MỤC LỤC
DẪN NHẬP .6
1. Lý do chọn đề tài .6
2. Lịch sử vấn đề.7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .10
3.1. Đối tượng . 10
3.2. Phạm vi . 10
4. Phương pháp nghiên cứu .11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.12
6. Cấu trúc của luận văn.12
CHƯƠNG 1. BIỂN TRONG ĐỜI SỐNG TÂM HỒN .13
VÀ TRONG THƠ CA NGƯỜI VIỆT.13
1.1. Biển trong đời sống người Việt .13
1.2. Biển trong văn học dân gian .15
1.3. Biển trong thơ ca.21
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH TƯỢNG BIỂN .30
TRONG TRƯỜNG CA THU BỒN, THANH THẢO, HỮU THỈNH.30
2.1. Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn .30
2.1.1. Biển trong kí ức, hành trang của những người con đất Việt trong cuộc chiến đấu giữ
nước của dân tộc . 32
2.1.2. Biển, đảo-một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam. 36
2.1.3. Biển đời đầy khó nhọc gian truân . 38
2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo.42
2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo. 42
2.2.2.Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người . 45
2.2.3.Biển- triết lý về sức mạnh của nhân dân . 47
2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh.53
2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính tiếp tục cống
hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. 53
2.3.2. Biển- một không gian sống và chiến đấu mới. 55
2.3.3. Ý chí người lính đảo. 58
101 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 609 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình tượng biển trong trường ca Thu bồn, Thanh thảo, Hữu Thỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên suốt của biển trong các sáng tác
của nhà thơ Thu Bồn. Đó chính là tấm lòng hướng biển của một người con đất Việt: tự
nhiên mà rất đỗi chân thành. Viết về biển, nhà thơ Thu Bồn đã dẫn lối cho bao trái tim
người Việt Nam tình yêu biển đảo, bảo vệ chủ quyền cho dân tộc hôm nay và mai sau.
2.2. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo
2.2.1. Duyên nợ với biển trong sáng tác của Thanh Thảo
Sinh ra ở Quảng Ngãi, mảnh đất biển nhưng đến năm 8 tuổi Thanh Thảo mới thực sự thấy
biển, biển Quy Nhơn, khi cùng mẹ xuống tàu Ba Lan tập kết ra Bắc. Trong tâm thức của
một cậu bé 8 tuổi, biển vô cùng đáng sợ. Cộng thêm việc bị say sóng, nhà thơ chỉ mong
sao cho nhanh nhanh thoát biển.
Sau giải phóng, nhà thơ có dịp gặp lại biển khi cùng nhà thơ Ngô Thế Oanh xuống Vũng
Tàu. Từng ngọn sóng tung bọt trắng xóa, tràn qua tuổi ba mươi làm cho nhà thơ cảm thấy
bồi hồi. Lúc này nhà thơ chợt nhận ra, biển không hề đáng sợ hay dữ dằn như những suy
nghĩ thời thơ bé mà biển cũng đẹp và đáng yêu lắm chứ. Từ lúc ấy, biển đã đọng vào kí ức
của nhà thơ, để khi đi qua Tuy Hòa cảm xúc về biển đã dâng trào “Biển trào lên phút chốc
Tuy Hòa” trong bài thơ “Phút chốc Tuy Hòa”.
Năm 1976, để lấy nguồn cảm hứng sáng tác, Thanh Thảo ra ở hẳn Sơn Mỹ. Nhờ vậy ông
có dịp sống cạnh biển để cảm nhận. Hằng ngày ông ra biển Mỹ Khê chơi với trẻ con rồi
cùng bà con thả lưới, kéo chài. Những ngày tháng ở đây đã giúp ông sáng tác thành công
trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ và một vài chương trong trường ca Những người đi tới biển.
Theo tác giả, chính biển đã đẩy nguồn cảm hứng của ông lên cao.
“Ở trường ca đầu tay của tôi, biển đã chiếm hẳn một chương, chương vĩ thanh "Tới biển".
Đó là khúc coda cho trường ca được tôi viết liền một mạch với tất cả niềm hứng khởi như
là kết quả của những ngày tôi lang thang trên bờ biển Mỹ Khê-Sơn Mỹ, nhưng lại có
nguyên nhân sâu hơn từ khát khao suốt những năm chiến tranh của tôi mong một ngày về
với biển:
43
...Cho anh về với em một buổi sáng thường
Đi kéo lưới và đi gánh cá
Nói chuyện lợp nhà trồng lại hàng dương
Hoa muống biển tím lúc mình xúc động
Anh muốn kêu ngược tiếng hò reo của sóng
Phút này đây anh là của biển rồi”...
(Những người đi tới biển) [93]
Nói như vậy có nghĩa, biển đảo đã có một vị trí vững chắc trong lòng nhà thơ, để rồi hình
ảnh của biển, sóng luôn tràn ngập trong những trang trường ca. Biển bờ không chỉ có trong
Những người đi tới biển mà còn có trong Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc
và mới nhất là có trong trường ca Chân đất, ở chương Chân sóng, tác giả mới hoàn thành
năm 2011.
Nhà thơ Thanh Thảo được mệnh danh là “Ông vua trường ca” bởi số lượng trường
ca đồ sộ cũng như sức sáng tạo không ngừng nghỉ của ông qua những đứa con tinh thần.
Trường ca của ông không chỉ đa dạng về cấu trúc mà còn ẩn chứa nhiều thông điệp sâu
sắc. Hình tượng biển trong trường ca Thanh Thảo có một ý nghĩa đặc biệt. Dường như nó
bao hàm tất cả các tầng nghĩa, thâu tóm vào trong mình bản chất thế giới hiện hữu. Tìm
hiểu hình tượng biển sẽ cho chúng ta thấy rõ nét đặc sắc trong thơ ông.
Dù “gặp biển” khá muộn nhưng không vì vậy mà nhà thơ không “nặng tình” với biển.
Điểm qua các sáng tác của ông, ta bắt gặp hình ảnh biển, sóng khá nhiều. Qua khảo sát 6
trường ca của nhà thơ Thanh Thảo, từ biển được đề cập đến 71 lần, từ sóng được đề cập 60
lần và rất nhiều từ liên quan đến biển như gió, cát, bão, lốc (xem phần phụ lục 1). Đặc biệt
trong trường ca Những người đi tới biển và Trẻ con ở Sơn Mỹ có hơn 100 từ ngữ nói về
biển và các từ khác liên quan đến biển. Điều đó có thể khẳng định vị thế vững chắc của
biển trong tâm hồn nhà thơ.
Với Thanh Thảo, biển hiện lên với những hình ảnh vô cùng gần gũi, thân thuộc. Đó là hình
ảnh của những khoang thuyền đầy cá; những làng chài lao xao người mua kẻ bán. Đó còn
là bức tranh đầm ấm của gia đình bên bếp lửa vui niềm vui sum họp:
Những con thuyền thở dài trên cát trắng
Nghe da thịt nồng hơi biển mặn
Mùi cá tanh quanh bến cá buổi buổi chiều
Người bán mua gồng gánh lao xao
44
Bao bếp lửa nhóm niềm vui sum họp
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Và hiện lên trên hết là hình ảnh của người mẹ hiền, quanh năm tần tảo. Nhà thơ không ví
mẹ là biển cả bao la, như câu ca quen thuộc: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như
nước ở ngoài biển Đông mà ví mẹ như hàng cây vùng nước mặn, kiên nhẫn vươn lên xanh
tốt, để giữ từng tấc đất phù sa:
Suốt cuộc đời lấn biển thương đau
Mẹ bền bỉ như cây vùng nước mặn
Mọc hàng đầu giữ từng tấc phù sa
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Để rồi từ đó biển trong lòng con trở thành biển mẹ mênh mông, biển của tình mẫu
tử thiêng liêng:
Những ngọn sóng bạc đầu trào dâng và chìm lắng
Cả niềm vui, nỗi đau sức mạnh của Người đều vô thủy vô chung.
Biển còn hiện lên trong giấc mơ tuổi thơ với nhiều mơ mộng:
Là trẻ thơ tôi đổi thay
Nhiều giấc mộng
Nhiều sóng biển lắm chân trời
Mang tấm áo cánh chuồn rách tơi
Chạy căng phồng gió ngược
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Ở đó, những đứa trẻ chân trần chạy hồn nhiên trên cát với những trò chơi thơ dại,
tung bọt sóng cười vang trên mặt biển.
Giống như đất liền, biển là không gian sống, không gian văn hóa của biết bao
người. Khi xa biển, chắc chắn trong lòng người sẽ không khỏi bâng khuâng, bởi đơn giản,
biển đã trở thành quê hương. Trong không gian sống ấy, biển hiện thân cho nỗi nhớ, là tình
yêu vô bờ của chàng trai đối với người con gái nước mặn:
Bây giờ trên ngực em muối trắng đọng thành dòng
Sữa của biển mùi oi nồng âu yếm
Tay em mở muôn ngàn trang sóng
Cát dàng dàng anh là cát của em thôi
(Những người đi tới biển)
45
Câu ca dao mang vị oi nồng của biển đã chứng minh cho tình yêu đôi lứa: Ngó ra
thấy cát dàng dàng/ cát bao nhiêu hạt dạ em thương chàng bấy nhiêu.
Biển gắn bó với mỗi người, mỗi nhà. Biển trở thành một đối tượng thân thuộc, để tác giả
cất lên tiếng gọi trìu mến. Đặc biệt là khi kết hợp với từ ơi:
Biển ơi
Người mê hoặc tôi bằng ngọn sóng thiếu nữ
Những đường cong chói sáng
Tự xóa bỏ mình
Hay chỉ là một tiếng gọi, một câu nói thân thương:
Biển ơi biển ơi biển ơi
Như vậy, Thanh Thảo đã viết về biển bằng tất cả tình cảm của mình. Biển hiện lên trong
thơ ông tự nhiên, gần gũi nhất. Có lẽ đây vừa là cái duyên, vừa là cái nợ của ông với mảnh
đất vùng đất duyên hải này, mảnh đất Quảng Ngãi quê hương ông.
2.2.2.Biển hiện thân cho nỗi khó nhọc của con người
Biển thân thuộc, gần gũi là thế nhưng trong sâu thẳm nỗi lòng của những người con
đất Việt, biển còn là hiện thân của bao nỗi khó khăn, nhọc nhằn ở đời. Trong kí ức người
Việt hiện lên hình ảnh của một vùng quê đầy cơ cực. Ở nơi đó, những nóc nhà mất hút:
Người già nhớ vùng quê hao gầy
Đất vặn xoắn giữa hai triền núi biển
Bão phủ đầu người ở xa mới đến
Mưa sầm sập mưa lê thê giận dỗi oán hờn
Đá lở rền vang vùi giấc ngủ
Những nóc nhà mất hút
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đó còn là nơi mà sự sống được đánh đổi bằng cả tính mạng. Con người vật lộn
từng ngày với thiên nhiên. Ở nơi ấy dấu ấn của chiến tranh còn đậm nét, những trái mìn
còn nổ sau chiến tranh:
Mấy gàu mồ hôi đổi một củ khoai
Máu đỏ thẫm lấn từng thước cát
Trẻ lên bảy lên năm đã mang nặng đầy kí ức
Những trái mìn còn nổ sau chiến tranh
(Những người đi tới biển)
46
Những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, đồng bào ta hướng về biển với nỗi
khao khát muối cháy bỏng. Với một quốc gia biển nhiều hơn đất liền như nước ta, thiếu
muối trở thành một nỗi đau không gì bù đắp được. Khi đồng bào ta chia nhau từng hạt
muối cắn đôi, biển đã hiện lên như một nỗi khao khát:
Anh đã đi qua heo hút những buôn làng
Trẻ con khát muối hơn chúng mình khát nước
Những người già trong buổi chiều tắt lửa
Bàn tay khô gầy vốc từng nắm tàn tro
Nhìn mắt họ xói qua những dãy núi mây mù
(Những người đi tới biển)
Cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng nhưng đầy gian khổ của nhân dân ta cũng
được biển chứng kiến tất cả. Đó là hình ảnh của làng Tư Cung, nơi diễn ra vụ thảm sát 504
thường dân vô tội của đế quốc Mỹ vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Bọn giặc xả súng vào
bất cứ cái gì chuyển động, đốt sạch những gì đứng yên. Ở nơi đó, những người mẹ khó
nhọc, rặn đẻ trong đường hầm. Phút giây chào đời của những đứa bé cũng không được
bình yên:
Giờ đây
Mẹ rặn đẻ trong đường hầm
Chìm sâu dưới nền nhà mười thước
Biển thắt ruột trời xanh nín thở
Vách hầm trán mẹ mướt mồ hôi
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Nơi đó, không cuộc đời nào còn yên tĩnh, những tâm hồn ngây thơ bị vùi lấp:
Cùng với thủy triều
Nơi đây tiếp liền trảng cát
Đã vùi sâu những cặp mắt trong veo
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Những ngọn sóng trắng xóa, ngày đêm vỗ bờ không ngừng còn làm cho lòng mẹ
“dậy sóng”. Trong trường ca Chân đất, Thanh Thảo ví mỗi làn sóng như một dải khăn
tang. Nhìn thấy biển với những con sóng xô bờ, lòng người mẹ lại quặn thắt. Nhìn về biển
để nhận rõ hơn biết bao mất mát, hy sinh của dân tộc. Nhìn về biển để chúng ta thấy nỗi
đau ấy vẫn chưa nguôi. Bao chua sót, mất mát, hy sinh đều đọng lại trên mái đầu của mẹ:
47
Con nào biết mẹ bạc đầu vì biển
Mỗi làn sóng như một dải khăn tang
Con nào biết mẹ đau vì biển
Đau vì thiếu biển
Đau vì thừa biển
Đau vì biển thiếu con mình
Đau vì biển thừa hy sinh
Ở nơi đó, cuộc sống không hề dễ dàng. Những đứa trẻ gầy nhom, phơi ra từng dẻ
xương sườn. Dù hòa bình nhưng chứng tích chiến tranh thì còn mãi: Những mộ gió những
hình nhân phơ phất... Những phận người bó chiếu giữa mênh mông (Chân đất). Nhưng
trong không gian ấy, con người vẫn kiên nhẫn vươn lên dù khó khăn, dù vất vả:
Gạt ra ngoài đám bọt bèo giặc giã
Đối đầu biển mênh mông cuồng nộ
Đất lầm lì chuyển động trong đêm
Những cây giá toàn thân hóa đá
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Chiến tranh đã khiến bao gia đình ly tán, bao người khốn khổ. Biển với không gian rộng
lớn của mình dường như không chứa hết được những khó khăn, nhọc nhằn ấy, để rồi từ
đây không cuộc đời nào yên nghỉ/ muối mặn đắng mặt trời gay gắt. Biển trong trường ca
Thanh Thảo không còn vẻ bình yên nữa mà đã “dậy sóng”. Biển hiện thân cho biết bao nỗi
khó khăn, vất vả ở đời nhưng nhờ có những “thử thách” đó mà con người càng ngày càng
vững vàng hơn. Đứng trước những thử thách đó, con người càng phải cố gắng vượt qua, dù
phía trước chân trời mù mịt:
Bãi cát bãi cát dài
Dù phía trước chân trời mù mịt
Dù bước chân dẫn về cõi chết
Không thể không đi
(Đêm trên cát)
2.2.3. Biển- triết lý về sức mạnh của nhân dân
Biển luôn có trong tâm thức của mỗi người, mỗi nhà với nhiều tình cảm. Tuy
nhiên, biển trong trường ca Thanh Thảo không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đó mà biển
trong trường ca của ông còn tiềm ẩn sức mạnh, ý chí của nhân dân.
48
2.2.3.1. Hành trình đi tới biển
“Theo ý kiến của Chu Văn Sơn: Trong các nhà thơ kháng chiến chống Mỹ, Thu Bồn là
người hùng về trường ca với số lượng lớn và sức vạm vỡ của nó. Nhưng Thanh Thảo mới
thực là ông vua trường ca. Nhìn chung, các sáng tác của ông giai đoạn này vẫn hướng về
vùng hiện thực mà văn học cả thời đại quan tâm: hiện thực chiến tranh cùng với những vấn
đề nhân sinh được đặt ra trong đó. Tuy nhiên, điều mà Thanh Thảo không nhoà lẫn với bất
cứ một nhà thơ nào là cách phản ánh hiện thực với một cái nhìn, một giọng điệu rất riêng.
Là một người nghĩa khí, trung thực, yêu thiết tha quê hương đất nước và quý trọng vô ngần
mạng sống của nhân dân, của đồng đội mình, Thanh Thảo đã chọn cho mình một giọng thơ
trữ tình đằm thắm, giàu “chất thực” và “chất nghĩ” (Chu Văn Sơn). Thơ Thanh Thảo giàu
chất suy tư, chất triết lí và rất trí tuệ. Nói như Thiếu Mai: Thơ Thanh Thảo có dáng riêng.
Đọc anh, dù chỉ mới một lần, thấy ngay dáng ấy Thơ Thanh Thảo có khả năng gợi dậy
những suy nghĩ của người đọc bởi vì thơ ấy là thơ của một tâm hồn giàu suy tưởng, giàu trí
tuệ” [79].
Đi dọc theo các sáng tác của nhà thơ thì câu nhận xét trên hoàn toàn có lý. Không phải
ngẫu nhiên mà ở trường ca đầu tiên tác giả lại đặt tên là Những người đi tới biển. Phải hiểu
và yêu biển nhà thơ mới có được sự so sánh đầy ý nghĩa khi nói về hành trình đi tới thành
công của những người lính trong kháng chiến chống Mĩ cũng giống như hành trình tới
biển.
Hành trình đi tới biển là cuộc hành trình đầy cam go và mất mát. Những người lính ra đi
khi mái đầu còn xanh, trải qua những năm tháng khốc liệt nhất cùng núi rừng, về tới biển
là về với chiến thắng, cất cao lên khúc ca khải hoàn:
Giờ anh về với biển
Ngọn sóng gào từ xa bỗng phủ trắng chân mình
Anh ngấm muối toàn thân
Anh dầm trong gió dầm trong nắng
Câu ca dao vị mùa thu đầm đậm
Những con còng vẽ ngoằn ngèo trên cát
Những dấu hiệu hồn nhiên gửi đến đất trời.
(Những người đi tới biển)
49
Thế nhưng, biển ồn ào nhưng cũng có lúc lặng lẽ, biển dữ dội nhưng cũng có lúc dịu êm,
về tới biển cũng là lúc chúng ta lặng hơn một chút để nhìn rõ sự mất mát hy sinh. Hòa
mình vào biển cả, con người cảm nhận được sự hy sinh của biết bao thế hệ:
Nếu không có các anh
Ngã xuống như muôn ngàn đợt sóng
Hóa những chiếc neo cắm sâu lòng biển
Đất nước này sẽ trôi dạt về đâu.
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Cuộc hành trình đã có điểm dừng nhưng chưa hẳn là kết thúc. Về với biển chưa phải là
hoàn toàn yên nghỉ mà đó mới chỉ là nơi bắt đầu:
Những dòng sông băng qua những vết thương
Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ
Tới cửa sông là bắt đầu sóng gió
Những cây giá xoay trần ngâm nước giữ phù sa
(Những người đi tới biển)
Vẫn viết về đề tài chiến tranh nhưng trường ca Thanh Thảo đã bớt miêu tả không khí hào
hùng của dân tộc bằng cảm hứng ngợi ca mà đi vào những số phận, những con người
riêng. Bên cạnh đó đào sâu sự kiện bằng giọng điệu suy tư, triết lý. Đây cũng là giọng điệu
chung của nền văn học hậu chiến sau 1975. Qua hình ảnh “những người đi tới biển” nhà
thơ xây dựng nên những con người tự ý thức- tự ý thức về bản thân về Tổ quốc, về nhiệm
vụ trước mắt. Những người đi tới biển cũng là một nhan đề đậm chất triết lý. Đi tới biển là
con đường đi đến chiến thắng, là ngày ca lên khúc ca khải hoàn. Nhưng khi đã về đến đích
rồi, những người đi tới biển chưa dừng lại. Bởi tới biển chưa phải là nới kết thúc. Chiến
tranh đã chấm dứt, hòa bình đã về nhưng vẫn còn đó nhiều nỗi lo. Còn đó nhiều khó khăn,
nhiều trở ngại mới. Chúng mang trong mình một dạng thức mới, một hình hài mới mà
người lính từ rừng về biển phải tỉnh táo đương đầu. “Những dòng sông băng qua những vết
thương/ về với biển đâu phải tìm yên nghỉ”. Với những câu thơ đậm tính triết luận, nhà
thơ Thanh Thảo làm cho người đọc trường ca của ông phải suy nghĩ nhiều hơn. Khúc vĩ
thanh Tới biển tưởng chừng là khúc ca cuối, kết thúc bản trường ca, nhưng nó lại mở ra
một chiều kích mới, bao la, rộng lớn như biển cả.
Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình về với nhân dân, hòa vào nhân dân trong một
hành trình lịch sử (vốn khởi sự từ quá khứ và còn tiếp diễn đến tương lai). Những người đó
50
là một thế hệ mới, cùng thế hệ với nhà thơ, đi tới một không gian, tươi mới hơn, rộng mở
hơn và chắc chắn có nhiều lạ lẫm, khó khăn hơn, nhiều thử thách mới Theo nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân “đi tới” ở đây là một hành động tự ý thức- tự ý thức bằng một hành
động lịch sử của cả thế hệ: đem xương máu bảo vệ Tổ quốc [6,20].
Hành trình đi tới biển là một cuộc hành trình hòa với nhân dân. Đó là chủ đề xuyên suốt
mà nhà thơ Thanh Thảo nhắc đến bằng những hình ảnh của biển cả trong nhiều tác phẩm:
Những người đi tới biển: Hạt muối nhỏ ngây thơ thuần khiết
Nó sung sướng được hòa trong sóng nước
Trẻ con ở Sơn Mỹ: Tôi lại bắt gặp chân trời ngay trên cát
Cả người tôi hòa trong biển vô cùng
Những nghĩa sĩ Cần Giuộc: Đứng trước người tôi chỉ là đứa trẻ
Mỉm cười dút dát
Như e sợ ngọn sóng kia vùi dập
Cho tới khi tôi hòa nhập cùng người...
Đứng trước biển con người như đối mặt với chính cuộc đời của mình. Có một chút e dè, sợ
hãi nhưng người lính trong cuộc hành trình về với biển sẵn sàng dấn thân vào biển đời như
hạt muối hòa trong sóng nước. Hạt muối nhỏ nhoi nhưng không hề đơn độc, không hề vô
giá trị:
Khi đó tôi thành hạt muối nhỏ nhoi
Đọng mặt trời tan trong nước
Đi lại dễ dàng giữa hai bờ sống chết
Lấp lánh lặng im ca hát mặn mòi
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Những hạt muối ngây thơ thuần khiết làm cho cuộc sống thêm đủ đầy. Hạt muối nhỏ cũng
góp phần khiến cho biển mặn. Con người cũng như vậy, dấn thân vào biển đời với một tinh
thần sẵn sàng cống hiến, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Điều đó đã khiến cho vẻ đẹp của
người lính trong hành trình đi tới biển bỗng rạng rỡ hẳn lên.
Tìm về với biển để được tan mình ra như con sóng vô minh, để được làm chính con người
mình: tự do, tự tại với đất trời, với biển bao la. Sóng biển cứ mãi xô bờ, vòng tuần hoàn ấy
không bao giờ ngừng lại, tới biển rồi không phải là đến lúc nghỉ ngơi, bởi cuộc sống luôn
luôn tươi mới, vẫy gọi ta không ngừng:
Khi triều lên sóng gào giọng khàn khàn
51
Trên bãi cát những con còng hoảng sợ
Đó là giờ lao xao hàng dương non
Bức thành xanh ngày mai ngăn gió cát
Hát lên nhờ gió cát
Sóng đất chìm từng đợt lấn ra khơi.
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Khí chất của dải đất miền Trung với gió, cát, bão, lốc; với cái gầm gào nhưng có lúc lặng
lẽ của biển làm cho thơ Thanh Thảo mang một vị rất riêng. Hành trình đi tới biển là một
cuộc hành trình dài đầy triết lý. Trường ca của nhà thơ Thanh Thảo vì vậy cũng đậm chất
triết lý. Và điều đó có thể thâu tóm lại trong hai câu thơ: Đừng nghĩ nước chảy xuôi là
buông trôi tất cả/ mỗi dòng sông đều vật vã đến bạc đầu. Quả đúng là như vậy, bởi cuộc
sống là không ngừng và những người đi tới biển không dừng lại ở đó.
2.2.3.2. Sóng- sức mạnh bùng nổ của nhân dân
Biển luôn thể hiện tâm trạng của mình bằng ngọn sóng. Nhà thơ Thanh Thảo cũng nêu bật
lên sức mạnh của quần chúng nhân dân bằng con sóng. Con sóng không hề đơn độc mà có
những con sóng, những đợt sóng, muôn đợt sóng, ngàn con sóng, lớp lớp sóng Những
con sóng ấy ngày ngày vỗ bờ, không bao giờ ngơi nghỉ ví như sức mạnh của nhân dân. Sức
mạnh ấy cũng không bao giờ ngừng: Những cuộc đời như sóng/ lớp lớp lặng chìm lớp lớp
trào lên hay lớp người sau sẽ đến/ những ngọn sóng trong đêm. Từ những anh hùng từ
thuở xa xưa như Nguyễn Trung Trực, Cao Bá Quát, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu đến
những người dân đi kháng chiến với tên gọi anh Sáu Như, anh Tư Tròn, anh Ba Tốt, cậu
Tám Hùng; những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, những du kích Ba Tơ được Thanh Thảo
dựng lên như ngàn ngàn lớp sóng, nối tiếp nhau đến không ngừng. Lớp người này ngã
xuống đã có lớp người khác đứng lên, chiến đấu cho quê hương, Tổ quốc:
Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại
Đã cháy khô tới gọt cuối cùng
Mà trong như thể trong nguồn
Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi
Dò tận đáy cũng xong thôi
Nhưng vô ích. Sóng đời nào yên
Ngàn con sóng chết cuối đêm
Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng đông
52
Đẩy thuyền lật thuyền dễ không
Mát mềm mài đá đá mòn thấu xương
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Sóng còn biểu hiện cho sức mạnh bùng nổ dữ dội của nhân dân trước kẻ thù xâm lược,
giống như những ngọn sóng thần có khả năng cuốn trôi tất cả: bao nhiêu rác rưởi/ sóng
thần cuốn phăng. Khi viết về những con sóng, nhà thơ Thanh Thảo đã gắn lên mình con
sóng những tính chất đầy sáng tạo. Đó là những ngọn sóng thiếu nữ, ngọn sóng bình minh,
sóng đời, sóng đen hào hển, ngọn sóng mặt trời Những ngọn sóng đó là những ngọn
sóng của lòng quyết tâm, ý chí nung nấu, sức mạnh thiêu đốt kẻ thù của quần chúng nhân
dân:
Không ngập ngừng
Từ biển và từ núi
Những ngọn sóng mặt trời
Những ngọn sóng cuộn lên bờ đời sống
Chói chang ánh mặt trời
(Bùng nổ mùa xuân)
Khi biển đã nhập vào tâm thức thì cho dù ở đâu, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, hễ khi thơ tuôn ra
là tất có hơi hớm của sóng, gió, bão, giông và cả loài hoa vùng biển. Lời tâm sự của cụ Đồ
Chiểu với thầy Kỳ Nhân Sư rực sắc hoa xương rồng trên cát: Một đời thầy cay cực và kiên
trì chiến đấu rút ra một điều như cây xương rồng mọc trên cát người ta có thể sống được
nơi tưởng chừng cạn nước mà vẫn lặng lẽ nở hoa. Gió cuốn những bông hoa trên cát gió
cuốn chúng ta chuyến đi sẽ dài và sóng biển âm vang như không hề tham dự vào số phận
con người (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Trong trường ca Chân đất nhà thơ mới hoàn thành trong thời gian gần đây (năm 2011), vấn
đề biển đảo được đề cập đến một cách sâu sắc và toàn diện. Biển, đảo là nhân dân, là Tổ
quốc, vì vậy giữ gìn biển đảo quê hương là một nhiệm vụ khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hai
câu thơ:
Không thể sống thiếu Hoàng Sa
Không thể sống thiếu biển
(Chân đất)
53
như một lời tuyên ngôn, là kim chỉ nam cho biết bao trái tim yêu nước Việt Nam đi đúng
hướng. Nhà thơ cũng đưa ra những suy nghĩ của mình về vấn đề biển đảo bằng những câu
thơ lên án thói “đạo đức giả” một cách mạnh mẽ:
Anh yêu biển mà không biết bơi
Anh yêu biển mà đứng trên bờ
(Chân đất)
Bằng duyên nợ với biển, nhà thơ Thanh Thảo đã viết nên những trang trường ca đầy sức
sống và mang một phong cách rất riêng. Biển đối với ông là quê hương nguồn cội với
nhiều sóng biển, lắm chân trời. Biển còn hiện lên trong kí ức tuổi thơ hồn nhiên, qua tình
mẫu tử thiêng liêng và cả tình yêu đôi lứa. Biển còn là hiện thân của biết bao nỗi khó khăn,
cực khổ của cuộc đời. Nhắc đến biển, ta có cảm giác vừa thương vừa đau, bởi nơi đó thấm
đẫm bao máu xương và nước mắt của đồng bào. Tuy nhiên nhà thơ Thanh Thảo viết về
biển không phải bằng những dòng thơ bi lụy, kể lể dài dòng mà ánh lên niềm tin về một
tương lai tốt đẹp. Những người lính tiến ra biển, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Đó là
cuộc hành trình hướng tới quảng đại quần chúng nhân dân. Biển và các hình ảnh liên quan
đến biển như gió, sóng, cát... còn biểu trưng cho sức mạnh của nhân dân. Đó là một sức
mạnh to lớn không gì có thể ngăn cản được.
2.3. Biển trong trường ca Hữu Thỉnh
2.3.1. Từ trường ca “Đường tới thành phố” đến “Trường ca Biển”, người lính
tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc
Chặng đường sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh đi theo hai nhiệm vụ cơ bản, một là các đề
tài viết về nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và hai là đề tài biển đảo với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Hai đề tài ấy xuất hiện xuyên suốt trong các sáng tác của nhà thơ. Hiểu như vậy có
nghĩa, Trường ca Biển chính là mạch cảm hứng tiếp theo từ trường ca Đường tới thành
phố. Từ con đường giải phóng dân tộc, người lính tiếp tục cống hiến với nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển đảo của dân tộc.
Là một người con của vùng đất trung du nhưng biển đảo vẫn canh cánh trong tâm trí nhà
thơ Hữu Thỉnh. Theo lời kể của nhà thơ, ông đã từng đi qua nhiều vùng biển khác nhau
như biển Quảng Bình, biển Sầm Sơn, các vùng biển ở phía Đông Bắc Những năm 1980,
1981 ông đã sống ở Bạch Long Vĩ và các đảo ở Quảng Ninh. Khoảng thời gian sống và
54
giao lưu với các chiến sĩ bộ đội ở Bạch Long Vĩ để lại nhiều cảm hứng trong lòng nhà thơ
để rồi nhiều bài thơ về biển đảo ra đời, đầy ắp hương vị biển cả.
Trường ca là một thể loại Hữu Thỉnh viết rất tốt. Nếu Thanh Thảo, Thu Bồn với số lượng
trường ca đồ sộ được độc giả đánh giá cao thì trường ca của Hữu Thỉnh cũng có một vị trí
rất riêng. “Hữu Thỉnh đã thành công trong việc khái quát tổng hợp về một giai đoạn lịch
sử, về nhiều mặt đời sống, về thế giới khách quan rộng lớn và chiều sâu tâm lý của con
người Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật trong sự nghiệp sáng
tác của ông. Chính những bản trường ca này đã khẳng định tư duy khái quát, đồng thời
cũng nói lên được tầm vóc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở cái tôi cá nhân mà còn được
thể hiện trong cái chung của cộng đồng, của cả một dân tộc” [20,65].
Nếu trường ca Đường tới thành phố là bức tranh tổng quát về con đường chiến đấu giành
độc lập của dân tộc với bao mất mát hy sinh thì ở Trường ca Biển, những trăn trở của
người lính được Hữu Thỉnh nâng lên thêm một bậc, nâng lên ở tầng triết lý. Người lính đối
thoại với biển cũng chính là đối thoại với bản thân mình. Chặng đường khó khăn còn ở
phía trước. Dù đất nước đã hòa bình nhưng không vì vậy mà người lính được phép buông
xuôi. “Đó là một bản trường ca gần 1000 câu lại một lần nữa được Hữu Thỉnh dồn sức thổi
vào trong đó những tâm trạng, những suy nghĩ, những dự cảm, những day dứt khôn nguôi
của chính nhà thơ về cuộc sống, về hạnh phúc, về thân phận con người trước cuộc đời
đầy vất vả, lo toan, với những cám dỗ, bươn trải hằng ngày của cuộc sống thời bình nhưng
chắc gì đã ít khốc liệt hơn những năm tháng chiến tranh” [20,70].
Ngay từ những năm trước giải phóng, vấn đề biển đảo luôn thường trực trong những sáng
tác của ông. Trong trường ca Đường tới thành phố, ở chương cuối, khúc vĩ thanh Hồi âm
nhà thơ đã viết những vấn đề rất nóng về biển đảo. Tiếp sau đó, với thi pháp đối thoại với
biển khá độc đáo, nhà thơ đã viết nên tác phẩm Trường ca Biển mang phong cách rất riêng,
rất H
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_21_9126687291_1286_1869301.pdf