Luận văn Đánh giá công tác bồi thường giải ph óng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất tại một số dự án an sinh – xã hội trên địa bàn quận Hà đông, thành phố Hà Nội

LỜI CẢM ƠN.3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.4

DANH MỤC CÁC BẢNG .8

DANH MỤC CÁC HÌNH .8

MỞ ĐẦU .1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .5

1.1. Cơ sở khoa học về thu hồi đất, bồi thƯờng, hỗ trợ và tái định cƯ .5

1.1.1 Một số khái niệm.5

1.1.2. Nguyên tắc chung của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.6

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng .7

1.2. Nghiên cứu chính sách bồi thƯờng, hỗ trợ và tái định cƯ ở Việt Nam từ

năm 2003 đến nay.11

1.2.1. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013 (thực hiện Luật Đất đai 2003) .11

1.2.2. Giai đoạn sau khi có Luật Đất đai 2013 .14

1.2.3. Nhật xét, đánh giá chung .17

1.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện bồi thƯờng,

giải phóng mặt bằng.18

1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới .18

1.3.2. Kinh nghiệm từ thực tế công tác bồi thường, GPMB tại Việt Nam .22

1.3.3. Nhận xét, đánh giá chung .24

1.4. Khái quát về công tác bồi thƯờng, hỗ trợ và tái định cƯ tại Việt Nam và

thành phố Hà Nội .25

1.4.1. Thực tiễn công tác bồi thường giải phóng mặt bằng ở Việt Nam .25

1.4.2. Tình hình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ GPMB ở TP Hà Nội.28

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG

MẶT BẰNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI 3 DỰ ÁN AN SINH – XÃ

HỘI QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .31

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội quận Hà Đông.31

2.1.1. Điều kiện tự nhiên .31

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .33

pdf41 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 612 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá công tác bồi thường giải ph óng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất tại một số dự án an sinh – xã hội trên địa bàn quận Hà đông, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong phạm vi cả nước; là sự tính toán, phân bổ sử dụng đất cụ thể về số lượng, chất lượng, không gian, vị trí. 9 Công tác bồi thường GPMB có liên quan mật thiết đến công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vì để ra quyết định thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cần phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ở nước ta, chất lượng lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các địa phương có nhiều tiến bộ nhưng thực sự chưa đạt yêu cầu đề ra. Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp, đặc biệt cấp huyện còn chậm. Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn những bất cập về: phân định cấp độ, nội dung của quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất giữa các cấp; kết hợp giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng; gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực. Trong lập, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thiếu sự giám sát chặt chẽ, tuân thủ triệt để chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải là chỉ tiêu pháp lệnh; việc áp dụng các công nghệ tiên tiến còn nhiều hạn chế. * Đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đăng ký đất đai ( and Registration) là một thành phần cơ bản quan trọng nhất của hệ thống quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sở hữu đất đai, bất động sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu đất đai [16]. Theo quy định của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của uật Đất đai, người sử dụng đất phải đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Trong công tác bồi thường GPMB, GCNQSD đất là căn cứ để xác định đối tượng được bồi thường, loại đất, diện tích đất tính bồi thường. Hiện nay, hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất còn mang tính thủ công, thực hiện thiếu thống nhất ở các địa phương. Công tác đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chưa theo kịp tiến độ đo đạc lập bản đồ địa chính, do đó hạn chế hiệu quả đầu tư của việc đo vẽ bản đồ. Cơ sở dữ liệu bản đồ, hồ sơ địa chính thiếu về số lượng và kém về chất lượng, được cập nhật không thường xuyên, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai và thị trường bất động sản trong giai đoạn hiện nay. Tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện chậm, không 10 đạt được mục tiêu đề ra đã ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền sử dụng đất của tổ chức và hộ gia đình cá nhân, hạn chế việc giao dịch quyền sử dụng đất trên thị trường bất động sản cũng như ảnh hưởng đến công tác bồi thường GPMB. 1.1.3.2. Yếu tố giá đất và định giá đất Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giá cả đất đai là dựa trên chuyển nhượng quyền sử dụng đất, là tổng hòa giá trị hiện hành của địa tô nhiều năm được chi trả một lần, là hình thức thực hiện quyền sở hữu đất đai trong kinh tế. Giá đất là giá trị của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị diện tích đất [15]. Hiện nay, theo quy định của pháp uật Đất đai giá đất được hình thành trong các trường hợp sau đây: - Do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) quy định (căn cứ vào nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất và khung giá đất do Chính phủ quy định) được công bố công khai và có hiệu lực thực hiện vào ngày 01 tháng 01 hàng năm; - Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất; - Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất [15]. Thời gian vừa qua giá đất trên thị trường biến động mạnh, việc xác định giá đất quy định thường thấp hơn nhiều giá trị thực của đất đai và chậm được sửa đổi, bổ sung. Giá đất do UBND cấp tỉnh quy định và xác định không phản ánh đúng và thường thấp hơn nhiều giá trị thực của đất đai. Hiện nay, việc định giá đất chủ yếu sử dụng một số phương pháp truyền thống như các nước trên thế giới thực hiện, đó là phương pháp so sánh trực tiếp và phương pháp thu nhập. Định giá đất được hiểu là sự ước tính về giá trị của quyền sử dụng đất bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích sử dụng đã được xác định, tại một thời điểm xác định [1]. Theo quy định của uật Đất đai 2013, nguyên tắc định giá đất là phải sát với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Hiện nay, giá đất do UBND các tỉnh quy định và ban hành đều không theo nguyên tắc đó, dẫn tới việc khiếu kiện của người dân làm chậm tiến độ trong việc GPMB khi Nhà nước thu hồi đất. Như vậy, nếu công tác định giá đất để bồi thường GPMB không được quan tâm đúng mức sẽ làm cho công tác bồi thường GPMB trì trệ, dẫn tới việc không có 11 mặt bằng đầu tư, làm chậm tiến độ triển khai dự án hoặc bỏ lỡ cơ hội đầu tư. 1.1.3.3. Thị trường bất động sản Thị trường bất động sản là nơi buôn bán bất động sản mà ở đó có người mua, người bán, người môi giới, người đại diện pháp lý để thực hiện các quan hệ giao dịch về giấy tờ pháp lý, tài chính, giá cả, tiền tệ, hàng hóa – bất động sản, theo các quy định của Nhà nước [1]. Việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản góp phần giảm thiểu việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư. Người dân bị thu hồi đất có thể tự mua hoặc thuê đất, tài sản trên đất mà không nhất thiết phải thông qua chính sách tái định cư của Nhà nước. Đồng thời, cùng với đó giá đất cũng sẽ bị tác động bởi thị trường bất động sản, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến công tác bồi thường GPMB khi Nhà nước thu hồi đất tại các dự án thời gian qua bị trì trệ, chậm tiến độ và dẫn tới những khiếu nại, khiếu kiện của người dân có đất bị thu hồi. 1.2. Nghiên cứu chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ ở Việt Nam từ năm 2003 đến nay 1.2.1. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013 (thực hiện Luật Đất đai 2003) Sau khi Nhà nước ban hành uật Đất đai 2003, để đáp ứng thực tiễn Nhà nước đã ban hành nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành uật như Nghị đinh, Thông tư cụ thể hóa các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cho các địa phương áp dụng, với nội dung cụ thể như sau: - Về bồi thường về đất: Đất được bồi thường theo hình thức đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì bồi thường bằng tiền tại thời điểm có quyết định thu hồi. - Về giá đất tính bồi thường: Giá đất theo mục đích đang sử dụng tại thời điểm có quyết định thu hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố theo quy định của Chính phủ; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng. Trường hợp bồi thường chậm theo quy định mà nguyên nhân do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra hoặc do người bị thu hồi đất gây ra thì hoàn toàn chịu trách 12 nhiệm thực hiện theo giá đất mà giá đất đó bất lợi hơn so với giá đất tại thời điểm thu hồi hoặc giá đất hiện tại. - Về bồi thường công trình, nhà ở: Được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ ây dựng quy định. Nhà, công trình gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng hoặc trái với mục đích sử dụng đất sau ngày 01/7/2004 thì không được bồi thường. - Về chính sách hỗ trợ: Ngoài những chính sách hỗ trợ như hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ khác thì Nghị định 197/NĐ-CP còn bổ sung chính sách hỗ trợ người đang thuê nhà trọ thuộc sở hữu Nhà nước, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn. - Về tái định cư: Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm lập và thực hiện các dự án tái định cư để đảm bảo phục vụ tái định cư cho người có đất bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở. - Về quy định giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và TĐC: UBND cấp tỉnh giao việc thực hiện công tác bồi thường GPMB cho Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện và Tổ chức phát triển quỹ đất. Trường hợp người được giao đất, được thuê đất hoặc tổ chức phát triển quỹ đất thỏa thuận được với người bị thu hồi về mức bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại Nghị định này thì được thực hiện theo thỏa thuận đó. - Về trách nhiệm của các Sở, ban ngành, UBND các cấp: Tổ chức thực hiện công tác GPMB, trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân về chính sách BTHT và TĐC theo thẩm quyền; ra quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền; phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền [19]. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư nhằm đáp ứng nhu cầu hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai, giải quyết những bất cập của pháp luật trước đây và xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện 13 pháp luật. Nghị định 69/2009/NĐ-CP ra đời thay thế các quy định không còn phù hợp với thực tiễn như Nghị định 197/2004/NĐ-CP và Nghị định 84/2004/NĐ-CP. Nội dung cơ bản của Nghị định 69/2009/NĐ-CP được thể hiện như sau: - Quy định về giá đất phải sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường. - Sửa đổi, bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp (nâng mức hỗ trợ đất nông nghiệp vườn ao, đất nông nghiệp trong đô thị, khu dân cư). - Các hình thức chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm đa dạng và phong phú để cho người có đất bị thu hồi lựa chọn sao cho phù hợp với từng loại đối tượng. Quy định quyền của UBND cấp tỉnh trong việc quyết định hình thức hỗ trợ (bằng tiền hoặc giao đất ở mới, căn hộ). - Thay đổi toàn bộ trình tự bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; giải quyết khiếu nại, tố cáo, cưỡng chế thu hồi đất. - Thành lập quỹ phát triển đất (trích từ 30% - 50% nguồn thu hàng năm từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền đấu giá quyền sử dụng đất). - Bổ sung một số chính sách hỗ trợ khác (hỗ trợ tái định cư cho trường hợp các hộ đủ tiêu chuẩn được tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua nhà, đất tái định cư; hỗ trợ kinh phí học nghề cho lao động trong độ tuổi lao động có nhu cầu). Việc ban hành Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ đã giải quyết được nhiều tồn tại, vướng mắc trong công tác thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, phù hợp với tình hình biến động của xã hội, lợi ích của người dân khi bị thu hồi đất, đặc biệt là người dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp và bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến chỗ ở mới. Nhìn chung Nghị định số 69/2009/NĐ-CP đã phần nào đảm bảo hài hòa ba lợi ích: Người bị thu hồi đất – Nhà đầu tư – Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, còn có những mặt hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, cụ thể: * Về chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (giá đất, thời điểm xác định giá đất để bồi thường, hỗ trợ; các khoản, các loại đất được hỗ trợ, mức hỗ trợ): - Việc thay đổi lớn chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dẫn đến gia tăng tình trạng khiếu kiện, khiếu nại đặc biệt 14 đối với những dự án lớn, thời gian GPMB kéo dài, trong đó chủ yếu là vướng mắc cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đơn giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại các thời điểm khác nhau. - Việc xác định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường theo quy định của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP gặp nhiều khó khăn và nhiều trường hợp không chính xác với thực tế. - Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm còn nhiều bất cập, thiếu tính đa dạng, chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương và tập quán của người dân. * Về chính sách tái định cư và tổ chức thực hiện các dự án tái định cư: - Việc tái định cư cho các hộ bị di dời chỗ ở thực tiễn mới chỉ giải quyết đến chỗ ở mà chưa giải quyết triệt để các nội dung liên quan như việc quy hoạch khu dân cư tạo thuận lợi cho nhân dân trong việc chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới tăng thu nhập và đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. - Một số nơi, đặc biệt vùng nông thôn, miền núi, đối tượng bị thu hồi đất là người nông dân đang sống ở các khu dân cư, có diện tích đất lên đến hàng nghìn m 2/hộ (cả đất ở và đất vườn), khi vào các khu tái định cư có diện tích hẹp hơn đã làm cho tập quán sinh hoạt phải thay đổi gây khó khăn cho người vào khu tái định cư. - Chưa có quy định cụ thể về cách tính “suất tái định cư tối thiểu”, “suất đầu tư hạ tầng” làm cơ sở để tính toán hỗ trợ tái định cư gây khó khăn cho người có đất bị thu hồi phải di dời. * Về công tác thu hồi, giao đất: - Đối với các dự án đầu tư xây dựng khu, cụm công nghiệp nhà đầu tư có thể chọn hình thức thuê đất trả tiền hàng năm, nhưng vẫn có quyền cho thuê lại đất, nhưng không quy định cụ thể hình thức cho thuê lại, nên nhiều nhà đầu tư đã cho thuê lại và thu tiền 1 lần, trong khi chưa nộp đủ tiền thuê đất cho Nhà nước, dẫn đến phát sinh nhiều phức tạp trong quá trình quản lý, dễ gây thất thoát tiền thuê đất; - Hiện nay nhiều ngành, lĩnh vực chưa có quy định mức hạn mức sử dụng đất khó khăn trong công tác thẩm định nhu cầu sử dụng đất của dự án; - Tính công khai, dân chủ trong tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại một số địa phương chưa đảm bảo theo quy trình, quy định. 1.2.2. Giai đoạn sau khi có Luật Đất đai 2013 Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và thực hiện uật Đất đai 2003, nhận 15 thấy rằng có nhiều bất cập xảy ra, không còn phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Vì vậy uật Đất đai năm 2013 ra đời, được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2014. Để hướng dẫn việc bồi thường GPMB theo quy định của uật Đất đai năm 2013, văn bản đã được ban hành: - Nghị định 47/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định vư khi Nhà nước thu hồi đất thay thế Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; - Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; - Quyết định 23/2014/QĐ-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2014 của UBND thành phố Hà Nội quy định ban hành các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội do uật Đất đai 2013 và các Nghị định của Chính phủ giao cho về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những thay đổi về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong uật Đất đai 2013 như sau: * Về điều kiện để được bồi thường về đất hi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với từng loại đối tượng mà Nhà nước thu hồi đất. uật Đất đai 2013 bổ sung thêm 02 trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 75), cụ thể: - Bổ sung bồi thường đối với các trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa người sử dụng đất theo hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê với người được giao đất có thu tiền sử dụng đất (có cùng nghĩa vụ tài chính như nhau). - Bổ sung bồi thường đối với trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất mà không phải là đất do nhà nước giao, cho thuê và có giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của uật Đất đai 2013 này mà chưa được cấp ( uật Đất đai 2003 chưa quy định việc bồi thường, hỗ trợ đất đối với đất do cơ sở tôn giáo đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, sản 16 xuất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, làm cơ sở hoạt động từ thiện, không phải đất do được Nhà nước giao mà có nguồn gốc do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho hợp pháp hoặc khai hoang trước ngày 01/7/2004 nên gây vướng mắc trong thực hiện tại nhiều địa phương). * Thể chế hóa cơ chế, chính sách bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại thông qua các quy định chi tiết đối với từng loại đất, gồm: đất nông nghiệp, đất ở, đất phi công nghiệp không phải đất ở và theo từng loại đối tượng sử dụng đất (từ Điều 77 đến Điều 81): Theo quy định của uật Đất đai năm 2013, việc xác định mức bồi thường cho người có đất bị thu hồi đối với đất sử dụng có thời hạn không chỉ căn cứ loại đất, đối tượng sử dụng đất mà còn phải căn cứ thời hạn sử dụng đất còn lại của người sử dụng đất đối với đất đó. * Về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại , cho một số trường hợp không được bồi thường đất (Điều 76). Theo hoản 13, Điều 3, uật Đất đai 2013, Chi phí đầu tư vào đất còn lại bao gồm chi phí san lấp mặt bằng và chi phí khác liên quan trực tiếp có căn cứ chứng minh đã đầu tư vào đất mà đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được. Những trường hợp được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi, bao gồm: Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại hoản 1, Điều 54; đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất nhưng được được miễn tiền sử dụng đất; đất được Nhà nước cho thuê đất hàng năm, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của cấp xã; đất nhận khoán để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối. * Về chính sách hỗ trợ - Ngoài những chính sách hỗ trợ như hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, hỗ trợ khác thì trong uật Đất đai 2013 có bổ sung về quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà 17 không có đất nông nghiệp để bồi thường ( hoản 1, Điều 84). - Quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chổ ở ( hoản 2, Điều 84). * Về chính sách tái định cư: Để khắc phục tình trạng nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà ở nhiều năm mà vẫn chưa được bố trí vào khu tái định cư, uật Đất đai năm 2013 đã có những quy định mới về bổ sung quy định về lập và thực hiện dự án tái định cư (Điều 85); Sửa đổi, bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chổ ở (Điều 86); quy định trường hợp người có đất bị thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ mua 01 suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền để mua một suất tái định cư tối thiểu. 1.2.3. Nhật xét, đánh giá chung Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và sự ổn định đời sống của người dân. Trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị thu hồi đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất. Đến nay, uật Đất đai 2013 đã ra đời và đã cơ bản giải quyết những vướng mắc, bất cập so với uật cũ. Cùng với đó là sự thay đổi về quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan lập pháp và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chính sách BTHT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trong những năm gần đây đã có nhiều điểm đổi mới nhắm đến người dân có đất bị thu hồi nhiều hơn, dẫn đến tình trạng khiếu kiện đã giảm hơn so với các giai đoạn trước. Tuy nhiên, đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, trong khi các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn tới tình trạng so bì, khiếu nại của người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng 18 thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm. Mặt khác, vẫn chưa có cơ chế bắt buộc để bảo đảm có quỹ đất và nguồn vốn xây dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất; chất lượng các khu tái định cư được xây dựng cũng chưa đáp ứng yêu cầu “có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”; chưa chú trọng tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi; việc lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại một số dự án còn thiếu kiên quyết, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch; năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi còn chưa đáp ứng yêu cầu; chưa phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng tham gia thực hiện. Một số địa phương thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân hiểu rõ quy định của pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải quyết dứt điểm, làm cho việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài nhiều năm. Trong khi đó, Tổ chức Phát triển quỹ đất chưa được quan tâm đầu tư đúng mức về kinh phí và nhân lực để thực hiện thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, tạo quỹ “đất sạch” triển khai khi có dự án đầu tư. Từ thực tế tình hình quản lý nhà nước và các chính sách đất đai, chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất qua các thời kỳ và hiện tại, cho thấy rằng việc sửa đổi, bổ sung chính sách BTHT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là cần thiết nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ GPMB thực hiện CNH- HĐH, ổn định đời sống nhân dân. 1.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, đất đai là nguồn lực quan trọng nhất, cơ bản của mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. hi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích của quốc gia đã làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế của hàng triệu hộ dân và người dân, người bị ảnh hưởng không những không hạn chế về số lượng mà còn có xu hướng ngày càng tăng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp đó là vấn đề sống còn của họ. Dưới đây là một số kinh nghiệm quản lý đất đai của các nước trên thế giới sẽ phần nào giúp ích cho Việt Nam chúng ta, đặc biệt trong chính sách bồi thường GPMB. 19 1.3.1.1. Trung Quốc Ở Trung Quốc, đất đai thuộc chế độ công hữu, gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất xây dựng thuộc sở hữu nhà nước. Đất ở khu vực nông thôn và đất nông nghiệp thuộc sở hữu tập thể, nông dân lao động. Theo quy định của uật Đất đai Trung Quốc năm 1998, đất đai thuộc sở hữu nhà nước được giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất (cấp đất), giao đất có thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất. Đất đai thuộc chế độ công hữu nên lợi ích công là điều kiện tiền đề để áp dụng quyền thu hồi đất một cách hợp pháp. Việc thu hồi đất được thực hiện chặt chẽ để tránh sự lạm quyền của chính quyền địa phương. Phạm vi đất bị thu hồi phục vụ cho lợi ích công gồm: đất phục vụ cho quân sự - quốc phòng; các cơ quan nhà nước và các cơ quan nghiên cứu sự nghiệp; công trình giao thông, năng lượng; kết cấu hạ tầng công cộng; công trình công ích và phúc lợi xã hội, công trình trọng điểm quốc gia, bảo vệ môi trường sinh thái và phục vụ cho các lợi ích công cộng khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề bồi thường cho người có đất bị thu hồi được pháp luật đất đai Trung Quốc quy định như sau: - Về thẩm quyền và quản lý đất sau thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới có thẩm quyền thu hồi đất. Công tác quản lý giải phóng mặt bằng được giao cho Cụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf01050003324_1_9134_2002992.pdf
Tài liệu liên quan