MỞ ĐẦU .7
1. Lý do chọn đề tài .7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.9
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.15
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.15
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu .16
6. Đóng góp của đề tài .17
7. Bố cục của Luận văn.17
Chương 1. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ
VĨNH YÊN (VĨNH PHÚC) VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỪ NĂM 2005 ĐẾN
NĂM 2010 .18
1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương phát triển kinh tế của Đảng bộ Thành phố
Vĩnh Yên .18
1.1.1. Những yếu tố tác động, chi phối đến sự lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng
bộ Thành phố Vĩnh Yên .18
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Vĩnh Yên (2005-2010) .30
1.2. Sự chỉ đạo thực hiện (2005-2010).38
1.2.1. Về lĩnh vực công nghiệp.38
1.2.2. Về lĩnh vực thương mại – dịch vụ .41
1.2.3. Về lĩnh vực nông nghiệp - lâm nghiệp, thủy sản.46
Tiểu kết Chương 1.47
Chương 2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VĨNH YÊN (VĨNH PHÚC) LÃNH ĐẠO
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015 .49
2.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ Thành phố Vĩnh Yên.49
2.1.1. Bối cảnh và yêu cầu mới đặt ra .49
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng bộ Thành phố .50
2.2. Sự chỉ đạo thực hiện (2010-2015).54
2.2.1. Về lĩnh vực công nghiệp - xây dựng.54
50 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng bộ thành phố vĩnh yên (Vĩnh phúc) lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm 2005 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,3 lần so với mật độ dân số của
toàn tỉnh (814 người/km2). Đến 2015, mật độ dân số của thành phố là 2.000/ km2.
Theo Báo cáo của Dự án Điều tra cơ bản kinh tế – xã hội – môi trường, xây
dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quy hoạch phát triển bền vững vùng Kinh Tế Trọng
Điểm Bắc Bộ năm 2009, ngành nghề của các thành viên hộ gia đình làm dịch vụ
buôn bán là lớn nhất.
Theo số thống kê tỉnh Vĩnh Phúc, dân số trong độ tuổi lao động của thành
phố Vĩnh yên năm 2015 là 39 nghìn người, chiếm 37,25% tổng dân số. Trong đó,
lao động khu vực nông- lâm- ngư nghiệp là chiếm 17,2%, khu vực công nghiệp -
xây dựng chiếm 40,1%, khu vực dịch vụ chiếm 42,7%. Trên thực tế, số lượng lao
động làm nông nghiệp giảm mạnh, do quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh.
Hiện nay, Thành phố còn 2 xã nông nghiệp, song đã có kế hoạch chuyển đất nông
nghiệp sang đất xây dựng. Nhiều người nông dân hiện chưa chuyển đổi được ngành
nghề mới một cách ổn định nhưng họ cũng không còn là những người làm nông
nghiệp theo đúng nghĩa, vì thế, số liệu về lao động nông nghiệp nêu trên chỉ là số
tương đối và mang tính thời điểm.
Chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố từng bước được nâng lên, do đòi
hỏi của quá trình phát triển. Trong tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang hoạt
22
động kinh tế, lao động có trình độ chuyên môn trở lên chiếm 21,2%, Sơ cấp và
trung cấp nghề chiếm 10,4%. Đây là một lợi thế to lớn của Thành phố trong quá
trình phát triển. Tuy vậy, số lao động chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật đến
năm 2015 còn 40%.
Trên địa bàn thành phố tập trung các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực của cả
vùng. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 03 trường Cao đẳng, Đại học trong đó có
1 trường cao đẳng nghề dạy nghề. Trong các giai đoạn phát triển sắp tới, chất lượng
lao động của Vĩnh Yên chắc chắn sẽ tiếp tục được nâng lên, sẽ đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của công cuộc xây dựng và phát triển Vĩnh Yên trong thời kỳ quy hoạch.
Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động khu vực
phi nông nghiệp, từ 67,6% năm 2005 lên 82,8% năm 2009, năm 2015 lên 95%.
Về cơ cấu lao động: Lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, lao động
trong các ngành phi nông nghiệp có xu hướng tăng lên. Điều đó chứng tỏ thành phố
chuyển dịch mạnh về cơ cấu các ngành kinh tế. Lao động trong các ngành công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, chế biến và nhất là đối với ngành thương mại dịch vụ
tăng lên đáng kể.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên và nhân văn tương
đối phong phú, nguồn nhân lực dồi dào, hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng đã và
đang hoàn thiện Thành phố Vĩnh Yên có những điều kiện thuận lợi để phát triển
một nền kinh tế hiện đại. Nhiệm vụ của Đảng bộ thành phố là làm thế nào để lãnh
đạo phát triển nền kinh tế địa phương cho tương xứng với tiềm năng hiện có, góp
phần vào sự phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc và sự phát triển chung của đất nước.
Đánh giá chung về nguồn lực phát triển
Thuận lợi
Về vị trí: thành phố Vĩnh Yên có vị trí cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô, liền kề
các khu đô thị, khu công nghiệp lớn, nằm trên đường giao thông kết nối các tỉnh
phía Bắc với Hà Nội; là đầu mối giao thương với các tỉnh trong vùng, là điều kiện
để phát triển các loại hình dịch vụ. Có điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong
và ngoài nước để phát triển nền kinh tế đa dạng: Công nghiệp - xây dựng, dịch vụ -
du lịch, nông nghiệp - lâm nghiệp.
23
Về cơ sở hạ tầng giao thông hiện có: thành phố Vĩnh Yên dễ dàng kết nối với
bên ngoài nhờ hệ thống đường giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt đã hình
thành tương đối đồng bộ: có đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài, đường sắt
Hà Nội - Lào Cai; đường thuỷ sông Hồng, gần với sân bay quốc tế Nội Bài..
Điều kiện tự nhiên: đất đai, khí hậu thích hợp với nhiều loại cây trồng, vật nuôi tạo
điều kiện cho thành phố Vĩnh yên có thể phát triển sản xuất nông nghiệp đa dạng,
rau cao cấp và thực phẩm tươi sống đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong thành phố
và cung cấp cho thị trường bên ngoài.
Thành phố Vĩnh Yên có các khu du lịch sinh thái ở Đàm Vạc, gần Tam Đảo,
các điểm thăm quan thu hút rất nhiều du khách mỗi năm như Đền Hai Bà Trưng,
Đồi 79 mùa xuân, Tây Thiên, tam Đảo Thêm nữa, cùng với vị trí địa lý có thể tạo
ra các liên kết với các điểm du lịch phát triển trong vùng như Phú Thọ, Sơn Tây,
Đại Lải, Sóc Sơn, Đông Anh, Bắc Ninh, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển
ngành dịch vụ.
Thành phố Vĩnh Yên có khu công nghiệp Khai Quang, có khu đô thị và
nguồn nhân lực khá dồi dào, người dân khá năng động, nhạy bén trong chuyển đổi
sản xuất và làm kinh tế.
Khó khăn, hạn chế
Kết cấu hạ tầng bên trong của thành phố Vĩnh Yên phát triển chậm, thiếu
đồng bộ; chất lượng hệ thống cấp điện, nước chưa theo kịp yêu cầu phát triển; giao
thông chưa đấu nối được các huyết mạch. Các dịch vụ hậu cần sản xuất: Vận tải, tài
chính và hạ tầng xã hội yếu kém, gây cản trở sản xuất kinh doanh trên địa bàn
Thành phố.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm cho người lao động vốn phần
lớn chuyển đổi từ nông nghiệp, chưa qua đào tạo gây khó khăn trong chuyển đổi
nghề; nhiều thách thức về xã hội và việc làm nảy sinh với người nông dân bị mất
đất sản xuất. Vì vậy, rất cần có chiến lược để địa phương có thể phát triển.
1.1.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
về phát triển kinh tế
24
Trên cơ sở “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” và chủ trương phát triển kinh tế của Đảng được đề ra tại Đại hội VIII
(1996), tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng đã khẳng định đường lối
phát triển kinh tế ở Việt Nam: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng - an ninh.
Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra tại trong giai đoạn 2000-2005,
Trung ương Đảng đề ra “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 –
2010” nhằm: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người,
năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an
ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [3,
tr.159].
Đảng cũng chỉ ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 là
bước rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 10 năm 2001-2010 nhằm: Tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển
dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế
đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo;
đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình
thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
25
Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh CNH -
HĐH, phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh Vĩnh Phúc, Đại hội Đại biểu lần thứ XIV
của tỉnh Vĩnh Phúc (2005) đã đề ra chủ trương, đường lối phát triển kinh tế nhằm
vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, giữ vững định hướng XHCN, phát
huy vai trò là trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, huy động sức mạnh tổng hợp
xây dựng và phát triển Vĩnh Phúc ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại. Đi đầu
trong phát triển kinh tế tri thức và nâng cao chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để thực hiện điều đó, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chủ trương đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, coi trọng cả việc mở rộng quy mô với nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của kinh tế Vĩnh Phúc. Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh:
Chuyển mạnh nền kinh tế theo hướng công nghiệp - nông nghiệp- dịch vụ theo
hướng CNH, HĐH, kinh tế tri thức; tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, sử
dụng nhân lực chất lượng cao vào quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch
vụ chất lượng cao có giá trị gia tăng lớn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
theo định hướng phát triển cho từng lĩnh vực kinh tế...
Từ những chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã mở
đường cho Đảng bộ Thành phố Vĩnh Yên đưa ra những chủ trương đúng đắn và phù
hợp để phát triển kinh tế. Do đó mà bức tranh kinh tế toàn thành phố đã có những
thành tựu khởi sắc hơn.
1.1.1.3. Thực trạng phát triển kinh tế của Thành phố Vĩnh Yên trước năm 2005
Sau khi tái lập tỉnh (năm 1997), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc, nhân dân Vĩnh Phúc nói chung và nhân dân thành phố Vĩnh yên nói riêng đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, Vĩnh Phúc vẫn là tỉnh nghèo. Kinh tế tăng trưởng nhanh song chưa bền
vững. Sức cạnh tranh của hàng hóa chưa cao. Đại bộ phận dân số (khoảng gần 80%)
làm nông nghiệp, có thu nhập thấp. Nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội còn khó khăn.
26
Trình độ lãnh đạo và năng lực quản lý của cán bộ còn bất cập với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới.
Nhận thức được những thuận lợi và khó khăn, Ban chấp hành Đảng bộ thị xã
đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân tập trung khai thác tiềm năng, phát huy lợi thế, tranh thủ sự
quan tâm giúp đỡ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Vĩnh Phúc và Trung ương đã thực hiện
thắng lợi các mục tiêu về kinh tế mà Đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ XVII đề ra.
Về sản xuất nông nghiệp
Thị ủy tập trung chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hóa. Xác định cơ cấu sản xuất phù hợp với từng vùng. Cơ cấu kinh tế
trong nội bộ ngành có sự chuyển dịch tích cực: Giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng
giá trị chăn nuôi, thủy sản và ngành nghề. Các vùng nông nghiệp hình thành rõ nét
và đạt kết quả cao sản xuất rau, cây công nghiệp, thực phẩm, chăn nuôi. Tích cực áp
dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, các giống cây trồng vật nuôi có giá trị hiệu
quả kinh tế cao vào sản xuất. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ sản xuất và
tiêu thụ nông sản cho nông dân như: các công trình thủy lợi, đường giao thông nông
thôn, chợ nông thôn Chủ động và xử lý kịp thời những diễn biến phức tạp trong
phòng chống thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi.
Về trồng trọt, do đẩy mạnh thâm canh và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới về
giống, nên năng xuất cây trồng đều tăng. Bước đầu hình thành được vùng chuyên canh
trồng rau sạch, an toàn ở Tích Sơn, Định Trung; trồng cây cảnh ở Đồng Tâm, Liên
Bảo, Tích Sơn, Đống Đa; vùng sản xuất giống ở Hội Hợp; trồng nấm ở Thanh Trù.
Chương trình cải tạo vườn, trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: Vải, Nhãn,
Xoài, Na được triển khai ở nhiều hộ gia đình, đến hết năm 2004, giá trị kinh tế trên 1ha
canh tác đạt 32,76 triệu, tăng 9,76 triệu đồng so nới năm 2000 [39, tr. 14].
Chăn nuôi phát triển khá, trong thời gian từ năm 2000 đến hết năm 2004, giá
trị sản xuất tăng bình quân 2,4%/năm, chất lượng đàn bò được tăng lên, trong đó
65% lai Sind, tăng 23% so với năm 2000. Đàn bò sữa đến cuối năm 2004 có 123
con, sản lượng sữa đạt gần 200 tấn/năm. Đàn lợn tăng cả quy mô đàn và chất lượng,
năm 2005 đạt 25.200 con, tăng bình quân 3,0%/năm, trong đó đàn lợn lai chiếm
27
98%. Mặc dù năm 2004 phải tiêu hủy 100% đàn gia cầm do dịch cúm, nhưng do có
sự hỗ trợ đầu tư về giống, kỹ thuật và làm tốt công tác phòng dịch nên năm 2005 thị
xã đạt 180.000 con, tăng bình quân 2,25%/năm. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng
bình quân 0,7%/năm, sản lượng tăng bình quân 5,05%/năm [60, tr.15].
Bên cạnh những kết quả trên, trong sản xuất nông nghiệp việc chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn diễn ra chậm, chưa tạo được sự đột phá rõ rệt. Sản
xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa còn ít và manh mún, chưa có sự kết hợp chặt
chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với phát triển dịch vụ và phục vụ nhu cầu đô thị để
nâng cao sản xuất.
Về sản xuất công nghiệp, xây dựng
Trên địa bàn thành phố đã hình thành khu công nghiệp Khai Quang, cụm
công nghiệp Lai Sơn. Trong 5 năm (2000-2005) liên tục giữ được tốc độ tăng
trưởng cao ở tất cả các thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất công nghiệp-xây dựng
(giá cố định năm 1994) tăng từ 200 tỷ đồng năm 2000 lên 1.350 tỷ đồng năm 2005,
đạt tốc độ bình quân 46,5%/năm, tăng 3 lần so với mục tiêu Đại hội đề ra và gấp 2
lần so với tốc độ tăng bình quân của tỉnh, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng
33,6%/năm; công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 43 lần so với năm 2000, tăng
bình quân 75%/năm; công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 58,2%/năm, chiếm 29% cơ cấu
công nghiệp toàn thị xã. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 9,3% [60, tr.12].
Thị ủy tập trung chỉ đạo công tác quy hoạch, phối hợp với các ngành của tỉnh
triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội thị xã,
các khu, cụm công nghiệp Lai Sơn, điểm công nghiệp Tích Sơn .
Có được kết quả trên là các cấp, các ngành đã vận dụng sáng tạo chủ trương của
tỉnh về phát triển công nghiệp, chương trình phát triển công nghiệp ngoài quốc
doanh của thị xã và các quy định về ưu đãi đầu tư trên địa bàn đã thu hút được 26 dự
án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 101,4 triệu USD, 12 dự án có
vốn đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư là 352,3 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho
gần 10.000 lao động. Các thành phần kinh tế đã có sự năng động trong việc sắp xếp,
tổ chức lại sản xuất, đầu tư thiết bị, mở rộng kinh doanh, tìm kiếm thị trường.
28
Cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, thị xã đã tập trung phát triển
công nghiệp ngoài quốc doanh theo cụm, điểm kinh tế - xã hội, khuyến khích các hộ
đầu tư phát triển theo mục tiêu Nghị quyết 02 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đề ra.
Bước đầu đã hình thành điểm công nghiệp Tích Sơn và cụm kinh tế - xã hội doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ với số vốn đầu tư gần 23 tỷ đồng. Các khu, cụm,
điểm công nghiệp tập trung trên địa bàn được hình thành trong những năm qua đã
góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách thị xã; tạo môi trường thu hút đầu tư bên
ngoài, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu lao động và kích thích
dịch vụ phát triển, góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thị
xã. Các doanh nghiệp nhà nước từng bước cổ phần hóa, đổi mới thiết bị, chuyển đổi
mặt hàng nên sản xuất dần đi vào ổn định, hiệu quả.
Tuy nhiên, sự phát triển của công nghiệp vẫn cho thấy sự phát triển không
bền vững, chưa đồng đều giữa các thành phần. Thành phần công nghiệp quốc doanh
vẫn nhiều khó khăn, lạc hậu, giá thành sản phẩm cao, công nghiệp ngoài quốc
doanh tuy phát triển mạnh song quy mô còn nhỏ bé, chưa thật sự mạnh dạn đầu tư,
sức cạnh tranh còn hạn chế.
Về thương mại - dịch vụ - du lịch
Đến hết năm 2004, hoạt động thương mại-dịch vụ và du lịch có tốc độ phát
triển nhanh hơn so với các ngành kinh tế khác. Hàng hóa phục vụ ngày càng đa
dạng, phong phú, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, hiện
tượng hàng giả, hàng kém chất lượng giảm nhiều. Văn minh, văn hóa trong thương
mại-dịch vụ và du lịch có nhiều tiến bộ.
Một số lĩnh vực kinh doanh vận tải, cung cấp điện, nước, dịch vụ bưu chính
viễn thông tiếp tục được đầu tư, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, đáp ứng nhu
cầu đời sống và phát triển kinh tế-xã hội trong và ngoài địa bàn thị xã. Nhiều dự án
đầu tư được triển khai như dự án cải tạo hệ thống cấp nước, xây dựng trạm điện.
Hệ thống dịch vụ nông nghiệp như các trạm dịch vụ giống, cây, con, thuốc
bảo vệ thực vật, thú y, phân bón được mở rộng đáp ứng yêu cầu sản xuất nông
nghiệp. Hàng năm, ngành thủy lợi của huyện đảm bảo đủ nước cho trên 9.000 ha
29
canh tác, phục vụ tiêu ứng cho hàng ngàn ha. Tính đến năm 2004, gần 100% hộ dân
thị xã được dùng điện, 85% dân nội thị được cung cấp nước máy [63,tr. 3].
Thị xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư từ các thành phần kinh
tế, tạo tiền đề cho sự phát triển như: Xây dựng chợ Bảo Sơn, chuẩn bị đầu tư xây
dựng chợ Đồng Tâm, cải tạo, nâng cấp chợ trung tâm thị xã. Việc đầu tư, nâng cấp
cơ sở hạ tầng như: Khu đô thị chùa Hà Tiên, Nam-Bắc Đầm Vạc, khu vui chơi, giải
trí Trại Ổi, các nhà hàng, khách sạn đã thúc đẩy các loại hình dịch vụ phát triển.
Trên địa bàn thị xã có 3 loại hình HTX chủ yếu đó là HTX dịch vụ nông nghiệp,
HTX tín dụng, HTX dịch vụ chăn nuôi, thủy sản. Nhìn chung các HTX dịch vụ
nông nghiệp đã làm được một số dịch vụ phục vụ sản xuất tại chỗ cho nông dân như
điện, nước, bảo vệ thực vật, bảo vệ ruộng đồng, góp phần thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp phát triển, hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, góp phần giải quyết việc làm, nâng
cao đời sống ở khu vực nông thôn.
Hoạt động tài chính có nhiều cố gắng trong việc quản lý thu, chi ngân sách.
Do có sự phát triển đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế nên thu ngân sách trên địa bàn
liên tục tăng. Thị xã có nhiều biện pháp tích cực để nuôi dưỡng và khai thác các
nguồn thu. Thu ngân sách hàng năm tăng cao. Thu ngân sách trên địa bàn thị xã
năm 2002 đạt 37,127 tỷ đồng, năm 2005 đạt 82,9 tỷ đồng tăng hơn năm 2002 là
12,28% [84, tr.4]. Các ngân hàng, quỹ tín dụng có nhiều cố gắng trong việc huy
động nguồn vốn nhất là vốn nhàn rỗi trong nhân dân. Các ngân hàng có tổng số vốn
năm 2005 là 1127 tỷ đồng, so với năm 2000 tăng 265%, cho vay 719 tỷ đồng so với
năm 2000 tăng 130% [84, tr.5]. Các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân thực hiện tốt
chức năng kinh doanh, dịch vụ đáp ứng yêu cầu vay vốn của nhân dân và các thành
phần kinh tế trên địa bàn huyện. Kho bạc đã quản lý tốt nguồn thu, giám sát chi theo
quy định, đảm bảo nhu cầu chi tiền mặt của các đơn vị và các chương trình, dự án.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thương mại-du lịch và dịch vụ
vẫn còn khó khăn như giá cả một số mặt hàng thiết yếu còn tăng do biến động của
thị trường, làm cho giá cả một số sản phẩm tăng theo ảnh hưởng đến sức mua của
người tiêu dùng. Mặt khác, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ và hoàn
thiện, việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong lĩnh vực thương
30
mại-du lịch còn hạn chế. Việc thu hút đầu tư, mở rộng các tụ điểm vui chơi, giải trí,
khách sạn, nhà hàng hiệu quả chưa cao.
Nhìn chung tính đến trước năm 2005, kinh tế của thị xã Vĩnh Yên phát triển
theo công cuộc đổi mới của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo song kinh tế phát triển còn không đồng đều giữa các vùng, cơ cấu kinh tế
còn chưa hợp lý. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự nghiệp CNH -
HĐH còn thiếu và chưa đồng bộ.
Vĩnh Yên là một thị xã trung tâm kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc, yêu cầu đặt ra
là phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ đô thị, do đó phải chuyển mạnh cơ cấu sử
dụng đất nông nghiệp, chuyển mạnh cơ cấu lao động trong nông nghiệp nông thôn.
Tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ còn thấp, sức ép về thiếu lao động việc làm tiếp
tục tăng.
Tốc độ tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp là thấp, sự chuyển biến cơ
cấu giữa các ngành trong nông nghiệp còn chuyển biến chậm; sản xuất lương thực
vẫn mang tính tự cung, tự cấp; sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng chưa mạnh, năng
suất cây trồng còn bấp bênh. Công nghiệp vẫn chưa khai thác hết mọi tiềm năng để
phát triển, sản phẩm công nghiệp tuy đa dạng nhưng quy mô nhỏ và chất lượng
chưa cao; cơ sở hạ tầng phục vụ cho công nghiệp còn yếu kém; tiến độ đầu tư cơ
bản còn chậm. Ngành dịch vụ còn chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế, chưa
thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thị xã, chưa tương xứng với tiềm năng và
kỳ vọng phát triển của ngành.
Từ thực trạng trên, tất cả những thành tựu cũng như khắc phục những tồn tại,
hạn chế, trong việc lãnh chỉ đạo phát triển kinh tế giai đoạn trước năm 2005 là cơ sở,
kinh nghiêm quý báu để Đảng bộ thành phố Vĩnh Yên lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế thành
phố Vĩnh Yên tiếp tục phát triển trong thời kỳ tiếp theo nhằm xây dựng kinh tế Vĩnh
Yên theo hướng CNH - HĐH, từng bước xây dựng Thành phố Vĩnh Yên thành đô thị
văn minh hiện đại theo hướng dịch vụ - du lịch - công nghiệp - nông nghiệp.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Vĩnh Yên (2005-2010)
1.1.2.1. Bối cảnh và yêu cầu đặt ra
31
Những thay đổi về bối cảnh quốc tế và khu vực những năm 2005-2010 đã có
những tác động không thuận tới việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội cả nước nói chung, tỉnh Vĩnh Phúc và thành phố Vình Yên nói riêng.
Năm 2007, tăng trưởng kinh tế thế giới bắt đầu giảm nhẹ, một phần do nền
kinh tế Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ tín dụng dưới chuẩn.
Tình hình trở nên xấu hơn trong năm 2008 và tiếp tục diễn biến với chiều hướng
phức tạp khó lường trong năm 2009 với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trước những diễn biến phức tạp trên thị trường tài chính, tiền tệ, giá xăng dầu, giá
vàng, giá nguyên liệu đầu vào, tỷ giá, lãi suất... các vấn đề mang tính toàn cầu như
dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn nguyên vật liệu, biến đổi khí
hậu... khoảng cách giàu nghèo sẽ tác động mạnh và đa chiều tới phát triển kinh tế -
xã hội.
Tính đến hết năm 2005, trên thế giới đã hình thành 25 tam giác kinh tế và khu
vực kinh tế, 130 tổ chức hợp tác thương mại quốc tế. Trong xu thế ngày càng quốc tế
hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới, các trạng thái vừa hợp tác
vừa cạnh tranh, đan xen phức tạp, sẽ đưa đến cho Việt Nam các mặt thuận lợi cũng
như nhiều thách thức mới.
Thế giới đã bước vào thế kỷ XXI, mở cửa kinh tế tạo ra sức thúc đẩy mạnh
mẽ đối với nền kinh tế Việt Nam, nó được thể hiện qua đầu tư nước ngoài và ngoại
thương. Đây là hai yếu tố có sức tăng trưởng mạnh nhất và đóng góp to lớn cho nền
kinh tế quốc dân. Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc
phát huy nội lực tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Đặc biệt sau
khi Việt Nam kí Hiệp định thương mại với Mỹ (2001) và gia nhập WTO (2007), đã
có những gia tăng đột biến trong thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, Đảng ta đã chủ
trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản
xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng
32
kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân đân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh” [4,
tr.187].
Sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, Đảng bộ và
nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế địa phương,
thu được những thắng lợi to lớn và toàn diện. Nhiều chủ trương, chính sách mới
được ban hành.
Bên cạnh phát huy các nguồn lực của địa phương, Đảng bộ thành phố Vĩnh
Yên còn tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư. Để khai thác thế mạnh của
thành phố kinh tế , tranh thủ các nguồn lực, tập trung ưu tiên đầu tư phát triển, xây
dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, nâng cao năng lực quản lý đô thị. Thành phố
đã chú trọng đầu tư, xây dựng các công trình công cộng và đảm bảo an sinh xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng của thị xã được đầu tư
xây dựng, cải tạo theo hướng hiện đại hóa. Trong quá trình phát triển, Đảng bộ
thành phố đã đúc rút một số bài học kinh nghiệm, thực hiện chủ trương đổi mới,
phát triển kinh tế địa phương để tăng cường hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh.
Bên cạnh việc chỉ đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt các vấn đề liên quan
đến kinh tế – xã hội, quốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004710_1_7598_2002798.pdf