MỞ ĐẦU .1
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN.7
1.1. Lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại .7
1.2. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án
nhân dân cấp huyện.22
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN TẠI QUẢNG NAM .31
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án
ở Việt Nam hiện nay .31
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại của Tòa án nhân dân cấp
huyện tại Quảng Nam.55
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI QUẢNG NAM
.64
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại ở
Việt Nam hiện nay .64
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại của Tòa án nhân dân cấp huyện tại Quảng Nam .72
KẾT LUẬN .78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
85 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện tại Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự không chứng minh được thì ngày khởi kiện là ngày Tòa án
nhận được đơn khởi kiện do tổ chức dịch vụ bưu chính chuyển đến.
Trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực
tuyến thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn.
Trường hợp chuyển vụ án cho Tòa án khác theo quy định tại Điều 41 của Bộ
luật này thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn khởi kiện đến Tòa án đã thụ lý nhưng
không đúng thẩm quyền và được xác định theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này.
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”
Và tại “ Điều 191 Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện: Tòa án qua bộ phận
35
tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án
hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án
nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản
giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy
xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch
vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải
gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng
phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho
người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện,
Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ
ngày được phân công và có một trong các quyết định sau đây:
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục
rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại
khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;
Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người
khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
Việc Thẩm phán đưa ra quyết định khi xử lý đơn phải được ghi chép đầy đủ
tại sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của
Tòa án (nếu có) theo khoản 3 Điều này.
Sau khi hồ sơ khởi kiện được chấp nhận thì Tòa án sẽ tiến hành thủ tục thụ lý
vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện
để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này;
Mặc khác, chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo
36
cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
Trả lại đơn khởi kiện khi người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc
không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc chưa có đủ điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật.
Trường hợp tiến hành thụ lý vụ án, tòa án ra thông báo người khởi kiện đồng
thời thông báo nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật tại Điều 195
BLTTDS 2015.
Trong thời gian 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án thì
người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí đến cơ quan Thi
hành án; đồng thời nhận biên lai và nộp lại cho Tòa án thụ lý. Kể từ ngày người
khởi kiện nộp biên lai nộp tạm ứng án phí cho Tòa án, Tòa án vào sổ thụ lý. Trường
hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm
phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Tòa án sẽ có trách nhiệm ra Thông báo về việc thụ lý vụ án đúng thời hạn và gửi
đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp,các đương sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng (nếu có). Nội dung
thông báo thụ lý của Tòa án được thực hiện theo đúng nội dung theo quy định tại
khoản 2 Điều 196 BLTTDS 2015.
Nhìn chung ở giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án thì hầu hết các Tòa án trên
cả nước chắc chắn phải áp dụng theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, từ
phân tích nêu trên vẫn có những bất cập kèm theo sự thiếu hiểu biết của các chủ thể
trong quan hệ kinh tế làm cho những bước đầu trong giải quyết tranh chấp Hợp
đồng thương mại còn khó khăn.
2.1.2. Đối với giai đoạn hòa giải và chuẩn bị xét xử
Đây là thời điểm quan trọng để Tòa án có thể lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu
thập chứng cứ, hòa giải vụ án và sau đó xem xét để đưa vụ án ra xét xử. Giai đoạn
này được tính từ ngày thời gian thụ lý vụ án đến ngày Tòa án ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử được quy định tại Điều 203 BLTTDS 2015. Đặc biệt, thời hạn xét xử
đối với các vụ án tranh chấp thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại là 02 tháng. Với
37
các vụ án phức tạp, cần phải có thời gian để kiểm tra, xem xét lại do các trở ngại
khách quan thì chánh án Tòa án có thể gia hạn chuẩn bị xét xử không quá 01 tháng.
Việc quy định về thời hạn như vậy nhằm đảm bảo giải quyết vụ án kịp thời, đảm
bảo được quyền lợi của người khởi kiện khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên trong thực tế, tại Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án tranh
chấp Hợp đồng thương mại cần khoảng thời gian tương đương khi giải quyết các vụ
án tranh chấp dân sự thông thường là 04 tháng, thậm chí vụ án có thể kéo dài hơn
nữa trong trường hợp vụ án đó phức tạp. Như vậy, thời hạn theo quy định của
BLTTDS chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết vụ án tranh chấp Hợp đồng thương
mại.
Trong giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử thì việc quy định phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là vừa bảo đảm
thực hiện một trong những yêu cầu quan trọng của nguyên tắc “tranh tụng” là mọi
tài liệu chứng cứ phải được công khai và bảo đảm nguyên tắc “Hòa giải trong tố
tụng dân sự”. Tuy nhiên, nhằm tránh phát sinh thêm những thủ tục không cần thiết
cho nên BLTTDS kết hợp hai nội dung kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải vào cùng một phiên họp. Trên thực tế, việc này được áp dụng
ở hầu hết các Tòa án khắp cả nước, nhằm rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án,
đảm bảo quyền lợi cho các đương sự khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
Trình tự phiên họp này có 02 phần: phần thứ nhất là kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ; phần thứ hai là tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, luật tố
tụng không đưa phần này vào giai đoạn hòa giải và chuẩn bị xét xử mà lại để vào
phần chung trong BLTTDS 2015. Trên thực tế, không chỉ căn cứ vào các tài liệu,
chứng cứ mà các đương sự cung cấp mà Tòa án có thể xác minh lại các chứng cứ
đương sự cung cấp và thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ khác chủ yếu tại giai
đoạn này, mặc dù pháp luật có quy định rất rõ về việc thu thập chứng cứ và cung
cấp chứng cứ của đương sự nhưng khó có thể căn cứ toàn bộ vào đó.
Nhưng đây cũng là quy định quá “cứng nhắc” hay không nếu như đối với vụ
án phức tạp, việc xét thấy Tòa án không nhiệt tình trong việc xác minh lại chứng cứ,
38
đồng thời thu thập thêm các chứng cứ mới thì sẽ đảm bảo và đưa ra một phán quyết
chính xác hơn.
Trước giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử thì bước hòa giải luôn đóng vai
trò chủ đạo, là tiền đề để giải quyết tranh chấp vụ án Hợp đồng thương mại một
cách dễ dàng hơn. Tại đây, Tòa án có trách nhiệm tổ chức các buổi hòa giải giữa
các bên trong quan hệ tranh chấp này. Việc tổ chức các buổi hòa giải này nhằm giúp
các đương sự có cơ hội tự hòa giải với nhau về nội dung mà các bên tranh chấp, tiết
kiệm thời gian, công sức của các đương sự. Theo đó, tại Điều 10 BLTTDS 2015 có
quy định về Hòa giải trong tố tụng dân sự: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa
giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.” Tuy nhiên, có một số trường
hợp thì không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được thì Tòa án sẽ
không cần thông qua bước hòa giải mà phải ra quyết định xét xử. Trong tranh chấp
hợp đồng thương mại, các vụ án sau không tiến hành hòa giải được, như sau:
- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
- Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
- Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải.
Quá trình tiến hành hòa giải là do bên thứ ba đứng ra phân giải để thấy được
mức độ tranh chấp giữa các bên, ở đây đòi hỏi Thẩm phán giải quyết vụ án đó phải
nỗ lực và phải có kỹ năng tháo gỡ những vướng mắc trong mâu thuẫn này. Hiện
nay, thông thường tại các Tòa án cấp sơ thẩm buổi hòa giải đầu tiên các đương sự
không thỏa thuận được với nhau thì Tòa sẽ tiếp tục tạo điều kiện tổ chức thêm hai
hoặc ba buổi hòa giải cho các vụ án tranh chấp đến khi cảm thấy việc hòa giải
không mang lại kết quá khả quan thì sẽ đưa vụ án ra xét xử công khai. Việc hòa giải
hầu như tất cả các Tòa án tại Việt Nam đều tạo điều kiện tổ chức nhằm giữ tình
đoàn kết, gắn bó giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế. Mặc khác khi hòa giải
luôn tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với
ý chí của mình theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS 2015.
39
Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án lập Biên bản công nhận sự thỏa
thuận giữa các bên. Sau thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản hòa giải thành mà
các đương sự không thay đổi ý kiến của mình về sự thỏa thuận thì Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án đó sẽ Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các
đương sự (Điều 212 BLTTDS 2015).
Trường hợp hòa giải không thành hoặc không hòa giải được, Tòa án lập
Biên bản hòa giải không thành không hòa giải, đồng thời ra Quyết định đưa vụ án ra
xét xử.
Ngoài ra, một số trường hợp vì lý do khách quan Tòa án có thể ra quyết định
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều
214 BLTTDS 2015 như sau:
“1. Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một
trong các căn cứ sau đây:
a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia,
tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
b) Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên
mà chưa xác định được người đại diện theo pháp luật;
c) Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được
pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết
được vụ án;
đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc
đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải
quyết được vụ án;
e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc
giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của
cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có
40
thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;
g) Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản;
h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tòa án quyết định tạm ngừng việc giải
quyết vụ án dân sự đã thụ lý trong một thời hạn khi có những căn cứ do pháp luật
quy định. Khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì Tòa án lại tiếp tục giải
quyết vụ án dân sự đó.
Cũng tại Điều 214 BLTTDS 2015 cũng đã quy định thời hạn Tòa án phải gửi
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp rút ngắn hơn, còn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quy định này là nhằm bảo
đảm tốt hơn quyền kháng cáo của đương sự và quyền kháng nghị của Viện kiểm sát
đối với quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế
về thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi xuất hiện căn cứ
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự dẫn đến hậu quả khi áp dụng trong thực tiễn,
một số Tòa án chậm ra quyết định, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Vì vậy, việc hướng dẫn thi hành BLTTDS 2015 cần thiết phải quy
định rõ thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi xuất hiện
căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Ngoài ra, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự
khi các đương sự đã chấp nhận sự thỏa thuận và đồng ý giải quyết việc tranh chấp
trước khi mở phiên Tòa hoặc khi Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án vì lý do khách quan gây cản trở thì Tòa án có thể ban hành quyết định Đình chỉ
giải quyết vụ án trong các trường hợp được quy định tại Điều 217 BLTDS 2015:
1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:
a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ
không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá
41
nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng
mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;
d) Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan
đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
đ) Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí
tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu
cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra
bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết;
g) Các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này mà Tòa án
đã thụ lý;
h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc đã được triệu
tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không đề nghị
xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì giải quyết như sau:
a) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;
b) Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra
quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn trở
thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn;
c) Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình
42
chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị
đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị
khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
3. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó
trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự
nếu có yêu cầu; trong trường hợp này, Tòa án phải sao chụp và lưu lại để làm cơ sở
giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Khi vụ án xác định bị Đình chỉ thì Tòa án phải có nghĩa vụ gửi quyết định
đình chỉ đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát
cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
4. Đối với vụ án được xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm sau khi có quyết định
giám đốc thẩm, tái thẩm mà Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án thì
Tòa án đồng thời phải giải quyết hậu quả của việc thi hành án, các vấn đề khác có
liên quan (nếu có); trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc đình chỉ giải quyết vụ án phải có sự
đồng ý của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Việc đình chỉ giải quyết vụ án không phải Tòa án đã giải quyết vụ án một
cách triệt để mà các đương sự có thể khởi kiện lại vụ án để giải quyết tranh chấp đó.
Tuy nhiên, BLTTDS 2015 có quy định về giới hạn các trường hợp được phép khởi
kiện lại tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 216 BLTTDS về Quyết định giải quyết vụ án
dân sự: “Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày
ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án
kể từ khi ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự”. Việc quy định như
trên đã không nêu cụ thể về thời hạn được phép tạm đình chỉ là bao lâu. Đây là
khuyết điểm của BLTTDS 2015 và là khe hở cho Tòa án những khi muốn trì hoãn
việc giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp Hợp đồng thương mại nói
riêng.
43
2.1.3. Đối với giai đoạn đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm
Khi các đương sự không thay đổi ý kiến cũng như không thể thỏa thuận được
với nhau đối với vụ án tranh chấp đó thì Thẩm phán – người trực tiếp thụ lý, giải
quyết vụ án sẽ ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai tại Tòa án. Quyết định
đưa vụ án ra xét xử được quy định về nội dung theo Điều 220 BLTTDS 2015.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì
Tòa án phải giao quyết định này cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Tòa
án phải gửi hồ sơ vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát đối với
vụ án được quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật này trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày nhận được hồ sơ, mặt khác Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho
Tòa án. Sau thời hạn 01 tháng kể từ ngày ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì Tòa án phải mở phiên Tòa xét xử công khai vụ án.
Phiên tòa xét xử sơ thẩm được thực hiện đúng thời gian, địa điểm như nội
dung tại quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc tại giấy báo mở phiên tòa trong trường
hợp hoãn phiên tòa. Tại phiên Tòa, việc có mặt hay vắng mặt của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cần được Thư ký kiểm tra và Hội đồng
xét xử được nắm rõ trước khi phiên Tòa xét xử bắt đầu.
Theo quy định của pháp luật tại Điều 227 BLTTDS 2015 về việc Tòa án
triệu tập nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên
tòa lần thứ nhất, nếu một trong các bên vắng mặt thì Hội đồng xét xử sẽ hoãn phiên
Tòa, trừ trường hợp có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời Tòa án phải thông báo
cho các đương sự biết về việc hoãn phiên tòa xét xử này. Hội đồng xét xử quyết
định hoãn phiên tòa trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56, khoản 2
Điều 62, khoản 2 Điều 84, Điều 227, khoản 2 Điều 229, khoản 2 Điều 230, khoản 2
Điều 231 và Điều 241 của Bộ luật này. Thời hạn hoãn phiên tòa là không quá 01
tháng, đối với phiên tòa xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn là không quá 15 ngày, kể
từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Trường hợp sau khi hoãn phiên tòa mà Tòa án
không thể mở lại phiên tòa đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa ghi trong
quyết định hoãn phiên tòa thì Tòa án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng
44
cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa. Tuy
nhiên, đến khi được Tòa án triệu tập lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì được coi là từ
bỏ việc khởi kiện đối với nguyên đơn. Đối với bị đơn không có yêu cầu phản tố,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập thì tòa án vẫn xét
xử vắng mặt. Việc vắng mặt đối với lần triệu tập thứ hai của các đương sự thì các
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập
của nguyền có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nếu có sẽ bị đình chỉ đối với những yêu
cầu đó. Và Tòa án vẫn xét xử trong trường hợp các đương sự vắng mặt theo quy
định tại Điều 228 BLTTDS 2015 và tòa án phải thực hiện đúng các thủ tục xét xử
như Điều 238 Bộ luật này.
Trong trường hợp tại phiên tòa xét xử các đương sự trong vụ án tranh chấp
có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì tòa án vẫn có thể chấp thuận
và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự tại phiên tòa. Khi tòa
án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận hoặc quyết định đình chỉ vụ án tại phiên
tòa thì bản chất của nó như một bản án nhưng khi thực hiện và giải quyết hậu quả
thì vẫn như một quyết định công nhận thỏa thuận hoặc quyết định đình chỉ thông
thường. Tuy nhiên, khi quyết định này có hiệu lực thì các thủ tục cấp, tống đạt sẽ
được thực hiện như một bản án. Chính vì vậy, các thủ tục tố tụng sẽ lâu hơn khi ra
quyết định đình chỉ hoặc quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự
trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong đó, đối với quyết định công nhận
sự thỏa thuận giữa các đương sự tại phiên tòa thì các bên có quyền kháng cáo và
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị nhưng theo thủ tục giám đốc thẩm. Còn đối với
quyết định đình chỉ thì các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp tại phiên tòa xét xử sơ thẩm này nếu các đương sự không thể
thỏa thuận được với nhau hoặc không có gì thay đổi thì tòa án sẽ tiến hành giải
quyết dựa trên các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự đã cung cấp cũng như các tài
liệu mà tòa án tìm hiểu, xác minh được. Ngoài ra, trong quá trình xét xử tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử thông qua các phần hỏi, tranh luận, đối đáp từ đó đưa ra các
45
nhận định, đánh giá của Hội đồng xét xử để đưa ra phán xét đúng đắn nhất cho các
đương sự trong vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại phù hợp với quy định của
pháp luật. Kết quả giải quyết một vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại nói riêng
sẽ được dựa trên việc biểu quyết của Hội đồng xét xử trong phần Nghị án và thể
hiện trong nội dung của bản án, đảm bảo về mặt nội dung lẫn hình thức tại Điều 266
BLTTDS 2015. Bản án này có hiệu lực ngay khi tuyên án và phải được cấp trích
lục, giao, gửi bản án đúng thời gian và đầy đủ theo quy định Điều 269 BLTTDS
2015.
2.1.4. Kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát
Theo quy định tại Điều 271 BLTTDS 2015 về quyền kháng cáo thì: “Đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.” Ngoài ra, tại Điều 272, 273
Bộ luật này cũng hướng dẫn rất rõ về nội dung, thủ tục kháng cáo như: Đơn kháng
cáo, thời hạn kháng cáo và việc kiểm tra đơn kháng cáo là do Tòa án cấp sơ thẩm
kiểm tra về tính hợp lệ của việc kháng cáo này. Đặc biệt, hiện nay trong tố tụng dân
sự có quy định về kháng cáo quá hạn và xem xét việc kháng cáo quá hạn thì Tòa án
cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do
kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.
Tại Điều 277 BLTTDS 2015 thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay
bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo
biết về việc kháng cáo kèm theo bản sao đơn kháng cáo, tài liệu, chứng cứ bổ sung
mà người kháng cáo gửi kèm đơn kháng cáo.
Đối với Viện kiểm sát có quyền kháng nghị được quy định tại Điều 278
BLTTDS 2015: “Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.”
46
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại thì Viện kiểm sát tham gia khi
vụ án có liên quan đến tranh chấp về tài sản công hoặc lợi ích công cộng hoặc có
đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này. Mặt khác, Viên
kiểm sát tham gia trong các vụ án tranh chấp hợp đồng thương mại do cấp trên xử
hủy án và yêu cầu tòa án cấp sở thẩm thụ lý và giải quyết lại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_thuong_mai_tu_thuc_t.pdf