Luận văn Đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo giáo dục mầm non từ năm 1997 đến năm 2010

MỞ ĐẦU. 5

Chương 1: CHỦ TRưƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC

ĐỐI VỚI GIÁO DỤC MẦM NON TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000 . 16

1.1. Những căn cứ xác định chủ trương và chủ trương của Đảng bộ tỉnh 16

1.1.1. Những căn cứ xác định chủ trương . 16

1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh . 27

1.2. Chỉ đạo thực hiện . 31

1.2.1. Tổ chức hoạt động dạy và học. 31

1.2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý . 36

1.2.3. Phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp và xây dựng cơ sở vật chất . 40

1.2.4. Thực hiện xã hội hóa và công bằng trong giáo dục. 42

Tiểu kết chương 1 . 46

Chương 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI GIÁO

DỤC MẦM NON TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 . 51

2.1. Đặc điểm tình hình và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc . 51

2.1.1 Đặc điểm tình hình . 51

2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc . 55

2.2. Chỉ đạo thực hiện . 61

2.2.1. Tổ chức hoạt động dạy và học. 61

2.2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý . 67

2.2.3. Phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp và xây dựng cơ sở vật chất. . 73

2.2.4. Thực hiện xã hội hóa và công bằng trong giáo dục. 77

Tiểu kết chương 2 . 80

Chương 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM. 83

pdf38 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 602 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo giáo dục mầm non từ năm 1997 đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3.1. Mục tiêu nghiên cứu Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với giáo dục mầm non những năm 1997 – 2010; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho hiện tại. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày một cách hệ thống các chủ trương, biện pháp và giải pháp trong lãnh đạo phát triển giáo dục mầm non của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010. - Phân tích ưu điểm, hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với GDMN những năm 1997 -2010. - Đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho hiện tại từ sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với GDMN những năm 1997 -2010. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với GDMN những năm 1997 – 2010, bao gồm chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: Luận văn nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc - Thời gian: Luận văn giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 1997 (từ khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc) đến năm 2010 (Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XV). - Nội dung nghiên cứu: + Những điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển GDMN của tỉnh Vĩnh Phúc. + Những chủ trương về phát triển giáo dục của Đảng + Công tác lãnh đạo phát triển GDMN của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu - Các văn kiện Đảng từ năm 1996 đến năm 2010, nhất là các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), IX (2001), X (2006), XI (2011) của Đảng. - Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010. - Các Nghị quyết chuyên đề, Báo cáo tổng kết Công tác phát triển GDMN của tỉnh Vĩnh Phúc hàng năm từ năm 1997 đến năm 2010. - Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về phát triển giáo dục. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài việc sử dụng rộng rãi các phương pháp phổ quát của khoa học lịch sử như lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản ngành xã hội nhân văn như lịch sử, logic, phân tích, khái quát hóa, đối chiếu, thống kê, so sánh, hệ thống hóa 6. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa những chủ trương, chính sách của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về phát triển GDMN từ 1997 – 2010. Từ những thành công và hạn chế, rút ra kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho giai đoạn về sau. - Bổ sung thêm nguồn tài liệu về lịch sử địa phương. - Góp phần tổng kết thực tiễn phát triển GDMN ở các địa phương, cụ thể là ở tỉnh Vĩnh Phúc. - Kết quả của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, hoặc giảng dạy đối với những vấn đề có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với GDMN từ năm 1997 đến năm 2000. Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đối với giáo dục mầm non từ năm 2001 đến năm 2010. Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm. Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC MẦM NON TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000 1.1. Những căn cứ xác định chủ trƣơng và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh 1.1.1. Những căn cứ xác định chủ trương * Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp Phú Thọ, phía Nam và phía Đông giáp thủ đô Hà Nội. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.231.0 km2, với 9 đơn vị hành chính, trong đó 1 Thành phố (Vĩnh Yên), 1 thị xã (Phúc Yên) và 7 huyện: Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc. Tỉnh lỵ của Vĩnh Phúc là thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km. Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai và tuyến đường cao tốc Xuyên Á Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đang được xây dựng, là cầu nối giữa tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vùng trung du miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong những năm qua đã tạo ra cho Vĩnh Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý. Tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp rất nhanh và trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc. Tỉnh Vĩnh Phúc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ trước sự lan toả của các khu công nghiệp và đô thị lớn thuộc Hà Nội như Bắc Thăng Long, Nội Bài, Sóc Sơn... Sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã và đang đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố lớn của đất nước và quốc tế như: hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 -Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV thành phố Hà Nội... Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi trung du với vùng đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và vùng núi. Vùng núi có diện tích tự nhiên 65.300 ha (chiếm 53,1% tổng diện tích của tỉnh), bao gồm phần lớn diện tích huyện Lập Thạch (17 xã), huyện Sông lô (17 xã), huyện Tam Đảo (9 xã) và 4 xã thuộc huyện Bình Xuyên, 1 xã thuộc thị xã Phúc Yên. Vùng có địa hình phức tạp, khó khăn cho việc xây dựng cơ sở trường lớp và việc đi lại đến trường của học sinh. Vùng trung du chạy dài từ Tây Bắc xuống Đông – Nam, có diện tích tự nhiên khoảng 24.900 ha (chiếm 20,2% tổng diện tích của tỉnh), bao trùm phần lớn diện tích huyện Tam Dương (13 xã) và Bình Xuyên (15 xã), thành phố Vĩnh Yên (6 phường xã), một phần huyện Lập Thạch, Sông Lô (11 xã), thị xã Phúc Yên. Vùng đồng bằng có diện tích 32.900 ha (chiếm 26,7% tổng diện tích của tỉnh), bao gồm các huyện Yên Lạc (17 xã) và Vĩnh Tường (29 xã). Đây là vùng có địa hình bằng phẳng, trình độ phát triển kinh tế, xã hội và kết cấu hạ tầng khá hơn vùng miền núi, thuận tiện cho việc xây dựng cơ sở trường học và việc đến trường của học sinh. Do yêu cầu của công tác quản lý, các cơ sở GDMN thường được tổ chức theo địa bàn đơn vị hành chính. Vì vậy, việc tổ chức hành chính cấp cơ sở (số lượng các đơn vị hành chính cấp huyện, xã/phường và thôn của tỉnh) có tác động nhất định đến tổ chức mạng lưới và số lượng cơ sở giáo dục. Trường mầm non (mẫu giáo) thường được tổ chức theo phạm vi một thôn (vùng nông thôn) hoặc tổ dân phố (khu vực đô thị). Tỉnh có 9 huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh. Toàn tỉnh có 112 xã (nông thôn) và 25 phường, thị trấn (đô thị). Trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và đô thị hoá, số đơn vị hành chính có thể thay đổi và theo đó số lượng cơ sở giáo dục cũng sẽ biến động theo xu hướng tăng lên để phù hợp với quy mô dân số và đặc điểm tổ chức xã hội trên địa bàn. Là tỉnh được thiên nhiên ưu đãi, có vị trí phát triển kinh tế thuận lợi, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến năm 2010, Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) giai đoạn (2001-2005) tăng bình quân 15%, giai đoạn (2006-2010) tăng 18%. Bình quân trong 10 năm (2001-2010) tăng 16,5%/năm (cao gấp 2,35 lần) so với tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước (7%). Nền kinh tế của tỉnh ngày càng mở rộng về quy mô, tạo điều kiện thuận lợi trong giải quyết việc làm và phát triển nhân lực Vĩnh Phúc. Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, GDP bình quân đầu người trong tỉnh cũng tăng nhanh, cụ thể: Năm 2001, GDP bình quân đầu người (theo giá thực tế) mới đạt 3,83 triệu đồng, nhưng đến năm 2005 đã đạt 9,1 triệu đồng; đến năm 2010 GDP/người của tỉnh đạt tới 33,6 triệu đồng (tương đương 1.766 USD) tăng bình quân 30,3%/năm, tăng 3,7 lần so với năm 2005; cao gấp 1,51 lần mức bình quân chung cả nước (đạt 22,2 triệu đồng/người - tương đương 1.170 USD/người) và đứng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ sau 2 tỉnh, thành là Hà Nội và Hải Phòng. Tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc luôn đạt mức độ cao, điều đó cho thấy nền kinh tế của tỉnh ngày càng mở rộng về quy mô, tạo điều kiện thuận lợi trong phát giáo dục đào tạo trong tỉnh. Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có hơn 11 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số với 95,72% dân số, còn lại là các dân tộc thiểu số như: Sán Dìu, Cao Lan, Nùng, Dao, Tày, Mường, Ngái, Lào, Hoa, Thái... chiếm 4,28% dân số. Trong số các dân tộc thiểu số có dân tộc Sán Dìu chiếm tỷ lệ dân số cao nhất (3,93% tổng số dân), các dân tộc khác chỉ chiếm dưới 0,08% dân số. Do đó, chính sách đối với đồng bào các dân tộc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo phải được quan tâm thực hiện. Cộng đồng xã hội, dân cư tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều giá trị văn hóa ưu việt. Các giá trị văn hóa truyền thống lưu lại thông qua các di tích lịch sử văn hoá đa dạng, cùng với nền văn hoá phi vật thể cũng đa dạng, hấp dẫn (hệ thống các lễ hội, các trò chơi dân gian, văn hoá nghệ thuật, thi ca, ẩm thực) tạo nên nền tảng cơ sở vững chắc để phát triển nhanh, bền vững mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo của tỉnh. Người dân Vĩnh Phúc hiếu học, cầu thị có ý thức tìm tòi, đổi mới và sáng tạo trong nhiều năm qua đó là động lực cơ bản để phát triển nhanh, bền vững về kinh tế, xã hội và giáo dục, đào tạo trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của văn hóa Hùng Vương và Kinh Bắc, Thăng Long, nền văn hóa dân gian đặc sắc, truyền thống khoa bảng, với lối sống xã hội và chuẩn mực đạo đức luôn được giữ gìn và phát huy cho đến ngày nay. Tất cả những đặc điểm xã hội nêu trên là cơ sở gốc tạo nên sức mạnh cho tỉnh trong phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ. Sự tăng trưởng về kinh tế, cải thiện về đời sống vật chất của nhân dân cùng với những giá trị văn hóa truyền thống trong những năm qua đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa và thực hiện chính sách xã hội. *Thực trạng phát triển giáo dục mầm non của tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 1997 Giáo dục đào tạo có nhiệm vụ quan trọng là: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo con người phát triển toàn diện, có trí tuệ cao, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động có kỷ luật, tự chủ, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH. Đó vừa là động lực vừa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển của giáo dục đào tạo liên quan trực tiếp đến sự hưng thịnh của đất nước, của mỗi địa phương và của từng gia đình. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, ngay từ đầu tỉnh Vĩnh Phú đã có nhiều chủ trương để phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, được sự chỉ đạo sát sao của tỉnh ủy Vĩnh Phú và của Bộ GD&ĐT, giáo dục Vĩnh Phú đã kịp thời đổi mới. Trước hết là xác định rõ mục tiêu giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trường học, thực hiện luật chăm sóc trẻ em. Trong hệ thống giáo dục nói chung, của tỉnh Vĩnh Phú nói riêng, GDMN được coi là một bậc học mang những đặc trưng riêng. Do chưa thích ứng kịp thời với sự chuyển đổi của nền kinh tế mới, nên ngành học này còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, số lượng nhà trẻ, mẫu giáo bị thu hẹp nhiều, một số cơ sở bị tan vỡ. Điều này đã kéo theo số lượng học sinh và giáo viên giảm sút đáng kể. Số lượng học sinh trong toàn tỉnh chỉ còn khoảng 65 – 70 %. Tuy nhiên, Tỉnh ủy Vĩnh Phú đã đưa ra những chính sách rõ ràng. Sở GD&ĐT kết hợp với chính quyền các địa phương mở các loại hình trường lớp nhà trẻ, mẫu giáo như nhà trẻ liên gia, nhà trẻ dân lập, nhà trẻ bán côngđể thu hút các cháu. Với chính sách và biện pháp trên, GDMN dần dần đi vào ổn định và có điều kiện để phát triển. Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng học sinh đến lớp đã tăng lên đáng kể. Riêng các cháu 5 tuổi đã đến lớp được gần 90%. Chỉ trong năm học 1996 -1997, trong ngành học mầm non toàn tỉnh, số nhà trẻ đã lên tới 70 trường với 1.843 lớp học và 13.450 học sinh [74, tr. 3]. Trong đó học sinh ngoài công lập chiếm 10.392 học sinh. Cũng trong năm học này, trên địa bàn toàn tỉnh đã có 149 trường mẫu giáo với 1.284 lớp học và 38.844 học sinh [74, tr. 4]. Trong đó học sinh ngoài công lập đạt 37.800 học sinh. Với số liệu trên, có thể thấy trước năm 1997, trong bậc học mầm non ở tỉnh Vĩnh Phú, giáo dục ngoài công lập đã chiếm ưu thế và phát triển mạnh. Cùng với việc tăng số lượng trường, lớp thì đội ngũ giáo viên cũng tăng lên đáng kể, chất lượng đào tạo của đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao. Đến năm 1995, tỉnh Vĩnh Phú có 35 tập thể với 113 lượt được nhận danh hiệu “Đơn vị lá cờ đầu” của ngành giáo dục đào tạo do UBND tỉnh và Bộ GD&ĐT tặng, trong đó riêng ngành mầm non có 5 tập thể, 27 lượt được nhận danh hiệu [3, tr.5]. Về cơ sở vật chất trường học, quán triệt quan điểm của Đảng “đầu tư cho giáo dục là một hướng chính đầu tư cho phát triển”, Sở GD&ĐT Vĩnh Phú đã tham mưu với lãnh đạo tỉnh cho xây dựng trường học khang trang, sạch đẹp, đồ dùng thiết bị dạy học được bổ sung cho các trường. Tính đến năm học 1996 -1997, toàn tỉnh Vĩnh Phú đã có 3.064 phòng học trong đó riêng bậc học mầm non đã có 979 phòng học với một số trang thiết bị dạy và học [74, tr.4]. Đối với con em dân tộc ít người, thấm nhuần đường lối của Đảng, luôn luôn chú ý nâng cao đời sống văn hóa giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số, Sở GD&ĐT đã kết hợp với chính quyền địa phương mở thêm các trường lớp cho con em đồng bào đi học. Tính đến năm học 1996 – 1997, toàn tỉnh đã có 32.090 người dân tộc; trong đó, có 1.925 cháu ở độ tuổi nhà trẻ thì có 213 cháu được vào nhà trẻ (= 11%) [85, tr. 8]. Có 2.164 cháu ở độ tuổi mẫu giáo thì có 859 cháu được vào lớp mẫu giáo (=40%). Các cháu 5 tuổi có 227/271 cháu vào lớp (= 84%) [85, tr. 9]. Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng CSVN, sự chỉ đạo sát sao của Bộ giáo dục đào tạo, của Tỉnh ủy Vĩnh Phú, ngành học GDMN của tỉnh đã có nhiều bước chuyển biến rõ rệt. Chất lượng giáo dục dần ổn định. Số lượng học sinh tới lớp ngày càng tăng. Cơ sở vật chất trường học dần được quan tâm đầu tư hơn. Giáo viên dần yên tâm với nghề nghiệp mình đã chọn. Chất lượng giáo dục được bảo đảm. Tuy nhiên, Vĩnh Phú vẫn là một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, thu nhập thấp, đời sống nông dân đặc biệt ở vùng nông thôn còn nghèo. Công nghiệp còn nhỏ bé, ít vốn, kinh doanh kém hiệu quả, không có khả năng đầu tư trong khi công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang trong quá trình xây dựng. Nhìn về mặt tổng thể, chất lượng giáo dục của tỉnh đã có sự chuyển biến nhưng chưa cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng cho công tác dạy và học còn thiếu thốn, năng lực quản lý giáo dục còn hạn chế. *Chủ trương về phát triển giáo dục mầm non của Đảng Trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), giáo dục đào tạo ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên ngành GD&ĐT vẫn còn những yếu kém, đặc biệt là chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ trên lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Tại Hội nghị lần thứ 2 của BCHTƯ khóa VIII đã nhấn mạnh: phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản, quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Gắn chiến lược phát triển giáo dục với phát triển khoa học, công nghệ và cả hai đều phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới nền giáo dục với cách làm thích hợp trên các mặt tổ chức và quản lý, dạy học, nghiên cứu và ứng dụng. Quan tâm thích đáng đến mặt bằng và đỉnh cao dân trí, coi trọng giáo dục nhân cách, lý tưởng và đạo đức, trí lực và thể lực Ra sức phấn đấu xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, có quy mô, trình độ và cơ cấu ngành nghề hợp lý. Đó là nền giáo dục thấm nhuần sâu sắc tính nhân dân, tính dân tộc và tính hiện đại. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã đề ra mục tiêu đối với giáo dục – đào tạo trong những năm 1996 -2000 và phương hướng chiến lược đến năm 2020. Phát triển GD&ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá". Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập". Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội". Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Xây dựng quy hoạch đào tạo nhân lực theo phương thức kết hợp học tập trung, học từ xa, học qua máy tính. Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt là ở nông thôn và những vùng có khó khăn. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông nội trú dành cho con em dân tộc thiểu số, chú trọng quyền được học tập của nhân dân ở trên hai nghìn xã nghèo nhất. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt những học sinh có năng khiếu, hoàn cảnh sống khó khăn được theo học ở các bậc học cao. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý trong con em công nhân và nông dân, để đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học. Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Khuyến khích việc du học tự túc. Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục. Trong những năm trước mắt, giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc: sửa đổi chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; cải tiến chế độ thi cử, khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá" giáo dục, ngăn chặn những tiêu cực trong giáo dục; quản lý chặt chẽ việc cấp văn bằng, công nhận học hàm, học vị; chấn chỉnh công tác quản lý hệ thống trường học cả công lập và ngoài công lập. Đến tháng 12 – 1996 Hội nghị BCHTƯ lần thứ 2 khóa VIII đã ra Nghị quyết quan trọng “Về định hướng phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học, công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Nghị quyết đã đưa ra định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hóa văn hóa của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khỏe, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “ chuyên” như lời căn dặn của Hồ Chí Minh [37, tr.28 -29]. Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung phương pháp GD&ĐT, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội [37, tr.29]. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với GD&ĐT. Chống khuynh hướng thương mại hóa, đề phòng khuynh hướng phi chính trị hóa GD&ĐT. Không truyền bá tôn giáo trong trường học. Thực sự coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” [37, tr.29]. Nhận thức sâu sắc GD&ĐT cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD&ĐT là đầu tư cho phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi cho giáo dục đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục. “Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân” [37, tr.30]. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói lười học. Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, đoàn thể và nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, mọi gia đình và cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp GD&ĐT, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho GD&ĐT. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục toàn xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong cộng đồng, từng tập thể. Phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học, công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh [37, tr.30]. Coi trọng cả ba mặt, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo” [37, tr.30]. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng. Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập, đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý, từ nội dung chương trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như mầm non, phổ thông trung học Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục” [37, tr.31]. 1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc Ngày 6-11-1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phú được tách thành hai tỉnh là: Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Sau 29 năm hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1997. Sau khi được tái lập, tỉnh Vĩnh Phúc có những thuận lợi căn bản. Trước tiên, việc tái lập tỉnh đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, tạo không khí hồ hởi, phấn khởi để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương. Quy mô, dân số và diện tích vừa phải, tạo điều kiện cho công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh được sâu sát, hiệu quả hơn. Nhân dân có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong sản xuất và có kinh nghiệm trong việc đổi mới cơ chế quản lý. Nguồn lao động dồi dào, có trình độ văn hóa khá cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi là cơ sở để nhân dân Vĩnh Phúc hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Những thành tựu của đất nước và của tỉnh sau 10 năm đổi mới là cơ sở động lực để nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Vĩnh Phúc nói riêng thêm vững tin bước tiếp trên con đường đổi mới. Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đề ra là những định hướng và tiền đề để Đảng bộ Vĩnh Phúc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những thuận lợi, sau khi tái lập, còn rất nhiều vấn đề khó khăn đang đặt ra cho Đảng bộ tỉnh, chính quyền và nhân dân địa phương. Riêng đối với sự nghiệp GD&ĐT, trong gần 29 năm hợp nhất sự đầu tư phát triển cơ sở giáo dục chất lượng cao, tập trung cho thành phố Việt Trì, nơi trung tâm của tỉnh lị. Khi tỉnh mới tách ra trong thời gian đầu, tỉnh Vĩnh Phúc bị thiếu hụt trên một số mặt, điều này đã có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của GD&ĐT. Ngay sau khi tỉnh được tái lập, Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã tập trung thảo luận và thống nhất ban hành quy chế làm việc, xây dựng quy trình làm việc của Ban thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Ban Thường vụ tỉnh ủy đã rà soát, hợp thức hóa những văn bản (nghị quyết, đề án) của tỉnh Vĩnh Phú đã ban hành và thống nhất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004686_7489_2003051.pdf
Tài liệu liên quan