồng cây thủy sinh (cây sen) lấy ngắn nuôi dài; thay cho phương thức nuôi
theo kiểu "khoán trắng" cho trời, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Từ sự vận động,
hướng dẫn này, tại các xã có kênh thủy lợi Phú Ninh đi qua, một số mô hình nuôi cá
kết hợp trồng sen đã hình thành.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
56
Bảng 2.6. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trên địa bàn
huyện Phú Ninh giai đoạn 2005 – 2010
Đvt: %
Ngành 2005 2006 2007 2008 2009 2010
1. Nông nghiệp
Trong đó: chăn
nuôi
95,3
32,7
87,3
30,5
95,0
33,8
93,0
34,6
92,0
35,7
91,1
47,0
2. Lâm nghiệp 4,4 11,4 4,4 4,4 5,2 2,5
3. Thủy sản 0,3 1.3 0,6 2,6 2,8 6,4
Nguồn: Tính toán của tác giả từ bảng 2.5
Hình 2.5. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trên địa bàn
huyện Phú Ninh năm 2005 và năm 2010
- Qua phân tích trên, bảng 2.6 và hình 2.5 cho ta thấy tỷ trọng ngành nông
nghiệp ngày càng giảm từ 95,3% vào năm 2005 xuống còn 91,1% vào năm 2010,
trong ngành nông nghiệp thì tỷ trọng ngành chăn nuôi ngày càng tăng từ 32,7% vào
năm 2005 lên 47% vào năm 2010; tỷ trọng ngành lâm nghiệp năm 2006 cao nhất sau
đó giảm dần, hoặc có tăng giảm nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu ngành
nông nghiệp, mặc dù đây là ngành có ưu thế của địa phương; tỷ trọng ngành thủy sản
tăng từ năm 2005 đến nay, năm 2010 tỷ trọng ngành tỷ sản đã tăng lên 6.4%.
Tóm lại, ngành nông nghiệp của huyện Phú Ninh thời gian qua đã chuyển
dịch mạnh mẽ cả về vật nuôi và cây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_dich_co_cau_kinh_te_nganh_theo_huong_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_o_huyen_phu_ninh_tinh_quang.pdf