Gió mát trăng thanh, câu thơchén rượu, hương thơm trà đượm, vừa là tài, vừa là sắc,
cảnh đẹp, tình say, Thúc Sinh đã mê mệt Kiều lúc nào chẳng biết. Tú Bà thì chỉbiết có tiền
nên thấy Kiều có thể đem vềcho mụrất nhiều tiền từtúi Thúc Sinh nên càng ra sức trau
chuốt cho Kiều. Nàng hầu rượu, gảy đàn, ca múa,. cho Sinh cũng nhưnàng phục vụcho bao
nhiêu người đàn ông khác. Bởi đó là nghềnghiệp của nàng. Vềphần Sinh, trước chỉlà thỏa
thói trăng hoa, nhưng đã bịcái sắc và tài năng của Kiều làm cho say đắm. Sinh đã thề ước đá
vàng cùng Kiều.
104 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2734 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Người đọc tưởng rằng cô Kiều
mà mình thương yêu đã có thể nương náu đời mình, đã tìm được hạnh phúc, bình yên bên Từ
Hải, thế mà Nguyễn Du lại khéo đặt ra những tình huống trớ trêu. Vì ông biết rằng, xã hội
đảo điên ấy làm sao có thể để cho những người như Kiều có hạnh phúc. Vì mắc mưu Hồ Tôn
Hiến mà Kiều đã hại chết Từ Hải. Mất Từ Hải, Kiều như mất đi nguồn sống duy nhất của
mình ở đời này. Nàng đã bị mang tiếng là giết chồng. Điều này xuất phát từ tâm hồn rất thiện
của Kiều, cùng với tâm lý nơm nớp lo sợ, niềm tin lung lay vào một hạnh phúc không vững
chãi. Tâm lý này của Kiều là sản phẩm mà xã hội đã tạo ra. Kiều là một minh chứng cho
những nạn nhân chịu đựng sự áp bức của xã hội một cách thường xuyên, dai dẳng. Mất
chồng, nhưng nàng thì còn đó với trọn vẹn sắc đẹp và tài năng nên nàng lại rơi vào hoàn
cảnh bi đát. Còn nỗi nhục nhã nào cho bằng phải hầu rượu kẻ đã giết chồng mình. Cuối
cùng, nàng đành phải chọn con đường tự giải thoát bằng cách nhảy xuống sông Tiền Đường.
Đây là cách duy nhất nàng có thể làm vào lúc này. Đó cũng chính là cách chống đối yếu ớt
và bất lực của một con người sống triền miên trong đau khổ. Có đi dọc cuộc đời Kiều như
lúc này mới hiểu được vì sao Nguyễn Du lại yêu Kiều đến như vậy. Một con người phải chịu
sóng gió cuộc đời ngay từ khi còn là một thiếu nữ, làm một nghề hèn mạt, bị bao nhiêu kẻ
bất lương lừa bịp, gián tiếp hại chết chồng, cuối cùng tìm đến cái chết. Nhưng đâu đơn giản
như Kiều nghĩ là tìm đến cái chết để xóa sạch tất cả. Nàng được cứu sống, kết thúc mười lăm
năm đoạn trường là màn đoàn viên cũng chất chứa bi kịch không kém những năm sóng gió
trước kia. Buộc lòng phải từ chối tình cảm của người mình hết lòng yêu thương, nàng tan nát
cõi lòng. Tác giả không để mối tình này có một kết thúc vẹn toàn khi họ đoàn viên. Làm sao
Kiều đoạn tình với Kim Trọng một cách dễ dàng như thế? Cái hạnh phúc tưởng như đã nằm
trong tầm tay, bỗng nhiên Kiều lại lên tiếng từ chối. Chuỗi bi kịch của cuộc đời Kiều vẫn cứ
đeo đuổi nàng. Kiều đành phải " Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ". Hơn ai hết, Kim Trọng
thấu hiểu nỗi lòng của Kiều và nói:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
(Truyện Kiều)
Nghe những lời đó, Kiều xúc động thực sự. Nàng vội vã đứng lên, "sửa áo, cài trâm":
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
và nói lên sự biết ơn chân thành, nói lên cái nguyên nhân của lòng kính phục:
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
(Truyện Kiều)
Đau đớn biết bao khi trước đây là tình yêu nồng thắm, tươi đẹp mà giờ đây phải "khấu đầu
lạy tạ". Người mình yêu đứng đây, rất gần, hạnh phúc đã đến rất gần, chỉ cần Kiều với tay.
Vậy mà… Lý do nàng buộc phải từ chối niềm hạnh phúc đó là vì vết nhơ của những năm
tháng "mưa Sở mây Tần" trong lầu xanh làm sao có thể gột rửa? Làm sao nàng có thể đến
với Kim Trọng khi "con ong đã tỏ đường đi lối về". Kỹ nữ Thúy Kiều không chỉ đau đớn khi
chịu cảnh nhục nhã trong kỹ viện mà nỗi đau ấy còn hiển hiện khi tưởng như chỉ cần một cái
gật đầu, cuộc đời nàng từ đây sẽ viên mãn. Nỗi đau về những năm tháng làm kỹ nữ thật là
nặng nề và khó lòng có thể quên đi một cách dễ dàng. Mà Kiều có tạo ra nỗi đau này cho
mình, tất cả là do "tài tình chi lắm cho trời đất ghen".
Luận văn đề cập đến số phận của Thúy Kiều với một dung lượng khá nhiều chỉ để làm
rõ một điều: không phải tất cả những người làm nghề kỹ nữ đều đáng bị lên án như định kiến
của số đông người. Kiều là một người vừa đẹp, vừa có tài thực sự, có một tâm hồn rất trong
lành, một nhân phẩm cao quý. Rõ ràng những tủi hổ mà nàng phải chịu đựng không phải do
nàng tạo ra. Là một người có tài và có tâm hồn như vậy, đáng ra phải được trọng dụng,
nhưng vào thời đó thì tình hình hoàn toàn trái ngược.
Buồn thay, những nhân vật khác của Nguyễn Du mang tên gọi là những ca kỹ cũng có
thân phận cũng không sáng sủa so với Kiều.
Cuộc đời người ca nữ trong bài " Điếu La Thành ca giả" chẳng khác Đạm Tiên, Thúy
Kiều là bao, cũng chỉ là một cuộc đời vô nghĩa. Xinh đẹp, nổi tiếng, nàng được yêu quý,
được ngợi khen. Tất cả những điều đó không còn tồn tại nữa khi nàng chết đi:
Cõi thế ai thương người bạc mệnh
Dưới mồ riêng hối kiếp phù sinh
( Điếu La Thành ca giả)
Chẳng ai trên thế gian này có thể đồng cảm được với nàng. Cuộc đời kỹ nữ là cuộc đời
mua vui cho người khác. Người vui, còn ta thì ê chề, đau đớn. Bi kịch đáng sợ nhất của con
người là không tìm được người tri âm, đồng cảm. Hàng ngày, những kỹ nữ gặp gỡ và tiếp
xúc với bao nhiêu con người, đem đến niềm vui cho bao người, còn riêng họ, thông thường
là phải sống một cuộc đời cô đơn. Những người khách có thể quay lưng với những kỹ nữ khi
họ tìm được một niềm vui khác. Vì suy cho cùng, kỹ nữ cũng chỉ là một trò để giải trí mà
thôi, theo cái nhìn bình thường của xã hội. Người đời đã từng nói:"xướng ca vô loài". Ấy vậy
nên họ chẳng cần bận tâm tới một kỹ nữ để làm gì. Kỹ nữ khi còn sống thì đều là những
người nổi tiếng. Người kỹ nữ trong bài thơ trên có lẽ cũng nổi danh không kém Đạm Tiên,
Thúy Kiều. Nhưng đã khoác chiếc áo kỹ nữ thì đừng mong người đời thấu hiểu, có chăng chỉ
là những lời dè bỉu, chê bai. Người ca nữ đất La Thành chỉ có nỗi cô đơn làm bầu bạn. "Kiếp
phù sinh", một kiếp sống trôi nổi, vô định. Nếu có quyền được chọn lựa cho cuộc sống cho
mình, có lẽ nàng chẳng bao giờ lại chọn con đường trôi nổi, bấp bênh này. Cũng giống như
bao người, nàng cũng muốn có được một hạnh phúc đơn sơ, một con đường êm ả. Nhưng
nàng không có quyền chọn lựa. Xã hội đâu dễ gì chấp nhận một người phụ nữ tài giỏi và
xinh đẹp như vậy. Sống, nhưng lại sống trong "kiếp phù sinh", cũng có thể coi như chưa hề
được sống
Phấn son lúc sống chưa rồi nợ
Trăng gió đời sau luống để danh
Y hẳn trần gian không kẻ biết
Suối vàng đành bạn với Kỳ Khanh.
(Điếu La Thành ca giả)
Cõi trần thế không ai bầu bạn nên đành xuống suối vàng làm bạn với Kỳ Khanh. Hóa
ra, người duy nhất có thể bầu bạn với nàng là một người ở cõi âm. Còn gì đau đớn bằng khi
chết đi rồi, xuống cõi âm mới có người để chia sẻ. Mà đâu phải khi sống ở dương thế nàng
luôn khép kín, không giao tiếp với ai, ngược lại còn rất nhiều. Nhưng nàng đâu biết rằng, khi
nàng chết đi, một con người đã tỏ sự thương cảm với nàng, ca ngợi, đồng cảm với số kiếp
của nàng, đó là Nguyễn Du. Xuất phát từ trái tim đa cảm, đầy yêu thương, nhà văn này luôn
hướng đến những giá trị nhân văn, luôn đồng cảm với những người bất hạnh. Nghe được
những lời này của Nguyễn Du, có lẽ nàng sẽ nguôi ngoai.
Người gảy đàn cầm đất Long Thành ( Long Thành cầm giả ca) là một ca nữ trong
cung vua dưới triều Lê. Triều đại phong kiến rối ren, loạn lạc, nhà Tây Sơn dấy cờ khởi
nghĩa, chiến tranh li biến. Đội ca nữ đó người chết, kẻ bỏ đi. Nàng phải ôm đàn lưu lạc nơi
đầu chợ cuối phố mua vui cho người để sống. Rồi nàng được tuyển vào đội ca nữ dưới triều
Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn bại vong, nàng lại lưu lạc làm ca nữ trong thành hầu vui cho các
quan lại triều Nguyễn. Cuộc đời nàng bị đưa đẩy hết nơi này đến nơi khác, triều đại này đến
triều đại khác. Kết cục cuộc đời nàng thảm hại trong thân xác phai phấn nhạt hương. Chỉ còn
tiếng đàn, cái tiếng đàn một thời như hiện thân, chứng nhân cho cuộc đời nàng. Quy luật của
lịch sử, sự hoán đổi các vương triều thì con thuyền của các ca nữ lại càng lênh đênh và dập
dềnh trên sóng nước.
Người đẹp đất Long Thành
Họ tên không nhớ rõ
Riêng giỏi đàn cầm Nguyễn
Nên mọi người trong thành gọi nàng là cô Cầm
( Long Thành cầm giả ca)
Nàng được người ta gọi bằng cái tên là cô Cầm là vì nàng là ca nữ, cây đàn là vật bất
li thân, chứ họ tên của nàng là gì thì không ai rõ. Một khi đã gắn với nghiệp ca nữ thì nàng
đành chấp nhận những điều xót xa. Thời gian rồi sẽ trôi qua dù con người có muốn điều đó
hay không. Thời gian trôi đi thì tuổi trẻ cũng qua đi. Quy luật của thời gian rất từ từ nhẹ
nhàng nhưng không kém phần nghiệt ngã, nhất là đối với những ca nữ. Nghiệt ngã ở chỗ thời
gian sẽ lấy đi tuổi trẻ và nhan sắc của họ. Cô Cầm ở đây cũng vậy, thời gian cứ chầm chậm
trôi qua, và cứ thế, nó lấy đi những gì là đẹp nhất của nàng, để đến lúc chợt nàng nhìn lại sau
hai mươi năm:
Riêng ở cuối chiếu có người tóc hoa râm
Mặt gầy, thần sắc võ vàng, người nhỏ nhắn
Lông mày xác xơ không điểm tô
Ai biết đó lại là người tuyệt diệu nhất kinh thành thời xưa
( Long Thành cầm giả ca)
Nàng đã đi qua tuổi trẻ, đi qua thời vàng son, đi qua thời xuân sắc nhất của đời người.
Dửng dưng và cô độc. Đến cái chốn nương thân nàng cũng không có, không người thân,
không gia đình, không người bầu bạn. Con người ngồi đó với một thân hình tiều tụy, không
buồn điểm tô ấy chính là người đã từng được ca ngợi là "người tuyệt diệu nhất kinh thành
xưa". Nàng chẳng còn gì ngoài tiếng đàn nức lòng người. Tiếng đàn đó cũng có thể được
xem như một người bạn , vì giờ đây, tiếng đàn là thứ duy nhất nàng có thể gửi gắm tâm sự.
Đi hết cuộc đời để rồi trở về với con số không, trở về với thân xác võ vàng và mái tóc
hoa râm. Sau hai mươi năm, đến giờ gặp lại, nhìn người đẹp ngày xưa giờ tiều tụy, xác xơ,
Nguyễn Du xót xa cho thân phận ấy. Ông thương cho cuộc đời nàng, thương cho kiếp hồng
nhan mà phải chịu bao sóng gió, lênh đênh để rồi cuối đời là một con số không. Nghĩ từ
mình để nghĩ cho người nhiều hơn:
Trăm năm thấm thoắt được mấy nỗi
Buồn cho chuyện cũ, áo đẫm lệ rơi
Ta từ Nam ra đầu bạc cả rồi
Trách chi người đẹp nhan sắc cũng tàn phai
( Long Thành cầm giả ca)
"Trăm năm", con số tượng trưng cho một đời người, chẳng mấy chốc mà qua. Dẫu biết
quy luật cuộc sống là phải chấp nhận khi "cái tuổi đuổi cái xuân", thế nhưng thay đổi như cô
Cầm ở đây thì thật thảm hại. Hình ảnh của nàng ở hai thời điểm: ngày xưa và bây giờ sao
quá khác nhau. Nguyễn Du xót thương cho nàng và cho những kiếp kỹ nữ khác cũng đồng
thân phận. Tuổi trẻ xinh đẹp đã trôi qua trong cảnh mua vui cho người. Khi tuổi trẻ đi qua,
sắc đẹp không còn thì chẳng ai đoái hoài. Đánh mất tuổi xuân, đánh mất những ngày tháng
tười đẹp nhất, để rồi khi về chiều chẳng còn lại gì. Có chăng chỉ còn sự tiều tụy, và một nỗi
cô đơn đáng sợ suốt phần đời còn lại. họ trở thành nạn nhân đáng thương của cuộc đời và
thời gian lạnh lùng.
Cũng nằm trong chùm thơ viết về số phận các ca nữ, Ngộ gia đệ cựu ca cơ vẫn có
những nét tương đồng nhưng lại có những nét riêng.
Nhân vật đất phồn hoa, sau cơn loạn lạc, đều đổi khác,
Chim hạc đen bay về chốn cũ, mấy ai biết
Xưa áo hồng phất phới, từng được nghe lời ca uyển chuyển
Nay ta đầu bạc, gặp nhau, khóc vì cảnh lưu ly
Chậu nghiêng nước đổ, thế là xong, khó lòng vét lại cho đầy
Buồn thay thơ còn vấn vương ngó sen gãy
Nghe nói lấy chồng đã có ba mặt con
Nhưng vẫn mặc áo thời trước, đáng thương thay!
( Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Hình ảnh người ca nữ ngày xưa duyên dáng trong màu áo hồng xinh tươi là thế, vậy
mà nay tàn tạ rách nát. Sau cơn loạn lạc, tất cả đều đổi thay, sắc đẹp của người phụ nữ cũng
tàn phai theo. Có sự đối lập rất rõ rệt giữa ngày xưa và hiện tại. Ngày xưa thì "áo hồng phất
phới", "lời ca uyển chuyển" còn nay thì "lấy chồng đã có ba mặt con – Nhưng vẫn mặc áo
thời trước". Đau lòng sao khi "khó lòng vét lại cho đầy" thời xuân sắc thuở trước. Tuổi xuân
qua thì cái sắc cũng không còn. Người ca nữ ở đây còn phải chịu một cuộc sống cơ cực. Sau
bao năm gặp lại, nhà thơ vẫn thấy nàng mặc chiếc áo cũ ngày xưa, đã tả tơi. Thật cám cảnh
cho số phận của một người đẹp. Chắc hẳn gia cảnh phải rất khó khăn, nàng phải bươn chải
với cuộc sống, phải lo lắng cho các con, cho gia đình đến nỗi không còn thời gian nào cho
mình. Người con gái trẻ trung, xinh đẹp ngày xưa giờ xơ xác, tiêu điều. Cuộc sống quả
không hề dễ dàng đối với nàng. Theo thời gian, mọi thứ rồi cũng phải thay đổi. Với những
con người có một thứ vũ khí lợi hại là sắc đẹp thì quả thời gian là kẻ thù không đội trời
chung. Chậu nước nghiêng đổ thì không thể vét lại cho đầy. Biết là thế, biết đó là quy luật
của tạo hóa nhưng sao nhà thơ vẫn thấy nó quá khắc nghiệt. Tấm lòng của ông lúc nào cũng
hướng về con người, luôn vì con người. Ông mong muốn con người, đặc biệt là những người
bị tạo hóa ngược đãi sẽ tìm được hạnh phúc cho mình. Thế mà những gì ông chứng kiến lại
hoàn toàn ngược lại, nó xót xa và tàn tạ hơn nhiều. Nếu được chọn lựa, chắc hẳn nàng không
bao giờ muốn chọn cho mình cuộc sống điêu đứng như thế. Mong muốn có một cuộc sống
bình yên, hạnh phúc sao lại khó với những người đẹp như vậy? Mong muốn thì có thể sẽ đạt
được hoặc không. Nhưng khốn thay trong xã hội nàng đang sống, cái điều mong muốn ấy
không hề khả thi. Tất cả rồi sẽ phải tuân theo dòng đời nghiệt ngã đã được ấn định sẵn.
Có thể nói Nguyễn Du là người có sự đồng cảm với những kiếp người hồng nhan một
cách sâu sắc nhất. Thông qua một số tác phẩm của ông, chúng ta gần như đang xem một
cuốn phim quay chậm về cuộc đời các kỹ nữ. Xem hết cuốn phim, chúng ta cảm thấy thương
yêu một người con gái phải chịu quá nhiều bi kịch khi mới chỉ là một thiếu nữ. Chúng ta
cũng thấu hiểu hơn nỗi lòng của những ca nữ trong cung thông qua cuộc đời bấp bênh của
họ, xót xa cho những người xưa từng là người đẹp, đàn hay hát giỏi vì cuộc sống cơ cực đã
phải chịu cảnh tàn tạ, rách nát. Nhưng nếu hỏi vì sao họ phải cực khổ thì đôi khi chính họ
cũng không thể tìm ra câu trả lời. Họ chỉ biết ta thán rằng:" Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
nhau".
Thân phận của các cô đầu ở thế kỷ XIX cũng không tránh khỏi sự bi đát. Họ cũng bất
hạnh và chịu nhiều thiệt thòi như các kỹ nữ đã được đề cập ở trên. Về cơ bản, cô đầu, kỹ nữ,
ca nữ,... đều là những người dùng giọng hát, tiếng đàn của mình để biểu diễn nghệ thuật. Ấy
thế mà họ lại chịu rất nhiều bất công, mà trước hết là chịu sự khinh rẻ của người đời. Người
đời vẫn thường gọi họ là “xướng ca vô loài”. Trong lịch sử, những người theo nghiệp hát
cũng được đề cập đến với một sự coi thường. Năm 1462, vua Lê Thánh Tông quy định rằng:
“ Nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu, bản thân và
con cháu đều không được đi thi, nếu mang sách hay mượn người làm hộ, thì trị theo
luật.”[75, 42]. Phường chèo, con hát bị đánh đồng, đứng chung với đám phản nghịch, ngụy
quan. Họ bị vùi dập có lẽ chỉ vì: “Xã hội xưa quan niệm lũ xướng ca vô loài là một tầng lớp
vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ sa đọa, mà chỉ vì vai trò của họ đóng khi
xướng hát: họ bị coi là vô luân ở đây vì con có thể đóng một vai vua và người cha đóng vai
bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ
con hoặc cha con... Tất cả cái vô luân là ở đây. Ở đấy luân thường không còn nữa, mặc dầu
chỉ trong những lúc trình diễn.”[46, 43]. Mặc dù vậy, các ca quán, phường chèo vẫn nở rộ
và các tài tử văn nhân vẫn dập dìu đến để thưởng ngoạn tài năng của các đào nương. Đọc
những bài thơ của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê,... thì thấy các cô đầu rất
được trân trọng tài năng. Họ hoàn toàn không phải phường gió trăng, lang chạ, họ dành hết
tình cảm của mình cho khách phong lưu. Những cuộc vui, trận cười với người tri kỷ không
đi vào quên lãng mà trở thành những phút thăng hoa của tâm hồn để họ có thể sống trọn vẹn
với cái nghề bạc bẽo này. Cuộc vui nào cũng có lúc tàn, cảnh biệt ly nào cũng sẽ đến khi tiệc
vui đã vãn, chẳng ai muốn nghĩ tới nhưng nó vẫn cứ xảy ra. Cuộc đời của cô đầu không biết
phải chứng kiến biết bao nhiêu cuộc chia ly như thế. Họ thiết tha với khách, nhưng không thể
níu kéo. Khách về, chỉ còn lại cô đầu với sự trống trải và tiếc nuối. Nhiều bài thơ đã diễn tả
những cuộc chia ly ấy:
Kẻ về người ở
Bồi hồi thay lúc phân kỳ
Khéo quấy người hai chữ tình si
Lửa ly biệt bừng bừng không lúc nguội
Trót đa mang khúc hát tiếng đàn
Nên dan díu mối tình chưa dứt
Sá nghĩ xa xôi nghìn dặm đất
Tiếc công đeo đẳng mấy năm trời
Khi ra vào tiếng nói giọng cười
Một ngày cũng là tri kỷ
Sao nỡ để kẻ vui người tẻ
Gánh tương tư riêng nặng bề bề
Thương thay người ở đôi quê
Nẻo đi thì nhớ nẻo về thì thương
Tin sao cho vẹn trăm đường
( Cảnh biệt ly – Nguyễn Công Trứ)
Tài tử và giai nhân gặp nhau, một ngày cũng là nghĩa, điều đó cũng dễ hiểu vì hai tâm
hồn đồng điệu gặp nhau, thì dầu có ngắn ngũi nhưng cũng làm cho họ không quên. Nguyễn
Công Trứ đã nói thế này:
Ngao ngán nhẽ kẻ về người ở
Sao kẻ về người ở đôi nơi
Cất chén quỳnh hãy tạm làm vui
Dòng lệ chảy, vắn dài chua chát
Nào những lúc tiếng đàn chen tiếng hát
Nào những khi tiếng phách lẫn tiếng sênh
Bấy lâu nay dan díu biết bao tình
Mà con tạo lọc lừa chi lắm thế
Chẳng trăm năm cũng một ngày là nghĩa
Lúc phân kỳ ai nấy ngẩn ngơ
Để ai tháng đợi năm chờ
( Một ngày là nghĩa- Nguyễn Công Trứ)
Con tạo lọc lừa, xoay vần, cô đầu đành mang mệnh bạc, khó lòng cãi lại như thể đó là
số phận của họ đã được định sẵn từ muôn đời. Say sưa với sắc đẹp của cô đầu, chìm trong
tiếng đàn lời ca, tài tử văn nhân sáng tác rất nhiều để lưu lại cảm xúc này. Nguyễn Công Trứ
đã nói:
... Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím
Khách thập thúy say màu hoa diễm
Đối mặt hoa mà cầm mà kỳ
Khuyên ai đừng dở cuộc ly phi
Trân trọng lấy hương trời cho trọn vẹn
Hoa với khách như đà có hẹn
Ưa màu nào màu ấy là xinh
Trăm hoa cũng bẻ một cành!
( Yêu hoa – Nguyễn Công Trứ)
Trăm hoa đây là trăm cô đào hát, người nào cũng có sắc hương người đó. Tên hoa
cũng thường trùng tên người đẹp, một hoa một màu, mỗi người một sắc, khách chơi xuân say
màu hoa, lại đuợc dịp cùng hoa mà cầm mà kỳ mà tửu mà thi. Yêu hoa, Nguyễn Công Trứ
xin người xem hoa hay trân trọng giữ lấy hương trời vì có đưọc cuộc gặp gỡ cũng là nhờ:
Minh quân lương tướng tao phùng dị
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên
Trong nhất kiến tiên duyên như đã
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư Mã
Quân tử đa tình cánh khả lân
Nọ mấy người tài tử giai nhân
Duyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lại
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải
Đã tình duyên se lại cũng nên gần
(Duyên gặp gỡ - Nguyễn Công Trứ)
Nguyễn Khuyến lại có bài:
Giai nhân nan tái đắc
Mười ba năm một giấc bâng khuâng,
Động hơi thu chợt nhớ đến vầng trăng,
Chén non nước tưởng chừng đâu bữa nọ.
Quá nhãn quan âm quân dĩ ngộ
Thiếu thời phong độ ngã do liên.
Lại may mà gió mát đưa duyên
Mượn thơ thánh, đàn tiên khuây truyện cũ.
Đối tửu mạc đề ly biệt cú,
Chốn non Vu vân vũ hãy đi về,
Cánh hồng nào biết đông tê ?
( Duyên nợ – Nguyễn Khuyến)
Cô đầu hiện lên trong sự cảm mến, trân trọng của các nhà thơ. Các cô đầu là truyền
nhân thực thụ của ca trù Việt Nam, là tri kỷ của tài tử văn nhân, và họ cũng không thể tránh
được quy luật “hồng nhan bạc mệnh”.
Nhìn lại cuộc đời, thân phận của những kỹ nữ xuất hiện trong văn học, chúng ta đều
thấy một điểm chung, đó là sự bấp bênh về tương lai, nỗi cô đơn, lẻ loi khi tuổi về chiều. Cá
biệt, có những kỹ nữ mà cả cuộc đời là một chuỗi những bi kịch như Thúy Kiều. Tuy sống
một cuộc đời " ngày vui ngắn chẳng tày gang", mà miên man là một nỗi khốn khổ, ấy vậy
mà những con người hồng nhan này vẫn giữ trong mình những phẩm chất đáng quý và đáng
tự hào.
III. NÉT ĐẸP TÂM HỒN
1. Khát vọng về tình yêu và hạnh phúc
Tuy bị xã hội và người đời xem là hạng đàn bà lẳng lơ, trắc nết, nhưng ở một khía
cạnh nào đó, kỹ nữ là những con người dám sống vì tình yêu và sống hết mình với cuộc đời
mà tạo hóa ban tặng.
Hàn Than ( Chuyện nghiệp oan của Đào Thị - Nguyễn Dữ) được tuyển sung vào làm
cung nhân. Nhờ thông minh, ứng đối nhanh nhẹn mà được nhà vua yêu mến. Nhưng nàng
cũng bị thải ra phố khi vua băng hà. Bị bà vợ của quan Nhược Chân đánh ghen rất tàn nhẫn,
nàng phản ứng một cách gay gắt bằng cách thuê thích khách đến trả thù. Công lý, công bằng
xã hội không đứng về phía nàng nên nàng phải tự đứng lên, tự tìm lấy công lý cho mình.
Nàng dốc hết tiền bạc để thuâ thích khách trả thù kẻ đã đánh đập mình tàn nhẫn. Không chỉ
thế, nàng luôn tỏ ra bất mãn và hiếu chiến. Nàng muốn mình phải là kẻ mạnh, phải là người
chiến thắng. Là một danh kỹ, nàng có sắc đẹp và có tài. Thế nhưng, khi bị thải ra phố, thì cái
tài năng của nàng không thể biến nàng thành một kẻ mạnh được. Khi còn được vua yêu mến,
nàng là một ca kỹ nổi tiếng. Nhưng khi đã lang bạt nơi đường đời gió bụi, nàng chỉ là một
phụ nữ bình thường, thậm chí là tầm thường. Chỉ còn lại chăng là một chút sắc đẹp trời phú.
Thế là nàng đã dùng cái sắc ấy làm vũ khí cho mình. Khi vào chùa, nàng không ngại ngần
lấy sắc đẹp để quyến rũ sư Vô Kỷ. Nhà chùa vốn là nơi linh thiêng, ấy vậy mà: " Hàn Than
tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa từ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên, mặc áo lụa,
mang quần là, điểm môi son, tô má phấn"[33,64]. Rồi cả hai cùng nhau tư thông. Sau khi
chết, nàng vẫn chưa quên được mối tư thù " món nợ oan gia ngày trước", chưa trả thù được
nhà Nhược Chân, nàng vẫn chưa cam chịu. Nàng tha thiết: " Thiếp buổi trước ngàn dâu xế
bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương
nợ nghiệt, đài Dao mệnh đứt, đến nỗi chia bầy, sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết
xuống sẽ cùng nhau quấn quít. Mong chàng hiểu câu kệ lục như, bỏ cõi thiên tứ đại tạm rời
cảnh Phật, về chốn suối vàng, để thiếp được ngửa nhờ Phất lực, thác hóa đầu thai, để trả
cho xong một cái nợ oan gia ngày trước"[33,66]. Chẳng lâu sau thì Vô Kỷ cũng đi theo
nàng. Cả hai cùng đầu thai vào nhà quan Nhược Chân, đợi đến thời cơ để trả xong mối thù.
Không phản ứng một cách mạnh mẽ và quyết liệt bằng sự tính toán như Hàn Than,
nhưng Túy Tiêu ( Chuyện nàng Túy Tiêu – Nguyễn Dữ) cũng bằng mọi cách quyết giữ trọn
tình yêu của mình dành cho Dư Nhuận Chi, mặc cho Trụ quốc họ Thân cưỡng bức. Cuộc đấu
tranh của nàng với một tên quan bạo tàn cho thấy sức mạnh tinh thần của một cô gái, vốn
được xem là một thân phận mỏng manh trong xã hội lúc ấy. Sự quyết liệt của Túy Tiêu được
thể hiện ở sự cứng rắn, bản lĩnh khi không hề bị vật chất, danh vọng cám dỗ. Tấm lòng của
nàng luôn hướng về người mà nàng yêu. Kết cục của người ca nữ này là một kết thúc đẹp
cho một mối tình trong sáng và cao cả. Kết thúc truyện đẹp như cổ tích, Nhuận Chi đỗ đạt,
họ sống hạnh phúc bên nhau suốt quãng đời còn lại. Hạnh phúc mà họ có như một phần
thưởng cho tấm lòng chung thủy, quyết chống lại cái xấu để bảo vệ tình yêu cho đến cùng.
Tuy nhiên, con đường để có được hạnh phúc của Túy Tiêu không hề bằng phẳng và dễ dàng.
Người đọc yêu mến Túy Tiêu bởi tấm lòng trung trinh và tình yêu mãnh liệt. Nàng không bị
quyền lực, danh vọng và tiền bạc làm lóa mắt. Trước sau, nàng chỉ tin tưởng vào tình yêu
duy nhất của mình. Nàng vượt qua được tất cả những gian truân. Để chống lại tên Trụ Quốc
họ Thân, với một cô gái yếu ớt không phải là một điều dễ dàng. Tên quan Trụ Quốc này vừa
tàn ác, vừa nham hiểm thâm độc, vì hắn có "uy thế rất lớn, các tòa, các sở đều tránh kẻ
quyền hào, gác bút không dám xét xử"[33,27]. Vì hắn "làm quan đến ngôi thượng công,
quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng chuông
thóc"[33,27]. Quyền hành là thế nhưng dưới mắt của Túy Tiêu, hắn "chỉ là đồ yếu hèn mà
làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy chọt, lúc nào ở cửa cũng rộn rập những người ra vào,
vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy"[33,28]. Thế lực và giàu có không hề làm
lay động tình yêu của Túy Tiêu vốn đã dành hết cho Nhuận Chi, và nàng sẽ bảo vệ tình yêu
đó đến cùng. Đã có lúc nàng nghĩ đến cái chết để thoát khỏi sự giam cầm của tên quan bạo
ngược, để giữ được lòng mình. Nhưng chính tình yêu và niềm tin, chính khát khao được hội
ngộ người yêu, cùng được sống chung dười một mái nhà đã làm nàng cứng cỏi, tiếp thêm
sức mạnh để nàng vượt qua tất cả. Cuối cùng, nàng đã chạy thoát được, đã gặp lại người
mình yêu. Dù có sóng gió, tình yêu của họ vẫn luôn bền vững, vẫn ở nguyên đấy trong trái
tim rực lửa. Tuy xuất thân là một ca nữ, nhưng Túy Tiêu đã tìm được người đàn ông cho
cuộc đời của mình. Đây có lẽ là một kết thúc đẹp duy nhất trong rất nhiều cuộc đời những kỹ
nữ trong văn học trung đại Việt Nam. Tình yêu và sự đấu tranh vì tình yêu của nàng cuối
cùng đã được đền đáp. Sau bao gian truân, sóng gió, nàng đã trở về trọn vẹn với tình yêu và
hạnh phúc của mình. Niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, lòng chung thủy son sắt đã đem lại
hạnh phúc cho nàng.
Người ca nữ trong "Ngộ gia đệ cựu ca cơ" của Nguyễn Du thì luôn chăm sóc và lo
lắng cho gia đình khi cuộc sống còn rất nhiều khó khăn. Nàng phải mặc lại chiếc áo cũ từ
ngày xa xưa, đó là hình ảnh diễn tả sự khốn cùng trong cuộc sống của nàng. Đã có chồng và
ba con, trong buổi loạn lạc thì làm sao cuộc sống không cơ cực? Thế mà nàng vẫn một lòng
chăm lo cho gia đình, cho chồng con, không thấy một lời oán than. Với một ca nữ, vừa đẹp,
vừa hát hay thì nếu như không đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN045.pdf