Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu chi bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

LỜI CAM ĐOAN . i

LỜI CẢM ƠN. ii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT . viii

DANH MỤC BẢNG. ix

DANH MỤC HÌNH.x

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU . xi

LỜI MỞ ĐẦU.1

1. Tính cấp thiết của đề tài.1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.2

3. Mục đích nghiên cứu .3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.4

4.1. Đối tượng nghiên cứu.4

4.2. Phạm vi nghiên cứu.4

5. Phương pháp nghiên cứu.4

6. Kết cấu luận văn.4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THU CHI BẢO HIỂM XÃ

HỘI .5

1.1. Một số khái niệm cơ bản về Bảo hiểm xã hội.5

1.1.1. Khái niệm BHXH.5

1.1.2. Bản chất của BHXH .6

1.1.3. Đặc điểm của BHXH .7

1.1.4. Vai trò của BHXH.7

1.2. Nội dung công tác quản lý thu chi BHXH.8

1.2.1. Khái quát về quỹ BHXH .8

1.2.2. Quản lý thu BHXH .10

1.2.3. Quản lý chi BHXH.20

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội .26

1.3.1. Hệ thống pháp luật, quy định về BHXH.26

1.3.2. Chính sách tiền lương .26

pdf123 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu chi bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động của từng đơn vị sử dụng lao động ngày từ khi đơn vị đăng ký tham gia, trong suốt quá trình hoạt động và đến khi sáp nhập, giải thể (nếu có) và để quản lý được trước hết cần phân loại đơn vị sử dụng lao động theo từng khối đơn vị. Căn cứ vào mục đích và tính chất hoạt động có thể phân chia ra thành các khối đơn vị như sau: + Khối doanh nghiệp Nhà nước; + Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; + Khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước (hay còn gọi DN ngoài quốc doanh); + Khối hành chính sự nghiệp; + Khối các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng, đoàn thể; + Khối hộ kinh doanh cá thể; 46 + Khối hợp tác xã. Theo phân cấp của BHXH tỉnh Quảng Ninh, khối DNNN do BHXH tỉnh quản lý, do đó BHXH thành phố Uông Bí không thu tiền đóng BHXH của các đơn vị là DNNN đóng trụ sở trên địa bàn thành phố theo phân cấp của BHXH tỉnh mà chỉ quản lý các nhóm đối tượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DNCVĐTNN), doanh nghiệp ngoài Nhà nước (DNNQD); khối hành chính sự nghiệp (HCSN), khối các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng, đoàn thể (Đ-ĐT), khối hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã và các đối tượng khác theo quy định Cơ quan BHXH thành phố Uông Bí căn cứ vào đặc điểm, tính chất, hình thức hoạt động của từng khối để đưa ra hình thức quản lý thích hợp. Một điểm cần ưu ý là các đơn vị sử dụng lao động, nhất là đơn vị sản xuất, kinh doanh trong khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước thường tìm cách trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH. Bởi vì chủ sử dụng lao động phải đóng vào quỹ BHXH nhưng họ không được hưởng lợi ích trực tiếp khoản chi ra từ quỹ. Mặt khác, nếu họ gian lận không phải đóng quỹ BHXH thì họ sẽ giảm được chi phí, tất yếu họ thu được lợi nhuận nhiều hơn. Vì vậy, việc quản lý chặt chẽ buộc chủ sử dụng lao động phải đóng vào quỹ BHXH theo luật định không những để có nguồn lực tài chính đảm bảo chi trả cho người lao động khi gặp rủi ro, mà còn đảm bảo sự công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Quản lý và không ngừng mở rộng đối tượng tham gia BHXH là nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản và lâu dài của ngành BHXH nói chung và của BHXH thành phố Uông Bí nói riêng. Thời gian qua BHXH thành phố Uông Bí đã kịp thời triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH trên địa bàn toàn thành phố theo quy định, tích cực phát huy tính năng động, sáng tạo trong thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; sử dụng nhiều biện pháp tích cực chủ động khảo sát dốc đơn vị sử dụng lao động và người lao động là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Cử cán bộ quản lý trực tiếp bám sát đơn vị sử dụng lao động mới thành lập để tuyên truyền, vận động và hướng dẫn làm thủ tục tham gia BHXH. Tình hình tham gia BHXH ở thành phố Uông Bí từ năm 2011 đến năm 2015 thể hiện ở bảng số liệu 2.2 47 Bảng 2.2. Số đơn vị đăng ký tham gia BHXH năm 2014 – 2018 Năm Loại hình đơn vị Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN 01 02 02 02 03 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 294 292 296 312 348 HCSN, Đảng, đoàn thể 79 80 81 80 76 Khối ngoài Công lập 6 16 20 24 28 Hợp tác xã 2 2 3 3 3 Xã, Phường 11 11 11 11 11 Khác 2 3 16 18 20 Tổng cộng 395 406 429 450 489 (Nguồn: BHXH thành phố Uông Bí) Bảng 2.3. Số lao động tham gia BHXH năm 2014 – 2018 ĐVT: Người Năm Loại hình đơn vị Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Doanh nghiệp có vốn ĐTNN 33 32 32 34 35 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 11.024 12.129 12.447 12.080 12.169 HCSN, Đảng, đoàn thể 3.571 3.892 3.936 3.788 3.804 Khối ngoài công lập 157 175 178 173 185 Hợp tác xã 45 35 32 31 31 Xã, Phường 240 239 236 235 234 Khác 8 13 78 86 98 Tổng cộng 15.078 16.515 16.939 16.427 16.556 (Nguồn: BHXH thành phố Uông Bí) Sự gia tăng số đơn vị sử dụng lao động là cơ sở quan trọng phát triển số lao động tham gia BHXH. Qua số liệu bảng 2.3 tình hình biến động tăng, giảm lao động tham gia BHXH ở các khối có sự khác nhau. Số lao động ở khối DN có vốn ĐTNN ổn định qua các năm. Số lao động trong khối DNNQD cũng tương đối ổn 48 định với mức tăng/giảm hàng năm không quá lớn. Số lao động khối HCSN, Đảng, đoàn thể, năm 2014 số lao động tham gia là 3571, đến năm 2015 đã có 3892 lao động, tăng 321 lao động, chủ yếu là tăng do biên chế của Bệnh viện Thụy điển - Việt Nam, Phòng Y tế và ngành giáo dục do tách các trường. Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số đơn vị tăng, nhưng số lao động thì lại giảm trong giai đoạn 2016-2018, nguyên nhân do tình hình kinh tế khó khăn các đơn vị sử dụng lao động phải thu hẹp sản xuất hoặc chỉ duy trì sản xuất cầm chừng dẫn đến việc khai thác đối tượng tham gia còn hạn chế. 2.2.1.3. Tình hình quản lý tiền lương làm căn cứ đóng BHXH Cùng với việc tăng cường quản lý đối tượng tham gia BHXH thì vấn đề đặt ra cần thiết phải quản lý quỹ tiền lương, mức lương làm căn cứ đóng BHXH, vì đây là cơ sở để thực hiện thu đúng, thu đủ và làm căn cứ giải quyết các chế độ, chính sách BHXH. Theo quy định tại Điều 54 Luật BHXH, tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phj cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có) làm căn cứ đóng BHXH được tính trên cơ sở mức lương tối tiểu chung do Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. Đối với chế độ tiền lương do đơn vị sử dụng lao động quy định thì mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động sẽ làm căn cứ đóng BHXH. Thời gian qua, BHXH thành phố Uông Bí đã thực hiện tốt các quy định về mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, đảm bảo hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt và thống nhất trong toàn bộ lực lượng lao động làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế. 49 Bảng 2.4. Tổng hợp mức tiền lương đóng BHXH từ năm 2014 – 2018 ĐVT: 1.000 đồng Khối/Loại hình Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Thu Nhập BQ thực tế (người /tháng) Mức LBQ đóng BHXH (người/ tháng) Thu Nhập BQ thực tế (người /tháng) Mức LBQ đóng BHXH (người/ tháng) Thu Nhập BQ thực tế (người /tháng) Mức LBQ đóng BHXH (người/ tháng) Thu Nhập BQ thực tế (người /tháng) Mức LBQ đóng BHXH (người/ tháng) Thu Nhập BQ thực tế (người /tháng) Mức LBQ đóng BHXH (người/ tháng) DNCVĐTNN 3.839 3.264 4.361 3.640 4.487 3.993 4.839 4.264 5.361 4.640 DNNQD 4.332 1.958 4.505 2.170 4.779 3.380 4.932 3.958 5.205 4.170 HC,SN,ĐĐT 3.358 2.823 3.680 3.332 3.758 3.292 4.358 3.823 4.680 4.332 Phường, xã 2.600 2.312 2.850 2.756 3.000 2.773 3.600 3.312 3.850 3.756 (Nguồn: BHXH thành phố Uông Bí) Qua bảng 2.4 tổng hợp số liệu mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Uông Bí cho thấy mức lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH ở các khối đều thấp hơn mức thu nhập bình quân thực tế của người lao động. Vì quy định về tiền lương của người lao động dùng để làm cơ sở đóng BHXH trong các đơn vị thuộc khối HCSN, DNNN và các tổ chức chính trị - xã hội của Nhà nước vẫn căn cứ vào hệ số thang, bảng lương do Nhà nước ban hành mà không căn cứ vào thu nhập thực tế của người lao động. Việc quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH hiện nay còn bộc lộ một số điểm bất hợp lý sau: - Tiền lương làm căn cứ thực hiện nghĩa vụ đóng góp BHXH không phải là tiền lương thực tế của người lao động, dẫn đến tình trạng: + Đối với khu vực áp dụng chế độ tiền lương do Nhà nước quy định tạo ra tính bình quân trong việc đóng và hưởng BHXH. Mức đóng thấp so với lương thực tế tạo ra sự so sánh của các đơn vị khác, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật BHXH. 50 + Đối với khu vực ngoài quốc doanh: không minh bạch trong việc thực hiện chế độ trích nộp BHXH, các doanh nghiệp không ký HĐLĐ hoặc chỉ ghi mức lương rất thấp trên HĐLĐ để trốn hoặc giảm nghĩa vụ đóng góp BHXH. Có thể nói, quy định hiện hành đã làm cho mức đóng BHXH hoàn toàn tách rời tiền lương thực tế, tạo điều kiện cho những sai phạm về BHXH xảy ra một cách phổ biến. Hậu quả là quỹ BHXH thất thu lớn, mức chi trả các chế độ trợ cấp thấp, làm cho mục đích của BHXH chưa đạt được như mong muốn, người lao động thờ ơ và ý nghĩa tốt đẹp của BHXH bị ảnh hưởng. - Những bất hợp lý của tiền lương đóng BHXH hiện hành đều tác động tiêu cực trực tiếp đến tất cả các chế độ trợ cấp BHXH, do chế độ trợ cấp hưu trí là loại chế độ dài hạn, có mối quan hệ chặt chẽ đến toàn bộ quá trình đóng BHXH, nên mức tiền lương bình quân làm căn cứ chi trả trợ cấp hưu trí thể hiện bất hợp lý: + Đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định: thì tính bình quân các mức tiền lương tháng đóng BHXH của những năm cuối trước khi nghỉ để tính mức tiền lương bình quân cho cả quá trình đóng BHXH, làm căn cứ trả lương hưu. Theo luật BHXH mức bình quân tiền lương này được tính 5 năm, 6 năm, 8 năm hay 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu tùy thuộc thời gian tham gia BHXH của từng NLĐ để tính, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tác đóng – hưởng. + Đối với NLĐ có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì tính bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian tham gia BHXH nên không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa các đối tượng tham gia BHXH. - Mức trợ cấp hưu trí còn thấp so với mức thu nhập thực tế của NLĐ trước khi nghỉ hưu. Vì vậy, việc tham gia BHXH với mức lương thấp là bất lợi cho NLĐ. 2.2.1.4. Tình hình quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội Theo quy định mỗi cơ quan BHXH đều được phép mở một tài khoản chuyên thu tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và một tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để chuyên thu BHXH của các đơn vị trên địa bàn. Việc quản lý 51 nguồn thu BHXH trên địa bàn thành phố Uông Bí trong những năm qua đảm bảo theo đúng các quy định: - Thực hiện nghiêm ngặt quy trình thu nộp BHXH: Căn cứ vào danh sách lao động và tổng quỹ tiền lương mà đơn vị đã đăng ký với cơ quan BHXH; trên cơ sở đó, BHXH thành phố thực hiện thu BHXH của các ĐVSDLĐ. Hàng tháng, khi cấp phát tiền lương cho người lao động, NSDLĐ khấu trừ các khoản đóng góp của NLĐ từ tiền lương của họ, đồng thời trích trên tổng quỹ tiền lương phần đóng góp của NSDLĐ. Chậm nhất vào ngày cuối tháng nộp cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Định kỳ hàng tháng cơ quan BHXH thực hiện thông báo bằng văn bản tình hình lao động tham gia và thu nộp BHXH đến từng đơn vị tham gia. - Thường xuyên phối hợp với hệ thống Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn để cập nhật số tiền thu nộp BHXH thực hiện. Hàng ngày, cán bộ BHXH đến Ngân hàng và Kho bạc nhận chứng từ về cập nhật số liệu vào phần mềm quản lý thu BHXH. Theo các quy định liên ngành của BHXH với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và Kho bạc Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng tài khoản tiền gửi của hệ thống BHXH Việt Nam thì cơ quan BHXH huyện, BHXH tỉnh ủy quyền cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và Kho bạc Nhà nước cùng cấp thực hiện chuyển tiền từ tài khoản “tiền gửi chuyên thu” của BHXH cùng cấp về tài khoản “ tiền gửi chuyên thu” của BHXH cấp trên mà không cần chứng từ chuyển tiền của chủ tài khoản. Hàng tháng, cơ quan BHXH thực hiện đối chiếu số dư tiền gửi với Ngân hàng và Kho bạc. Bênh cạnh đó, để quản lý nguồn thu BHXH thành phố uông Bí đã triển khai ứng dụng phần mềm “ hệ thống thông tin quản lý thu BHXH, BHYT – SMS” của ngành BHXH. Việc ứng dụng phần mềm tin học vào quản lý thu BHXH cho phép BHXH huyện quản lý chặt chẽ số thu của từng đơn vị, chính xác số tiền phải đóng, đã đóng và số nợ, số tiền lãi chậm nộpgiảm thiểu đáng kể số lao động thủ công và đảm bảo tính chính xác, kịp thời. Với chương trình này, cơ quan BHXH từ tỉnh đến 52 các huyện thực hiện quản lý bằng cơ sở dữ liệu các đối tượng tham gia về tiêu chí: Số sổ BHXH, họ tên, địa chỉ, đơn vị công tác, chức danh nghề nghiệp, lịch sử tiền lương, thân nhân đối tượng cho phép chuyển dữ liệu để xét duyệt thanh toán các chế độ BHXH khi phát sinh, phục vụ đắc lực cho cải cách hành chính theo mô hình một cửa “tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả”. Áp dụng đồng bộ các biện pháp trên, công tác quản lý nguồn thu của BHXH thành phố Uông Bí luôn đảm bảo công khai, minh bạch, chặt chẽ, tránh lạm dụng, thất thoát nguồn thu BHXH và đảm bảo được nguyên tắc không sử dụng nguồn thu vào các mục đích khác theo quy định của BHXH Việt Nam. 2.2.1.5. Tình hình nợ đọng tiền đóng bảo hiểm xã hội Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được ở trên vẫn còn tồn tại một số DN hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố không tuân thủ quy định trong việc đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của NLĐ. Tình trạng trốn nợ đọng, né tránh trách nhiệm đối với NLĐ của chủ SDLĐ vẫn là vấn đề nan giải, cơ quan BHXH thành phố đã cố gắng thống kê đầy đủ số nợ đọng của các đơn vị, từ đó tìm ra các biện pháp thúc đẩy người SDLĐ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với NLĐ. a. Tình hình nợ tiền đóng BHXH Tính đến 31/12/2018, trên địa bàn thành phố Uông Bí có 145 đơn vị nợ BHXH, với số tiền 14.430 triệu đồng. Trong đó, số đơn vị nợ từ 3 tháng trở lên là 128 đơn vị, với số tiền 10.370 triệu đồng; cá biệt có 17 đơn vị nợ trên 6 tháng với số tiền 4.060 triệu đồng; Đơn vị có số nợ nhiều nhất là 3.532 triệu đồng. 53 Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH từ năm 2014 – 2018 ĐVT: Triệu đồng Năm Khối ngành 2014 2015 2016 2017 2018 Số tiền nợ Tỷ trọng (%) Số tiền nợ Tỷ trọng (%) Số tiền nợ Tỷ trọng (%) Số tiền nợ Tỷ trọng (%) Số tiền nợ Tỷ trọng (%) DNCVĐTNN 0 DNNQD 2.402 88,7 6.230 85,8 9.173 91,5 5.021 85,1 6.557 89,7 HTX 34 0,4 30 0,4 39 0,4 38 0,6 29 0,4 NCL 58 1,9 134 1,8 108 1,1 102 1,7 143 2 HC, SN, ĐĐT 793 8,8 854 11,8 662 6,6 717 12,1 551 7,5 Phường, xã 14 0,2 16 0,2 14 0,1 8 0,1 0.317 0,004 Khác 18 0,3 27 0.4 Tổng cộng 3.301 100 7.264 100 9.996 100 5.904 100 7.307 100 (Nguồn: BHXH thành phố Uông Bí) Qua bảng 2.5 cho thấy: tình hình nợ đọng BHXH tại thành phố Uông Bí có chiều hướng gia tăng. Năm 2018 có số nợ đọng là 7.307 triệu đồng tăng 123% so với năm 2017, năm 2017 có số nợ đọng là 5.904 triệu đồng giảm 4.092 triệu đồng (59%) so với năm 2016. Năm 2016 có số nợ đọng là 9.996 triệu đồng tăng 2.732 tr đ tăng 137% so với năm 2015; năm 2015,2014 nợ đọng chủ yếu ở khối DNNQD với số tiền phải thu là 6.230 triệu đồng đồng chiếm 85,7% và 2.402 triệu đồng đồng chiếm 73% tổng số nợ. Tình hình nợ tiền đóng BHXH ở từng khối có mức độ khác nhau. Số dư nợ BHXH tập trung chủ yếu ở khối DNNQD, đây cũng là khối có số đơn vị và số lao động tham gia BHXH nhiều nhất trong tổng số đơn vị và số lao động tham gia BHXH các khối. Năm 2018 tỷ lệ nợ BHXH của khối DNNQD lên tới 53,4% số phải thu. Nguyên nhân do một số DN làm ăn kém hiệu quả, một số doanh nghiệp cố tình chây ỳ, chậm nộp để chiếm dụng quỹ BHXH. Khối HCSN và khối xã, phường có tỷ lệ nợ khá thấp, thường dưới 1%. Trên thực tế 2 khối này không thuộc khối sản 54 xuất kinh doanh tiền lương hàng tháng đều do NSNN chi trả. Nguyên nhân để nợ BHXH do cán bộ thu chưa sâu sát cơ sở để đôn đốc thu hoặc do một số đơn vị chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện Luật BHXH. b. Các biện pháp xử lý nợ đọng BHXH Xác định nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và giảm nợ tới mức thấp nhất là mục tiêu hàng đầu trong công tác thu của ngành BHXH nói chung và BHXH thành phố Uông Bí nói riêng, thời gian qua BHXH thành phố đã tích cực đưa ra các biện pháp nhằm xử lý nợ đọng, cụ thể là: - Phân công cán bộ chuyên quản từng đơn vị, có trách nhiệm hướng dẫn và đôn đốc thu các đơn vị được giao. Sử dụng phần mềm quản lý thu SMS hỗ trợ xác nhận các đơn vị tham gia BHXH, BHYT, BHTN nợ đến 03 tháng tiền đóng đối với đơn vị đóng hàng tháng, 6 tháng đối với đơn vị đóng hàng quý, 9 tháng đối với đơn vị đóng 6 tháng một lần thì cán bộ chuyên quản thu liên hệ và trực tiếp đến đơn vị để đôn đốc đối chiếu thu nộp và lập biên bản đối chiếu thu nộp. Sau đó tiếp tục gửi văn bản đôn đốc đơn vị, 15 ngày gửi văn bản đôn đốc một lần. - Đối với đơn vị nợ BHXH, BHYT, BHTN, cơ quan BHXH đã thực hiện đối chiếu, lập biên bản đối chiếu thu nộp theo quy định, gửi văn bản đôn đốc thu nộp đến 03 lần những đơn vị vẫn không đóng thì cơ quan BHXH thực hiện như sau: + Tiếp tục đối chiếu thu nợ và lập biên bản đối chiếu thu nộp (mẫu C05-TS). + Gửi văn bản thông báo tình hình đóng BHXH, BHYT của đơn vị cho đơn vị cấp trên hoặc cơ quan quản lý đơn vị để có biện pháp đôn đốc đơn vị trả nợ đóng BHXH. Sau đó, nếu đơn vị vẫn không đóng thì gửi văn bản báo cáo UBND cùng cấp và cơ quan thanh tra Nhà nước, thanh tra lao động trên địa bàn kiểm tra, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp đã quá thời hiệu xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (một năm kể từ ngày đơn vị nợ tiền BHXH) mà các cơ quan có thẩm quyền chưa xử lý thì cơ quan BHXH lập hồ sơ khởi kiện đơn vị ra Tòa án. 55 2.2.1.6. Tình hình thu BHXH trên địa bàn thành phố Uông Bí Tình hình thu BHXH được thể hiện thông qua tổng mức đóng góp của tất cả đối tượng tham gia BHXH. Nhìn chung tình hình thu BHXH trong những năm qua ở BHXH thành phố Uông Bí đều tăng. Bảng 2.6. Tình hình thu BHXH trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2018 Đơn vị: Triệu đồng Năm Số BHXH phải thu theo kế hoạch Số BHXH thực tế đã thu Tỷ lệ hoàn thành(%) 2014 148.100 152.647 103,1 2015 163.640 167.192 102,1 2016 205.629 207.307 101 2017 217.600 218.872 101 2018 221.954 224.174 101 (Nguồn: BHXH thành phố Uông Bí) Trong những năm gần đây, tổng quỹ lương của NLĐ trên địa bàn thành phố không ngừng tăng dẫn đến số thu BHXH bắt buộc tại thành phố cũng tăng lên. Quan sát bảng số liệu ta có thể thấy rằng, qua các năm từ năm 2014 đến năm 2018, BHXH thành phố Uông Bí đã hoàn thành tốt công tác thu BHXH theo kế hoạch của BHXH tỉnh giao cho. Cụ thể: Năm 2014, kết quả thu BHXH bắt buộc đạt 152.647 triệu đồng vượt 3.1% so với kế hoạch tỉnh giao. Năm 2015 vượt 2.1% , năm 2016 vượt 1% kế hoạch, năm 2017 vượt 1% kế hoạch và năm 2018 vượt 1% kế hoạch. Có thể thấy rằng BHXH thành phố Uông Bí đã thực hiện rất tốt công tác quản lý thu BHXH bắt buộc luôn đảm bảo tiến độ và hoàn thành vượt mức kế hoạch BHXH tỉnh giao, góp phần đảm bảo quyền lợi cho NLĐ trên địa bàn thành phố. Việc đạt số thu BHXH bắt buộc tăng dần hằng năm do các nguyên nhân chủ yếu sau: 56 Nhận xét: Giai đoạn 2014 – 2018, BHXH thành phố Uông Bí luôn hoàn thành vượt kế hoạch thu BHXH bắt buộc mà BHXH tỉnh giao cho, lần lượt qua các năm là 103,1%; 102,1%; 101%; 101%; 101%. Năm 2014 kết quả thu BHXH bắt buộc là 152.647 triệu đồng, trong khi kế hoạch tỉnh giao phải thu 148.100 triệu đồng. Với kết quả thu được, trong năm BHXH thành phố Uông Bí đã hoàn thành vượt 3,1% kế hoạch được giao. Năm 2015, kết quả thu BHXH bắt buộc là 167.192 triệu đồng, trong khi kế hoạch tỉnh giao phải thu trong năm là 163.640 triệu đồng. Với kết quả thu được, trong năm BHXH thành phố Uông Bí đã hoàn thành vượt 2,1% kế hoạch giao. Năm 2016, kết 207.307 triệu đồng, vượt 101% kế hoạch. Năm 2017, kết quả thu BHXH bắt buộc là 218.872 triệu đồng, trong khi kế hoạch tỉnh giao phải thu trong năm là 217.600 triệu đồng, vượt 1% kế hoạch. Năm 2018, kết quả thu BHXH bắt buộc là 224.174 triệu đồng, trong khi kế hoạch tỉnh giao phải thu trong năm là 221.954 triệu đồng, vượt 1% kế hoạch. Đạt được kết quả trên là nhờ cán bộ thu luôn tận tuỵ cho công việc, theo dõi, nắm bắt kịp thời tình hình thu BHXH hàng tháng của đơn vị sử dụng lao động để thông báo, nhắc nhở các đơn vị đóng đúng thời gian và đủ số tiền quy định. Tình hình kinh tế của thành phố có sự phát triển, bên cạnh đó cũng thu hút được nhiều đơn vị mới tham gia sản xuất, kinh doanh. Từ đó làm tăng số đơn vị và số người lao động tham gia BHXH dẫn đến số thu tăng không ngừng qua các năm. 2.2.1.7. Tình hình kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thu, nộp BHXH Nhận thức được vai trò của công tác kiểm tra là công cụ giúp cho người lãnh đạo phát hiện những nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý những vi phạm nhằm điều chỉnh trong quản lý và hoàn hiện cơ chế quản lý của mình để đạt hiệu quả cao. Vìvậy, BHXH thành phố đã quan tâm, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. Những năm qua, công tác kiểm tra của BHXH thành phố Uông Bí là công cụ đắc lực trong việc quản lý BHXH nói chung, quản lý thu BHXH nói riêng. Hàng năm, căn cứ vào chương trình kiểm tra của BHXH tỉnh Quảng Ninh, 57 BHXH thành phố Uông Bí đã chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra và phối hợp với phòng lao động TB&XH, Liên đoàn lao động thành phố kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động, trọng tâm kiểm tra tập trung vào công tác thu nộp BHXH, BHYT, công tác cấp sổ BHXH và công tác chi trả các chế độ ngắn hạn, từ đó đề nghị các đơn vị sử dụng lao động thực hiện đúng các chế độ BHXH theo quy đinh. Thông qua công tác kiểm tra đã phát hiện và xử lý nhiều trường hợp vi phạm BHXH, chủ yếu là việc kê khai không đủ số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, kê khai mức lương thấp hơn so với mức lương thực tếchỉ tính năm 2015 từ thực tế kiểm tra 30 đơn vị, BHXH thành phố đã kiến nghị ĐSSDLĐ đăng ký lao động tham gia BHXH là 75 người, kiến nghị 5 ĐVSDLĐ nộp số tiền BHXH còn thiếu tính đến thời điểm kiểm tra là 1.242 triệu đồng. Ngoài công tác kiểm tra và phối hợp kiểm tra, công tác tiếp công dân và trả lời đơn thư cũng được BHXH thành phố chú trọng. BHXH thành phố đã bố trí phòng và cán bộ thường trực tiếp công dân. Các nội dung kiến nghị của công dân và trả lời đơn thư đều được BHXH thành phố thụ lý giải quyết dứt điểm, góp phần tạo niềm tin cho đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công tác kiểm tra còn hạn chế, mới chỉ dừng lại ở công tác kiểm tra, kiểm soát và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Các kiến nghị xử lý sau khi kiểm tra của BHXH thành phố chưa được các đơn vị nghiêm túc thực hiện. Việc theo dõi đôn đốc, báo cáo kết quả thực hiện của các đơn vị được kiểm tra chưa chặt chẽ. Do đó, hiệu quả của công tác kiểm tra còn chưa cao. 2.2.2. Thực trạng quản lý chi các chế độ BHXH trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh Tại thành phố Uông Bí, công tác chi trả BHXH theo nguyên tắc đúng kỳ, đầy đủ, kịp thời và an toàn được BHXH thành phố Uông Bí luôn xác định là nhiệm vụ hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của hàng chục ngàn đối tượng thụ hưởng. Do đó, BHXH thành phố đã tập chung tổ chức thực hiện tốt công tác chi trả, góp phần đảm bảo ASXH và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. 58 2.2.2.1. Lập kế hoạch chi các chế độ BHXH Để đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật về quản lý chi BHXH, quản lý quỹ BHXH được chặt chẽ, đối tượng được nhận tiền BHXH thuận tiện, đầy đủ,kịp thời, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã xây dựng và thực hiện quy trình sau cho từng loại chế độ. Theo điều 2 điều lệ BHXH Việt Nam hiện nay, BHXH thành phố Uông Bí đang thực hiện các loại chế độ sau đây: + Chế độ trợ cấp ốm đau + Chế độ trợ cấp thai sản + Chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp + Chế độ hưu trí + Chế độ tử tuất Việc xây dựng kế hoạc chi được căn cứ vào các nội dung sau: - Căn cứ vào số người đang hưởng chế độ BHXH và kinh phí chi cho các chế độ BHXH trên địa bàn, theo nguồn cho Ngân sách Nhà nước cấp và nguồn quỹ BHXH đảm bảo. - Căn cứ vào dự toán đơn vị cấp 3 (BHXH huyện, thành phố) lập gửi lên, Bảo hiểm xã hội tỉnh kiểm tra và giao chỉ tiêu kế hoạch cho đơn vị dự toán cấp dưới để làm căn cứ tổ chức thực hiện chi BHXH và đánh giá kết quả hoàn thành công tác của đơn vị. - Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch được giao và các quy định về quản lý chi, các đơn vị tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán, kế toán, thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán theo quy định. Cuối quý và cuối năm, BHXH các huyện, thành phố đều phải lập báo cáo quyết toán tài chính của đơn vị và gửi lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh kiểm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của BHXH các huyện trước khi ra thông báo chuẩn y quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới. 59 2.2.1.2. Kết quả chi trả các chế độ BHXH trên địa bàn thành phố Uông Bí giai đoạn 2014 – 2018 a. Kết quả chi trả chế độ hưu trí Trong tổng số chi trả các chế độ BHXH thì chi trả cho chế độ hưu trí chiếm tỷ trọng lớn nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_giai_phap_hoan_thien_cong_tac_quan_ly_thu_chi_bao_h.pdf
Tài liệu liên quan