Luận văn Đánh giá tính bền vững của du lịch nông thôn tại huyện Mai châu, tỉnh Hòa Bình

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỞ ĐẦU. 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH NÔNG THÔN. 4

1.1. Cơ sở lý luận . 4

1.1.1. Du lịch nông thôn.4

1.1.2. Du lịch nông thôn bền vững.13

1.2. Tổng quan về du lịch nông thôn . 23

1.2.1. Trên thế giới .23

1.2.2. Ở Việt Nam .24

1.3. Giới thiệu về huyện Mai Châu và du lịch Mai Châu . 28

1.4. Sơ lược về xã Chiềng Châu, huyện Mai châu, Hòa bình. 29

1.4.1. Điều kiện tự nhiên .29

1.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.31

1.4.3. Tài nguyên du lịch nông thôn xã Chiềng Châu.32

CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu .

2.1.1. Mục tiêu tổng quát.

2.1.2. Mục tiêu cụ thể .

2.2. Câu hỏi nghiên cứu .

2.2.1. Về kinh tế: .

2.2.2. Về xã hội: .

2.2.3. Về môi trường: .

2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .

2.4. Phương pháp luận/cách tiếp cận .

2.5. Phương pháp nghiên cứu .

2.5.1. Xây dựng Hệ thống tiêu chí đánh giá tính bền vững của du lịch nông thôn

 

2.5.2. Phương pháp kế thừa, phân tích, tổng hợp tài liệu

pdf48 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 878 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tính bền vững của du lịch nông thôn tại huyện Mai châu, tỉnh Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưng của du lịch nông thôn là cung cấp cho du khách những trải nghiệm thực tế về văn hóa, môi trường và con người nông thôn; hoặc (trong một số trường hợp), cho phép họ tham dự vào các hoạt động thường nhật cũng như một số nghi thức của người dân địa phương. Chính vì vậy, hoạt động du lịch nông thôn liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau. (1) Nông dân và cộng đồng địa phương Nông dân chính là chủ thể cung cấp các dịch vụ du lịch nông thôn. Đối với cộng đồng dân cư địa phương, hoạt động du lịch không chỉ có những tác động kinh tế mà còn tác động đến cuộc sống cá nhân họ. Du lịch tác động đến cách sống, truyền thống và văn hóa cũng như sinh kế của người dân. Không giống như những chủ thể khác, cộng đồng địa phương sẽ phải sống chung với du lịch cho dù họ có chọn hay không. Một số cộng đồng sinh sống ở những vùng xa, nơi mà cuộc sống vốn rất yên tĩnh và bình an, có thể ít nhiều cảm thấy “bị quấy rầy” khi khách du lịch xuất hiện. Các thành viên cộng đồng có thể thực hiện nhiều vai trò trong hoạt động du lịch như: - Cho thuê địa điểm/nhà; - Làm việc bán thời gian, toàn thời gian hoặc tạm thời cho những cơ sở du lịch; - Cung cấp các dịch vụ cho hoạt động du lịch như ăn uống, hướng dẫn viên, dịch vụ vận tải Ngoài những cá nhân tham gia trực tiếp vào ngành du lịch, cũng phải kể đến một vai trò khác của cộng đồng tuy là gián tiếp nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến sự thành công du lịch nông thôn. Đó là sự giao lưu giữa cộng đồng địa phương với du khách. Đây là yếu tố khiến du khách cảm nhận được sự hiếu khách, an toàn và tiện nghi khi đi du lịch. Có hai định nghĩa khác nhau về cộng đồng: - Nhóm cộng đồng địa lý: là nhóm người sinh sống trong cùng một vùng địa lý; - Cộng đồng chức năng: là nhóm người có thể cùng sinh sống trong một vùng địa lý nhưng có cùng một yếu tố khác như tập quán, truyền thống, tính cách và ngôn ngữ. Ví dụ: nhóm ngư dân, nông dân, nhóm tôn giáo, các thành viên của một bộ tộc. (2) Chính quyền địa phương và cơ quan quản lý ngành Mặc dù du lịch có thể được điều khiển bởi khu vực tư nhân, vai trò của chính quyền, thông qua các công cụ chính sách là đảm bảo cho việc phát triển du lịch nông 11 thôn được thực hiện trong tầm kiểm soát. Trong một số trường hợp, các điểm du lịch có thể thuộc sự quản lý đồng thời của nhiều ngành dọc như văn hóa, tài nguyên môi trường. Khi đó, sự điều phối suôn sẻ giữa các ngành này vì tính thống nhất giữa chính sách du lịch và các chính sách khác của chính quyền sẽ thực sự là thách thức. Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Tuy nhiên, việc thống nhất về phân cấp giữa các ngành và trình độ quản lý của các địa phương không phải lúc nào cũng như nhau. Ngành du lịch có vai trò rất quan trọng đối với du lịch nói chung, trong đó có du lịch nông thôn. Trước hết, họ hiểu về xu hướng di chuyển, họ biết du khách muốn gì và phản ứng như thế nào. Thứ hai, ngành du lịch có thể tác động đến du khách bằng cách khuyến khích các ứng xử tốt và hạn chế các tác động tiêu cực. Thứ ba, ngành du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá du lịch nông thôn. Các thành viên của ngành biết làm thế nào để tiếp cận du khách và do đó, họ có thể kết nối các điểm du lịch nông thôn và khách hàng. (3) Doanh nghiệp lữ hành và hướng dẫn viên du lịch Để vận hành guồng máy du lịch quốc tế đòi hỏi một loạt các tác nhân tham gia giúp du khách từ lúc chọn điểm đến và sau đó có thể đi đến nơi. Về cơ bản, những người cung cấp dịch vụ du lịch địa phương chỉ tham gia vào khâu cuối của chuỗi này. Trong việc phát triển du lịch nông thôn, các doanh nghiệp lữ hành là bên liên quan chính. Họ đảm nhiệm một số vai trò quan trọng như: - Thông tin về thị trường tiềm năng; - Điều hành các tour du lịch nông thôn; - Tư vấn những sở thích của các du khách; - Cung cấp dịch vụ hướng dẫn và huấn luyện các hướng dẫn viên tại chỗ; - Đầu tư vào các cở sở du lịch nông thôn. Một số du khách thích tự khám phá có thể liên hệ trực tiếp với những người cung cấp dịch vụ địa phương thông qua Internet (như TripAdviser, Travelocity) hoặc các sách thông tin du lịch (như Routard, Lonely Planet). Tuy nhiên, việc này không phải là phổ biến, nhất là những du khách đi lần đầu. (4) Khách du lịch Du khách là tác nhân cuối cùng trong chuỗi giá trị du lịch nông thôn. Khách đi 12 du lịch nông thôn là những đối tượng có ít nhiều mối quan tâm đến khu vực nông thôn và muốn tìm hiểu, khám phá. Để thu hút khách du lịch đến với nông thôn, các chiến lược quảng cáo thường nhấn mạnh hai yếu tố sau: - Sự hấp dẫn của điểm du lịch: du khách cần được giới thiệu những thông tin về sự tồn tại của địa điểm du lịch cùng những điểm thu hút của nó (tính độc đáo, chất lượng dịch vụ). Trong lĩnh vực này, kinh nghiệm thị trường của các nhà điều hành tour là rất quan trọng; - Khuyến khích các du khách bảo trợ cho du lịch nông thôn hơn du lịch đại trà: điều này tùy thuộc vào công tác tuyên truyền, giáo dục du khách. Du khách có thể sẵn lòng trả phí, hoặc đóng góp để giúp phát triển cộng đồng địa phương, hoặc làm cho không gian du lịch thân thiện với môi trường hơn. Tất nhiên, những khoản chi phí này phải được tính toán hợp lý. (5) Các tổ chức phi chính phủ và hiệp hội của nông dân Các tổ chức này có thể không tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị, nhưng vẫn có vai trò quan trọng trong du lịch nông thôn. Tổ chức phi chính phủ có thể thuộc 2 nhóm chính sau: (i) Các tổ chức phi chính phủ khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội và (ii) các tổ chức nghề nghiệp có liên quan như các hiệp hội của các nhà điều hành tour tư nhân, các chủ khách sạn hoặc các công ty hàng không. Các tổ chức này thường tổ chức thực hiện những hoạt động như: - Hướng dẫn cho các bên liên quan, ví dụ: cộng đồng và ngành du lịch; - Hợp tác với các công ty du lịch nông thôn; - Tập huấn, cung cấp thông tin qua các chuyên gia; - Tìm kiếm tài trợ cho các hoạt động chung. Các tổ chức nông dân (bao gồm cả hiệp hội ngành nghề của nông dân, hội phụ nữ và hợp tác xã) có vai trò rất quan trọng trong phát triển nông thôn nói riêng. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển thì vai trò của các tổ chức nông dân trong dịch vụ du lịch còn rất hạn chế. Việc các tổ chức nông dân ít tham gia vào lĩnh vực du lịch một phần là do chưa nhận thức được những lợi ích mà du lịch nông thôn có thể mang lại. Hơn nữa, sự thiếu thốn về kinh phí, kinh nghiệm, hiểu biết cũng như thiếu tài liệu mô tả các điển hình thành công của du lịch nông thôn là những trở ngại đối với họ trong việc tiếp cận 13 ngành công nghiệp du lịch. Nhưng vai trò yếu kém của các tổ chức nông dân trong lĩnh vực du lịch nông thôn không chỉ đơn giản là do bản thân họ. Nhìn chung, các cơ quản quản lý du lịch cũng chưa xem các tổ chức nông dân là đối tác chính thức. Về lâu dài, một khi các hiệp hội nông dân đủ mạnh, vai trò về kinh tế cũng như xã hội của họ sẽ được củng cố dần dần. 1.1.2. Du lịch nông thôn bền vững 1.1.2.1. Hệ thống nguyên tắc du lịch nông thôn bền vững a. Phát triển du lịch bền vững Mạng Lưới tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc (United Nation World Tourism Organization Network - UNWTO) chỉ ra rằng du lịch bền vững cần phải: - Về môi trường: Sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường đóng vai trò chủ yếu trong phát triển du lịch, duy trì quá trình sinh thái thiết yếu, và giúp duy trì di sản thiên nhiên và đa dạng sinh học tự nhiên. - Về xã hội và văn hóa: Tôn trọng tính trung thực về xã hội và văn hóa của các cộng đồng địa phương, bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị truyền thống đã được xây dựng và đang sống động, và đóng góp vào sự hiểu biết và chia sẻ liên văn hóa. - Về kinh tế: Bảo đảm sự hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài, cung cấp những lợi ích kinh tế xã hội tới tất cả những người hưởng lợi và được phân bổ một cách công bằng, bao gồm cả những nghề nghiệp và cơ hội thu lợi nhuận ổn định và các dịch vụ xã hội cho các cộng đồng địa phương, và đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo. Khái niệm phát triển du lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc bảo vệ môi trường mà còn tập trung vào việc duy trì những văn hóa của địa phương và đảm bảo việc phát triển kinh tế, mang lại lợi ích công bằng cho các nhóm đối tượng tham gia. Theo nghiên cứu của Djekic S, (2007) các nguyên lý của du lịch bền vững cụ thể là: - Du lịch bền vững và vấn đề môi trường: + Bảo tồn môi trường thiên nhiên và đa dạng sinh học là ưu tiên số một của du lịch bền vững. Hoạt động du lịch cần hòa nhập với hệ sinh thái và khu dân cư địa phương. Các hoạt động du lịch bao gồm cơ sở hạ tầng, tham quan thường có tác động tiêu cực với môi trường tự nhiên và đa dạng sinh học, cần phải có đánh giá tác động 14 môi trường chặt chẽ. Các hoạt động du lịch ở miền núi cần được quản lý theo hướng bảo tồn đa dạng sinh học địa phương. + Hoạt động du lịch bền vững cần đảm bảo các phương thức giao thông, vận chuyển cần thân thiện với môi trường, ít gây tác động tiêu cực đến môi trường. + Các hoạt động du lịch dã ngoại như nông nghiệp, đi săn, đánh cá, thể thaoở các vùng sinh thái nhạy cảm cần đảm bảo là bảo tồn được các loài sinh học tự nhiên. - Du lịch bền vững và các yếu tố xã hội văn hóa: + Các hoạt động du lịch cần chú ý hạn chế các tác động trực tiếp của nó đến các văn hóa và các truyền thống địa phương. + Chiến lược du lịch cần luôn luôn tôn trọng các truyền thống, bản sắc, văn hóa và lợi ích của các cộng đồng dân cư địa phương. + Hoạt động du lịch cần đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm cho cư dân địa phương, sử dụng các sản phẩm và kỹ năng địa phương mà không làm thoái hóa môi trường sinh thái, tôn trọng lối sống và văn hóa địa phương. + Các quyết định về du lịch bền vững cần cải thiện được chất lượng cuộc sống của cư dân đón tiếp và có tác động tích cực đến bản sắc văn hóa của họ. + Việc bảo tồn và thừa nhận các các di sản văn hóa tạo cơ hội cho việc hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch với cư dân địa phương. - Quản lý các hoạt động du lịch có hiệu quả kinh tế: + Nông dân tham gia du lịch cần quản lý các hoạt động nông nghiệp và chế biến theo hướng hữu cơ, tôn trọng hệ sinh thái địa phương, phục hồi các vùng bị thoái hóa về môi trường tự nhiên và xây dựng lại yếu tố tự nhiên. + Nông nghiệp dựa trên bảo tồn các sản phẩm, giống bản địa đặc sản địa phương và canh tác quảng canh, ít sử dụng hóa chất (Djekic S, 2007). b. Hoạt động du lịch bền vững ở nông thôn Kinh nghiệm phát triển du lịch nông thôn phải dựa trên các nguyên tắc để đảm bảo thành công, bền vững (Đào Thế Anh, 2013): (1) Bảo đảm công bằng cho các chủ thể tham gia; (2) Đem lại lợi ích cho người dân địa phương và phát huy nội lực; (3) Bảo tồn, phát huy vốn di sản và bảo vệ môi trường; (4) Luôn đổi mới và tạo sự khác biệt; liên kết làm phong phú sản phẩm; (5) Giữ gìn bản sắc, xây dựng hình ảnh đẹp trong lòng du khách; 15 (6) Đóng góp vào Phát triển nông thôn bền vững và không mẫu thuẫn với hoạt động Phát triển nông thôn. Hoạt động du lịch bền vững ở nông thôn thể hiện ở chỗ các địa điểm này có thể giới thiệu được sự đa dạng về môi trường, sự hòa hợp về kiến trúc, sự phong phú về xã hội và văn hóa, và các di sản địa phương. Các hoạt động du lịch cần giới thiệu được các đặc trưng của hệ sinh thái địa phương và các đặc trưng văn hóa của cộng đồng địa phương bao gồm nghệ thuật, nghề thủ công, ẩm thựcTính bền vững cần được thể hiện về dài hạn theo các yếu tố: - Bền vững về sinh thái: chất lượng môi trường của địa điểm du lịch là yếu tố đầu tiên thu hút khách du lịch vì vậy cần tránh tối đa các tác động tiêu cực đến cảnh quan địa phương. - Bền vững về xã hội, văn hóa: các yếu tố truyền thống và bản sắc văn hóa địa phương cần được phát huy và các hoạt động làm biến dạng bản sắc địa phương cần hết sức hạn chế. - Bền vững về kinh tế: + Các chi phí về xã hội và môi trường do các hoạt động du lịch không được cao hơn lợi nhuận về kinh tế do các hoat động này mang lại. + Phát triển được mạng lưới các tác nhân (hộ nông dân, doanh nghiệp) có chiến lược du lịch chung, có điều phối tốt, chia sẻ lợi ích hài hòa, giảm chi phí, chia sẻ tốt các kinh nghiệm. + Vai trò chính sách của nhà nước tập trung vào đào tạo, hỗ trợ thông tin thúc đẩy hợp tác, hỗ trợ marketing. Sự phát triển các hoạt động du lịch chất lượng có thể mang lại nhiều tác động tích cực cho địa phương như: - Giảm di dân rời bỏ nông thôn ra thành phố. - Bảo tồn được các hoạt động sản xuất có hiệu quả kinh tế theo hướng thân thiện môi trường và các sản phẩm đặc trưng địa phương. - Phát triển thêm nghề nghiệp mới, phương thức làm nông nghiệp mới và phương thức quản lý mới. - Phát huy được các yếu tố tích cực trong bảo vệ môi trường và hạn chế được mâu thuẫn giữa nông nghiệp thâm canh và môi trường. 16 - Phát triển kinh tế cho cộng đồng địa phương và cải thiện chất lượng cuộc sống ở địa phương. 1.1.2.2. Phát triển du lịch nông thôn bền vững là nền tảng của phát triển nông thôn bền vững Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của xã hội hiện tại mà không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai (Ủy ban Brundtland, 1987). Có nhiều cách tiếp cận phát triển du lịch theo hướng bền vững. Theo Simkova (2007), phát triển du lịch bền vững của một vùng liên quan đến những yếu tố sau: (1) Sự thịnh vượng về kinh tế; (2) Cải thiện chất lượng cuộc sống (bao gồm cơ sở hạ tầng, dịch vụ công cộng); (3) Trách nhiệm với môi trường. Trong khi, Rezaei (2014) lại cho rằng phát triển du lịch bền vững có thể xem trên 2 trục chính là Con người và Hệ sinh thái. Trong đó, yếu tố con người bao gồm các khía cạnh chính trị, văn hóa, xã hội và kinh tế. Hệ sinh thái gồm có việc đảm bảo tính bền vững của các nguồn tài nguyên tái tạo, giảm thiểu việc sử dụng các tài nguyên không tái tạo và duy trì đa dạng sinh học. Jacob (1995) coi phát triển bền vững là nỗ lực hỗ trợ tương lai trong hiện tại, với những ý tưởng chủ đạo là: (1) Phát triển kinh tế và hội nhập; (2) Cam kết giữa các thế hệ; (3) Công bằng xã hội; (4) Bảo vệ môi sinh; (5) Chất lượng cuộc sống; (6) Quan hệ đối tác. Ngoài ra, cách tiếp cận “truyền thống” nhất là đi theo 3 trục nội dung của phát triển bền vững: Kinh tế – Xã hội – Môi trường: - Bền vững về kinh tế: Hoạt động du lịch tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho hộ gia đình, đồng thời đem lại lợi ích cho các bên liên quan, đóng góp vào tăng trưởng chung của cộng đồng địa phương; 17 - Bền vững về xã hội: Đảm bảo công bằng xã hội, hay nói cách khác là tránh gây ra tình trạng bất bình đẳng trong nội bộ cộng đồng. Tôn trọng văn hóa và truyền thống địa phương, không gây tổn hại đến cấu trúc xã hội hoặc văn hóa của cộng đồng địa phương; - Bền vững về môi trường: Giảm thiểu các tác động đến môi trường (động thực vật, các sinh cảnh sống), khai thác và sử dụng tài nguyên một cách bền vững, không vượt quá khả năng phục hồi và tái tạo của môi trường. Phát triển du lịch bền vững ở khu vực nông thôn cần phải hướng tới giải quyết các vấn đề hiện tại của nông thôn, ví dụ như việc làm cho nông dân, ô nhiễm môi trường, hay sự di cư tự do. Việc phát triển du lịch như một hoạt động kinh tế của vùng nông thôn cần phải có sự kết hợp hài hòa với các hoạt động khác của vùng để đảm bảo các mục tiêu phát triển bền vững. a. Du lịch nông thôn với nông nghiệp Nông, lâm nghiệp truyền thống tạo nên nền tảng của đời sống nông thôn. Đây là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất, tạo ra các nguồn thu nhập chính cho kinh tế nông thôn. Đồng thời, một cách gián tiếp, nó cũng có tác động lên các truyền thống, cơ cấu quyền lực và phong cách sống của khu vực này. Những năm gần đây, nông thôn phải đối mặt với những thách thức mới. Vào cuối thế kỷ XX, ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã mất dần vai trò trung tâm. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ tiếp tục làm thay đổi hiện trạng kinh tế và chính trị của xã hội nông thôn trên phạm vi toàn cầu. Thu nhập từ nông nghiệp có xu thế giảm. Sự phát triển về công nghệ, cộng với sự thu hẹp về quy mô dẫn đến số việc làm trong khu vực nông nghiệp giảm đáng kể. Thêm vào đó, làn sóng di cư của những người trẻ ra các đô thị khiến cho dân số nông thôn không những giảm về số lượng mà còn bị già hóa. Trong tình hình mới này, người ta bắt đầu quay sang kỳ vọng vào vai trò của du lịch nông thôn, tuy chỉ chiếm một phần nhỏ trong thị trường du lịch nói chung, đã có những đóng góp nhất định cho việc phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn. Nhưng trên thực tế, mối quan hệ giữa nông, lâm nghiệp và du lịch là vô cùng phức tạp. Đa dạng hóa hoạt động, hướng vào du lịch nông thôn thường được xem như một phương thuốc tiềm năng chữa được bách bệnh của nông nghiệp. Đối với một số 18 khu vực nhất định, các hoạt động du lịch có thể mang lại rất nhiều lợi ích. Nhưng việc phổ biến nó ở diện rộng có thể đặt ra những vấn đề nghiêm trọng: - Với khu vực nông thôn quá rộng lớn, nếu nhà nhà đều làm du lịch thì rõ ràng là thị trường không có đủ khách du lịch để cung cấp; - Ở một số khu vực, việc phát triển du lịch có thể không khả thi vì quá xa, hạ tầng quá kém, thiếu hấp dẫn về cảnh quan và di sản hoặc các lý do khác nữa; - Để thành công, du lịch nông thôn đòi hỏi sự hợp tác tích cực thương mại hóa hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều khu vực không có truyền thống hợp tác giữa nông dân với nhau hoặc giữa họ với các đối tác khác. Nói tóm lại, nông nghiệp có một vai trò quan trọng đối với du lịch nông thôn. Nông nghiệp cung cấp các đầu vào cho du lịch nông thôn. Ngược lại, du lịch nông thôn giúp tái đầu tư cho nông nghiệp. Đương nhiên, để có thể phát triển đồng thời cả nông nghiệp và du lịch thì còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác về xã hội cũng như về môi trường. Tuy nhiên, trong mọi hoàn cảnh, nông nghiệp luôn là yếu tố không thể tách rời du lịch nông thôn (Đào Thế Tuấn, 2012). b. Du lịch nông thôn với phát triển nông thôn M.J.Keane and J.Quinn (1990) cho rằng trọng tâm của vấn đề phát triển nông thôn là đa dạng sinh kế. Du lịch nông thôn là cách đa dạng hóa sinh kế cho nông dân. Hoạt động này tạo ra công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập cho nông dân. Một nông dân ngoài thời gian sản xuất nông nghiệp có thể cho thuê phòng, nấu nướng phục vụ khách, nấu nướng phục vụ khách hoặc làm hướng dẫn du lịch. Ngư dân thì có thể vừa đánh bắt hải sản, vừa hướng dẫn khách thám hiểm. Sự đa dạng hóa các nguồn thu nhập có thể mang lại sự ổn định và phát triển cho cộng đồng nông thôn. Sinh kế đa dạng cũng có thể giúp nông dân tồn tại khi có suy thoái kinh tế. Nó đặc biệt quan trọng vì kinh tế hộ gia đình là đơn vị cơ bản trong xã hội nông thôn truyền thống. Việc tạo ra công ăn việc làm ở khu vực nông thôn là vấn đề tối quan trọng. Du lịch có thể giúp duy trì công ăn việc làm trong các khu vực dịch vụ như bán lẻ, vận chuyển, nhà hàng, chăm sóc y tếNghiên cứu ở Anh cho thấy rằng, khả năng tạo việc làm phụ thuộc vào loại hình kinh doanh. Với mỗi 100.000 bảng doanh thu du lịch mỗi năm, trang trại và nhà trọ nông thôn có thể tạo ra đến 23 việc làm. Trong khi khách sạn và khu cắm trại chỉ có thể tạo ra khoảng 6 việc làm, những địa điểm tham quan tạo ra 5 đến 6 việc làm (Hart, Hardy và Shaw, 1990). 19 Sự phát triển của du lịch nông thôn thúc đẩy sự đa dạng hóa việc làm. Hầu hết các khu vực nông thôn có một mức đa dạng của việc làm phi nông nghiệp và dịch vụ tương đối thấp. Việc đa dạng hóa này làm xã hội nông thôn trở nên sống động hơn và giúp duy trì mức dân số. Du lịch nông thôn phát triển sẽ thúc đẩy nhu cầu đầu tư hạ tầng dịch vụ ở khu vực nông thôn. Các dịch vụ này không chỉ hoàn toàn phục vụ khách du lịch mà cư dân địa phương cũng được hưởng lợi. Phát triển du lịch có thể hỗ trợ cho nông nghiệp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thu nhập của người nông dân có thể tăng lên nhờ du lịch nông thôn, không chỉ do thu nhập từ tiền phòng hay tiền phí tham quan mà còn nhờ bán được nhiều sản phẩm nông nghiệp hơn. Khai thác gỗ là một hoạt động quan trọng ở nhiều khu vực, nhất là miền núi. Diện tích rừng đã suy giảm đáng kể cho sức ép về kinh tế. Du lịch nông thôn phát triển không chỉ giúp các cộng đồng sống gần rừng có thêm sinh kế mà còn tạo cho họ thêm động lực để bảo tồn vốn di sản thiên nhiên mà họ đang có. Du lịch khiến cho cộng đồng nhận thức được giá trị của những nguồn tài nguyên xung quanh. Sự xuất hiện của khách du lịch có thể làm gia tăng mối quan tâm của cộng đồng đến khu bảo tồn. Hơn nữa, công tác bảo tồn thiên nhiên cũng như bảo tồn các di tích thường là tốn kém. Du lịch nông thôn có thể tạo kinh phí cho các hoạt động này thông qua việc thu phí từ du khách. Du khách sẵn sàng trả tiền để xem các khu bảo tồn và số tiền thu được có thể là rất đáng kể so với ngân sách mà Chính phủ bỏ ra. Việc phát triển du lịch cũng có thể làm sống lại nhiều di tích lịch sử, các tòa nhà, lâu đài, nhà thờ cũ trong vùng vốn bị bỏ hoang do thiếu kinh phí bảo trì. Đôi khi, chính sự cũ kỹ lại trở thành những điểm nhấn hấp dẫn du khách. Nghệ thuật và nghề thủ công có một vị trí đặc biệt trong di sản văn hóa của khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, sự khó khăn trong công tác tiếp thị sản phẩm khiến cho nhiều ngành nghề nông thôn bị mai một. Du lịch là một cách đem khách hàng đến cho những người thợ thủ công. Các dịch vụ văn hóa ở khu vực nông thôn thường bị hạn chế. Sự thiếu vắng các không gian văn hóa như nhà hát, opera, rạp chiếu phim và phòng trưng bày nghệ thuật là một trong nhiều yếu tố thúc đẩy các cuộc di cư từ nông thôn ra thành thị. Lễ hội và 20 các sự kiện tổ chức ở nông thôn không chỉ để thu hút khách du lịch mà còn góp phần mở mang văn hóa cho các cư dân sở tại. Du lịch có thể giúp cải thiện môi trường nông thôn. Ví dụ như các hệ thống thoát nước, rác thải nông thôn có thể được đầu tư từ doanh thu du lịch và dưới áp lực của phát triển du lịch. Hoạt động du lịch có thể tác động gián tiếp đến cân bằng sinh thái. Vì du lịch, người dân buộc phải quan tâm đến sự tồn tại của một số loài động thực vật quanh họ. Chẳng hạn, một số nhóm hoạt động môi trường cho rằng doanh thu từ khách du lịch đi xem cá voi và cá heo có thể vượt quá doanh thu từ việc bắt các loài này để lấy thịt. Vai trò của phụ nữ trong cộng đồng nông thôn thường bị hạn chế. Trong nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, nam giới thường đảm nhận các việc nặng, được cho là quan trọng hơn. Có ít việc làm cho phụ nữ hoặc những việc được trả công ít hơn khiến phụ nữ hiếm khi có tiếng nói trong các hoạt động chính trị của địa phương. Du lịch nông thôn tạo ra việc làm cho phụ nữ, qua đó làm tăng sức mạnh của họ cả trong gia đình và cộng đồng. Du lịch giúp cho các cộng đồng nhỏ có thể tồn tại mà không cần đến nhiều sự hỗ trợ của nhà nước hay từ bên ngoài. Cuối cùng, tính chất cạnh tranh mạnh mẽ và những thách thức của thị trường du lịch thúc đẩy tính sáng tạo và năng động vốn ít thấy ở những nông dân thuần nông. c. Du lịch nông thôn với văn hóa, xã hội nông thôn Muốn phát triển du lịch cần phải có một môi trường du lịch tốt (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn). Xét theo phạm trù văn hóa xã hội, du lịch là một hoạt động văn hóa cao cấp của con người. Bởi văn hóa là mục đích mà du lịch hướng tới, là nguyên nhân nội sinh của nhu cầu du lịch. Cho dù chuyến du lịch nhằm mục đích gì, theo phương thức nào thì mục đích cuối cùng vẫn là nhằm thỏa mãn những nhu cầu của bản thân khách du lịch, để cảm nhận, thụ hưởng những giá trị vật chất và tinh thần ở một xứ sở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Văn hóa là tài nguyên để phát triển du lịch, trong đó có du lịch nông thôn. Giá trị của những di sản văn hóa ở khu vực nông thôn, bao gồm di tích lịch sử, các công trình kiến trúc, các loại hình nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền thốngchính là những đối tượng để ngành du lịch khai thác và sử dụng. Ngoài ra, cách thức khai thác và thu lợi nhuận từ tài nguyên nông thôn (bao gồm cả tài nguyên 21 thiên nhiên), việc xây dựng các địa điểm du lịch đều phản ánh văn hóa, trí tuệ và sức sáng tạo của loại người. Văn hóa không chỉ tạo ra môi trường cho du lịch mà còn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf01050003293_8757_2006136.pdf
Tài liệu liên quan