Luận văn Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973

MỞ ĐẦU. 2

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN . 9

1.1 Tình hình nghiên cứu . 9

1.2 Những vấn đề đặt ra luận án cần tập trung nghiên cứu . 23

Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC TRẠI

GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 . 26

2.1. Chế độ giam cầm và các hình thức giam cầm, tra tấn của Mỹ và chính

quyền Sài Gòn trong các trại giam tù binh . 26

2.2. Xây dựng và phát triển tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh . 55

Chương 3: TỔ CHỨC ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH TRONG CÁC

TRẠI GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973. 72

3.1. Lãnh đạo tù binh đấu tranh bảo vệ lý tưởng, bảo vệ khí tiết người cộng

sản, chống cưỡng ép, chiêu hồi . 72

3.2. Đấu tranh bảo vệ tù binh, chống chế độ lao tù khắc nghiệt . 80

3.2. Đấu tranh biến nhà tù thành trường học cách mạng . 97

3.3. Tìm cách trở về với cách mạng . 106

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM . 120

4.1 Nhận xét . 120

4.2 Kinh nghiệm . 134

KẾT LUẬN. 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÔNG

BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI . 154

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 155

PHỤ LỤC. 178

pdf208 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đầu năm 1972 (Trại 2) - Đòi cải thiện điều kiện giam giữ, không ký giấy chiêu hồi. - Tuyệt thực 2 ngày 22 Tháng 3-1971 (Trại 1) - Cải thiện điều kiện sinh hoạt. - Không đánh đập tù binh. - Được giam chung tại trại 2. - Bị đàn áp, biệt giam tại trại 4. - Hô la tập thể, dùng lý lẽ kiến nghị 2 ngày. 23 Tháng 10-1971 - Đấu tranh không trở về - Hô la và 85 (Trại 4) phòng giam cũ. - Giải quyết tiêu chuẩn về tù binh. - Nhu cầu ăn ở, thăm nuôi, chữa bệnh. - Được giải quyết theo yêu cầu. tuyệt thực [trích theo,133, tr. 125-137] Tại Trại giam Hố Nai (Biên Hòa), năm 1968 diễn ra cuộc đấu tranh của Khu B đòi địch rút hết trưởng, phó phòng giam và an ninh ra khỏi phòng giam để lực lượng tù binh tự cải quản. Tiếp đó, vào ngày 6-9-1973, tù binh đấu tranh đòi địch chấp nhận yêu sách thực hiện quy chế sinh hoạt ăn ở của tù binh, thực hiện những chế độ đối với “nhân viên quân sự” theo tinh thần Hiệp định Pari, yêu cầu để tù binh tự quản, yêu cầu địch rút số đại diện, tay sai ra ngoài trại, tù binh được tiếp xúc giữa các phòng giam, được vui chơi, giải trí, không được cưỡng bức chiêu hồi... Ở Trại giam tù binh Trà Nóc (Cần Thơ), Đảng ủy nhà lao được thành lập đã tập trung lãnh đạo cuộc đấu tranh, tổ chức các phong trào đòi cải thiện đời sống lao tù; bảo vệ, chăm sóc thương binh, người già, phụ nữ; ... Về mặt công khai, Đảng ủy trại giam lập ra Ban đại diện tù binh, do các đảng viên có năng lực, phẩm chất chính trị tốt, có trình độ lý luận, được tin tưởng làm cốt cán. Ban Đại diện có các Tổ an ninh chính trị, Tổ đời sống, Tổ tuyên truyền văn hóa-văn nghệ, Tổ chăm sóc thương binh... Phương pháp đấu tranh cũng uyển chuyển và linh hoạt. Trong những năm 1967-1969, tù binh tại trại giam có xu hướng thiên về bạo động, tuy có đạt được thắng lợi, song lực lượng đấu tranh cũng chịu tổn thất lớn. Từ sau 1970, các cuộc đấu tranh thường tiến hành bằng đấu tranh lý lẽ, tuyệt thực... Tuy nhiên, khi bị khủng bố hoặc khước từ các yêu 86 sách chính đáng, tối thiểu của tù binh, các cuộc đấu tranh vẫn nổ ra rất quyết liệt, như: đánh quân cảnh, giết chiêu hồi, bắt trói trật tự viên của địch... Tại Trại giam tù binh Phú Quốc, các cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi thực hiện chế độ tù binh tại Trại giam Phú Quốc gắn liền với cuộc đấu tranh chống “chiêu hồi”, chống cưỡng bức tù binh vào khu “Tân sinh hoạt”. Trước hết, tù binh trong trại giam Phú Quốc đấu tranh đòi đối phương công nhận là tù binh. Đầu năm 1968, tù binh đấu tranh quyết liệt, phản đối cách gọi miệt thị và xúc phạm, buộc chúng phải công nhận là tù binh cộng sản, thay hai chữ PC (phiến cộng) trên áo bằng hai chữ TB (tù binh). Trên cơ sở thắng lợi này, tù binh đấu tranh đòi địch thực hiện Điều 13 về cách đối xử với tù binh được ghi trong Công ước Giơnevơ ngày 12-8-1949 mà chính quyền Bảo Đại đã phê chuẩn năm 1953. Tù binh Trại giam Phú Quốc đấu tranh đòi thực hiện cấp phát trang phục, nhu yếu phẩm, lương thực, thực phẩm tươi sống, thuốc chữa bệnh khi đau yếu; không làm các việc liên quan đến quân sự, như: đào hầm, làm công sự, rào kẽm gai, nhổ cỏ; không làm những việc có tính hạ thấp nhân phẩm tù binh (giặt quần áo, phục vụ vợ, con sĩ quan); chống nhận cá ươn, không nhận gạo cấp thiếu....Là nơi chính quyền Sài Gòn giam giữ tập trung tù binh đông nhất ở miền Nam, những người tù bị giam giữ ở Phú Quốc khi bị luân chuyển đã chuyển tải mục tiêu đấu tranh đòi chúng thực hiện chế độ giam giữ tù bình theo qui định quốc tế đến các trại giam khác. Các tổ chức Đảng trong các phân khu còn tiến hành lãnh đạo các cuộc đấu tranh của tù binh tại Trại giam tù binh Phú Quốc đòi chấm dứt mọi hành động đánh đập, phạt vạ tù binh; bãi bỏ lao động phục dịch cho sĩ quan, binh lính; chỉ lao động cải thiện đời sống tù binh; đòi cấp đủ tiêu chuẩn, khẩu phần ăn hằng ngày; không bớt xén, bảo đảm ăn no đủ, đòi phá bỏ khu Tân sinh hoạt lập lại khu tù binh... Các biện pháp đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, 87 quyền của tù binh tại Phú Quốc diễn ra rất phong phú, song, thường rất quyết liệt, từ đưa yêu sách phản đối, đập cà mèn, đập vách tôn, la ó rồi đến tuyệt thực, uy hiếp, cảnh cáo bọn trật tự, diệt ác ôn, mổ bụng tự sát...Có nhiều cuộc đấu tranh bắt đầu bằng một đề nghị nhẹ nhàng là cung cấp thêm nước uống hoặc thực phẩm, song vì yêu sách không được chấp thuận và thái độ hách dịch của cai tù nên cuộc đấu tranh chuyển sang bạo lực. Nổi bật trong lĩnh vực đấu tranh đòi quyền dân sinh, quyền tù binh là các cuộc đấu tranh của tù binh ở Khu A10, Khu C8... Cuối năm 1969, trước tình hình giám thị trại giam đặt thêm nhiều quy định mới kìm kẹp tù binh chặt chẽ hơn, bắt tù binh làm việc nặng nề hơn và chúng bắt đầu phạt vạ, có khi bắt thụt đầu tập thể ở ngoài sân điểm danh và đánh đập tù binh rất dã man, Đảng ủy Phân khu A10 quyết định đấu tranh bằng các hình thức từ đưa yêu sách đến tuyệt thực, yêu cầu địch không đánh đập, phạt vạ tù binh; không được bắt tù binh làm những việc có tính chất quân sự, làm rào kẽm gai, phục dịch các gia đình sĩ quan; bảo đảm các tiêu chuẩn ăn uống hằng ngày cho tù binh. Sau 12 ngày đấu tranh, chúng vẫn không đáp ứng, Đảng ủy Phân khu quyết định sử dụng biện pháp mạnh hơn, tiến hành diệt bốn tên mật báo hay cung cấp tin cho địch, bắt con tin và đến ngày đấu tranh thứ 15 thì vận động một người tự nguyện mổ bụng tự sát. Trước sự đấu tranh kiên cường của tù binh Khu A10, chúng buộc phải chấp nhận yêu sách do tù binh đưa ra. Tại Khu C8, cuối năm 1970, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Phân khu, tù binh liên tiếp đấu tranh đòi quyền dân sinh, quyền tù binh. Đảng ủy Phân khu chủ trương lãnh đạo kiên quyết không đi làm bất cứ việc gì cho giám thị ngoài những công việc hằng ngày tù binh phải làm, không làm những công việc mang tính chất quân sự hoặc nô dịch như: không nhổ cỏ trong hàng rào thép gai chung quanh phân khu, chống phạt vạ, đánh đập tù binh, đòi tăng thêm số lượng và chất lượng thực phẩm, đòi được tổ chức học văn hóa, được tự cử đại 88 diện, cử trưởng phòng và cắt đặt các việc trong phân khu; yêu cầu giám thị và quân cảnh không được chửi thề và xưng hô “mày-tao” với tù binhbuộc địch phải chấp nhận. 3.2.2. Diệt mật báo và trật tự ác ôn, bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ tù binh Mật báo và trật tự là những tù binh phản bội, cam tâm làm tay sai cho địch đánh phá lực lượng tù binh. Chúng cải trang trong vai những tù binh tích cực đấu tranh, tìm cách lấy lòng người tù khác để dò la tin tức rồi lén lút báo cáo với bọn chỉ huy, giám thị về tổ chức Đảng, về những người lãnh đạo trong phân khu, về những kế hoạch của Đảng ủy khu giam như: đào hầm vượt ngục; chống cưỡng ép chiêu hồi... Đồng thời, giám thị trại giam dựng lên các đội trật tự nhằm kìm kẹp, đánh đập tù binh, góp phần đắc lực với bọn chiến tranh chính trị và quân cảnh trong việc ép buộc, xô đẩy hàng ngàn người vào các khu Tân sinh hoạt. Để ngăn chặn bọn mật báo và trật tự, tổ chức Đảng trong các trại giam ra nghị quyết trừng trị những tên phản bội đó. Tùy theo tội ác của bọn chúng mà tổ chức Đảng có kế hoạch đối phó: nếu tội còn nhẹ thì cảnh cáo răn đe và giáo dục, mở đường cho họ trở về phía cách mạng; những trường hợp phá hoại gây tổn thất lớn cho tù binh thì có kế hoạch tiêu diệt; những tên trật tự đi lẻ mà giám thị cài vào, tù binh theo dõi, phát hiện, sẽ đánh đuổi chúng ra khỏi phân khu và tuyên bố thẳng không cho ở chung cùng tù binh, còn nếu cứ vào thì không đảm bảo tính mạng cho chúng. Trong đấu tranh, thái độ của tù binh rất kiên quyết nên đã làm giám thị sợ trách nhiệm nếu có án mạng xảy ra, mật vụ cũng sợ bị giết nên không dám ở trong trại, buộc bọn giám thị phải chuyển những tên này đi nơi khác. Đối với trật tự, nhất là ở những nơi chúng đã tập hợp thành đội, việc đối phó với chúng khó khăn hơn, nhiều lúc phải dùng đến bạo lực, chấp nhận đổ máu và không phải tất cả các cuộc đấu tranh đều thu được thắng lợi trọn vẹn. 89 Tại Trại giam tù binh Pleiku, có nhiều tên ác ôn, nhưng khét tiếng nhất là 4 tên: tên Tó, Trưởng đại diện trại; tên Thu, Phó đại diện trại; tên Tâm, Trưởng trật tự, tên Hơn, Phó trật tự. Đây là những tên tay sai đắc lực, lợi hại của giám thị. Bọn chúng không từ một thủ đoạn tàn ác nào để đánh đập, tra khảo, nhục mạ tù binh, gây nên tình hình hết sức căng thẳng. Chỉ cần bắt gặp 2,3 tù binh nói chuyện với nhau là lập tức chúng bắt ra phòng điều hành trực tiếp xét hỏi, vu khống là tụ tập đấu tranh, là bàn bạc định vượt ngục... Cứ thế, chúng thay nhau đấm đá, dùng gậy gộc phang vào đầu, vào ngực cho đến ngất xỉu rồi đem giam riêng chuồng cọp kẽm gai ngoài trời, đêm lạnh buốt lại còn bắt cởi áo chỉ còn quần lót, những tù binh ốm yếu chỉ vài đêm là hy sinh. Trước tình hình đó, Đảng uỷ phân khu trực tiếp giao nhiệm vụ diệt ác ôn cho chi uỷ chi bộ phòng 1 do đồng chí Chí làm bí thư, đồng chí Cận làm tổ trưởng diệt ác. Đúng 7 giờ tối ngày 1-11-1968 ngày "quốc khánh" chính quyền Sài Gòn), tên Thu vào các phòng cưỡng bức tù binh tù ra sân xem phim, khi đến cuối phòng 2, tổ diệt ác lập tức giết chết đem vứt xác theo mương nước chảy, nhưng hắn chưa chết, sau một hồi tỉnh dậy bò đi. Tổ diệt ác phòng 4 phát hiện thấy bèn nhanh chóng thanh toán, đem vứt xác vào phòng 8-phòng hiện không giam tù. Mãi đến sáng hôm sau, bọn cai tù mới phát hiện tên Thu đã chết cứng [118, tr. 242-243]. Ngay đêm hôm ấy, người bị bắt đi đầu tiên là đồng chí Nguyễn Bốn. Sáng hôm sau, chúng bắt thêm một số người ở phòng 4 lên phòng nhì Quân đoàn II để tra tấn hòng tìm cho ra người đã giết Võ Trọng Thu, ai lãnh đạo, chỉ huy. Hôm sau, chúng lại bắt thêm một số khác. Vì sợ giám thị bắt lung tung tra khảo, tổ chức bị lộ, đồng chí Bính và đồng chí Bốn tự nhận là chính mình giết tên Thu, mặc dù đồng chí chỉ là những người chỉ đạo. Từ đó, những người bị chúng bắt đã được thả về, không ai ở trại giam bị bắt đi tra khảo nữa. 90 Sau đó, hai đồng chí bị giải về giam tại quân lao Nha Trang rồi đem ra tòa án quân sự xét xử cuối cùng chúng kết án rồi đày 2 đồng chí ra Côn Đảo. Sau vụ này, bọn mật báo và trật tự càng hoang mang lo sợ. Một vài tên xin ra khỏi đội trật tự. Thời gian ấy hầu như chúng không còn hoạt động gì nữa. Khí thế và phong trào quần chúng lên cao. Trong trại giam tù binh Phú Quốc, tổ chức Đảng rất quyết liệt lãnh đạo đấu tranh trừng trị bọn phản động, ác ôn, nhằm chủ động tiến công địch. Có nơi tù binh hành động một cách im lặng như trường hợp diệt tên mật báo phân khu D4 vào cuối năm 1971. Tù binh xô tên mật báo xuống giếng rồi nhấn đầu hắn cho đến chết, sau đó báo cho bọn giám thị là hắn bị ngã xuống giếng chết đuối nên địch không có căn cứ để kết tội tù binh. Lúc đầu, đảng ủy các phân khu tổ chức chỉ đạo diệt mật vụ nhưng không cho người đứng ra nhận vì sợ ảnh hưởng đến tính mạng tù binh. Tuy nhiên, những lúc như thế số đông tù binh trong phân khu bị chúng đánh đập, tra tấn để khai thác thông tin, tìm ra người chỉ đạo. Vì vậy, về sau, đảng ủy các phân khu cử người đứng ra nhận trách nhiệm diệt chúng để bảo vệ tù binh, nhất là những tù binh bệnh tật, bị thương đều được giữ gìn sức khỏe. Những người đứng ra nhận trước chỉ huy, giám thị và quân cảnh đã diệt bọn mật báo và trật tự là những người có tinh thần đấu tranh rất anh dũng và sẵn sàng hy sinh bản thân vì tập thể. Bởi vì họ biết chắc chắn rằng họ sẽ bị đánh đập, tra tấn dã man nhằm khai thác tổ chức rồi cho vào biệt giam chờ ngày đưa ra tòa án quân sự, hoặc cũng có người chết ngay trên bàn tra tấn. Trường hợp trừng trị tên mật vụ Lê Ba tại trại giam B5 ngày 13-1-1971, là vụ khá điển hình của tên trật tự viên nhưng thực chất là mật vụ [13, tr. 286]. Tên Lê Ba làm nhiệm vụ an ninh chìm ở phân khu A4 từ năm 1968 đến năm 1971. Sau đó Lê Ba được chỉ huy đưa sang phân khu B5 làm trưởng nhóm có 10 tên trật tự viên. Tên này gây nhiều tội ác đối với tù binh nên đảng ủy phân khu quyết định lập kế hoạch trừ khử hắn. Đảng ủy bí mật giao cho nhóm các 91 anh Đoàn Thanh Phương, Trần Văn Quang và Trần Văn Minh thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt tên mật vụ Lê Ba và chuẩn bị kế hoạch đối phó với sự trả thù của kẻ địch. Thực hiện sự chỉ đạo của đảng ủy phân khu, các tù binh đã tiêu diệt được tên mật vụ Lê Ba ngay trong đêm đầu tiên hắn nhập trại giam B5 khi chưa kịp móc nối với bọn trật tự ở đây và ném xác ra ngoài nhà vệ sinh. Quân cảnh được tin tiền báo động và kéo vào trại tiến hành điểm danh. Cả ba đồng chí đứng ra nhận giết tên mật vụ Lê Ba, chúng liền bắt các anh nhốt vào biệt giam. Tại đây, chúng tra tấn các đồng chí rất dã man. Sau đó chúng đưa các anh về Trại giam Cần Thơ rồi đưa ra tòa án Cần Thơ xét xử. Vụ trừng trị hai tên phản bội Doãn Văn Biên và Vũ Thanh Thủy tại phân khu D5 cũng khá tiêu biểu. Phân khu D5 là phân khu giam các chiến sĩ quê miền Bắc. Do vậy, địch cài 6 tên mật báo trong đó, có Doãn Văn Biên và Vũ Thanh Thủy vào phân khu D5 trong đợt xáo trộn tù binh giữa các phân khu. Trong 6 tên mật vụ, có người từng tham gia trừng trị bọn trật tự, bị địch bắt đánh đập, đưa đi nhiều nơi nhưng vì không vững vàng, bị mua chuộc và cưỡng ép nên chịu chiêu hồi, quay sang làm mật báo cho chúng. Đảng ủy phân khu nắm rõ bọn này nên đã cử tù binh kiểm soát chặt chẽ những mối quan hệ giữa chúng với bọn quân cảnh, giám thị. Do đó, 6 tên không dám trực tiếp gặp gỡ giám thị và quân cảnh để báo tin tức mà chỉ còn cách viết thư ném vào giữa hàng rào để đến khi bọn quân cảnh vào tuần tra sẽ nhận. Tháng 3- 1971, tù binh phân khu D5 tổ chức đào ba đường hầm để chuẩn bị vượt ngục, trong đó có một đường còn nửa tháng nữa là xong và một đường chỉ còn một tuần nữa là hoàn tất. Mặc dù tù binh rất cẩn thận canh gác, ngụy trang, che mắt bọn mật báo nhưng vân bị mật báo vẫn rình mò và biết được tù binh đào hầm vượt ngục, tên Doãn Văn Biên viết giấy lén ném vào giữa các hàng rào dây kẽm gai phân chia phân khu C5 và phân khu D5 để báo cho quân cảnh biết. Nhờ cảnh giác từ trước, nên vào khoảng 9 giờ sáng ngày 4-7-1971, khi tên Biên vừa ném giấy, tù binh bên phân khu C5 trông thấy, liền báo cho tù 92 binh phân khu D5 biết. Tù binh ở phân khu D5 dùng dây kẽm gai luồn móc vào được, trong tờ giấy tên Biên kê khai rõ những người trong cấp ủy mà chúng nghi ngờ, khai cả 56 đồng chí phòng nhà bếp tổ chức đào hầm và nguy hiểm hơn là khai cả vị trí của ba miệng hầm mà chúng phát hiện được. Đảng ủy phân khu họp khẩn cấp, quyết định trừ khử tên Biên. Chi bộ của đồng chí Nguyễn Trọng Lượng được giao thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Đội bảo vệ của tù binh gồm các đồng chí Hà Văn Tháo (tức Phạm Văn Tính, quê thành phố Hà Nội), tổ trưởng và Nguyễn Văn Bình (quê tỉnh Thanh Hóa) được lệnh bắt hỏi tên Biên. Hắn thú nhận hết tội lỗi, nhưng vì để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ tập thể tù binh, bảo vệ công trình đường hầm đang thực hiện, đồng thời để cảnh báo đối với các tên còn lại, đảng ủy quyết định diệt trừ tên Biên và cử người đứng ra nhận trách nhiệm. Nguyễn Vương Thành (tức Nguyễn Dương Kế, quê ở tỉnh Hà Nam) và Trương Văn Long (tức Đàm Thế Sinh) tự nguyện ra nhận trách nhiệm giết tên Biên trước kẻ giám thị. Ngày 6-7-1971, sau hai ngày xảy ra sự việc, tên mật báo Vũ Thanh Thủy, thuộc nhóm 6 tên mật báo có ý định nhảy ra báo với quân cảnh tình hình đào hầm và tổ chức lãnh đạo trong phân khu, tù binh phân khu D5 phát hiện, xin ý kiến đảng ủy phân khu. Đảng ủy hội ý và quyết định cho đội bảo vệ tù binh xử lý ngay. Hai đồng chí Nguyễn Văn Đào (tức Nguyễn Văn Đồ, quê tỉnh Hải Dương) và Nguyễn Văn Pha (tức Vũ Hồng Thăng, quê tỉnh Thanh Hóa) thực hiện nhiệm vụ và đứng ra nhận trách nhiệm giết tên Thủy. Sự việc xảy ra dồn dập, địch bắt và đánh đập các đồng chí rất dã man rồi đưa đi biệt giam A2. Các đồng chí chịu đựng mọi đau đớn trước những đòn roi tra tấn của kẻ thù, giữ trọn lời hứa với tổ chức và lòng tin của đồng chí, đồng đội kiên quyết không khai báo gì. Ngày 14-12-1971, chúng đưa các anh về đất liền đem ra xét xử tại Toàn án Quân sự Vùng 4 chiến thuật tại Cần Thơ [13, tr. 289]. 93 Ở phân khu A10, khoảng tháng 5-1970, địch đưa về khoảng 1.000 tù binh có lẫn 28 tên trật tự do tên Khiêm cầm đầu để chuẩn bị lập "Tân sinh hoạt". Tổ chức Đảng quyết định phải diệt ba tên ác ôn nhất trong đó có tên Khiêm, không cử người nhận và sau đó cả phân khu cùng tham gia đấu tranh. Giờ hành động là chập tối, trước lúc giới nghiêm. Tên Khiêm bị giết chết, hai tên khác chỉ bị thương. Ngay đêm đó, chúng bắt đại diện tù binh và 4-5 tù binh ra đánh. Sáng hôm sau, toàn phân khu kéo ra sân đòi đuổi bọn trật tự. Cả phân khu đồng loạt giơ tay đề nghị không cho chúng ở chung với tù binh. Lực lượng tù binh ngồi ở sân kiên quyết đấu tranh đến chiều. Khoảng 16 giờ, bọn trật tự ôm quần áo chạy ra cổng. Phân khu A10 thu được thắng lợi nhờ nhạy bén kịp thời tấn công bọn trật tự ngay từ lúc chúng mới tới, chưa kịp củng cố lực lượng và biết dùng sức mạnh của cả phân khu kéo ra đấu tranh để hỗ trợ những tù binh bị bắt đánh đập và có thái độ rất kiên quyết nên địch phải chùn tay. Ở phân khu A4, phân khu sĩ quan miền Nam, vào cuôi năm Âm lịch (tháng 2-1970), chỉ huy phân khu đưa trật tự từ nơi khác đến đánh đập tù binh. Tù binh đánh lại, diệt ba tên trật tự, một tên bị móc mắt, một quân cảnh bị thương. Tù binh có 13 người chết, khoảng 30 người bị thương. Chỉ huy trưởng hứa sẽ thỏa mãn những yêu sách của tù binh. Từ đó về sau, bọn trật tự không trở lại phân khu sĩ quan miền Nam và chúng không còn tiếp tục kế hoạch cưỡng ép chiêu hồi ở đây. Tổn thất của phân khu A4 rất lớn, nhưng cũng thu được thắng lợi, chấm dứt kế hoạch cưỡng ép chiêu hồi của địch. Nếu không có sự hy sinh của tù binh, chắc chắn những cuộc đấu tranh sau này sẽ thiệt hại càng lớn hơn. Từ những thắng lợi và tổn thất trong các cuộc đấu tranh chống chiến dịch cưỡng ép, chiêu hồi các phân khu tổng kết được những kinh nghiệm quý báu: Mỗi lần tù binh trừng trị trật tự thì quân cảnh phản ứng mạnh mẽ vì đó là 94 tay sai, là công cụ của chúng dùng để kìm kẹp, đàn áp và cưỡng ép tù binh chiêu hồi. Vì vậy, trong việc trừng trị trật tự, tù binh có bị thiệt hại. Nhưng nếu không hạ được uy thế của chúng, không đuổi chúng ra khỏi phân khu thì sự thiệt hại về thể xác và tinh thần sẽ còn lớn hơn nhiều. Những năm đầu, tổ chức Đảng, tổ chức trừng trị mật thám và trật tự mà không cho người đứng ra nhận nên địch bắt người ra đánh tràn lan để tìm tổ chức và thủ phạm. Tình hình đó gây một số thiệt hại cho tổ chức Đảng trong phân khu và cho tù binh. Về sau, khi trừng trị bọn phản bội, Đảng ủy chọn một số tù binh dũng cảm đứng ra nhận trách nhiệm với lý do là chúng phản bội lý tưởng cách mạng. Vì đã có người nhận, địch không bắt tràn lan và chỉ đánh đập một thời gian ngắn rồi đưa vào biệt giam. Việc chọn người nhận phải trên cơ sở tự nguyện, có tư tưởng vững vàng và chịu nổi sự khảo tra của địch. Cử người nhận như thế ít bị bắt bớ đánh đập tràn lan và cũng không có người nhận nào khai báo làm hại tổ chức trong trại giam. Tuy nhiên, cũng có nơi không cử người đứng ra chịu trách nhiệm mà tìm cách tạo ra như một tình huống bất ngờ do bị bọn trật tự đánh đập nên tù binh tức giận đánh lại, một phản ứng tự nhiên chứ không ai tổ chức cả. Mặt khác khi diệt mật báo, nếu hành động êm và tạo được lý lẽ để che giấu giám thị thì cũng không cần cho người đứng ra nhận trách nhiệm như trường hợp xô một tên mật báo xuống giếng ở D4 cuối năm 1971. Trong việc trừng trị bọn trật tự, tổ chức Đảng phải tổ chức cho tù binh hành động sớm, khi đội trật tự chưa kịp hình thành, mới chỉ có một số tên bắt đầu hoạt động hoặc khi chúng vừa từ các nơi đến, chưa kịp củng cố đội ngũ và phải biết phát huy kịp thời đúng lúc sức mạnh của toàn thể tù binh trong phân khu; đồng thời phải tổ chức đấu tranh liên tục, cuộc đấu tranh sau hỗ trợ cho cuộc đấu tranh trước để giành thế chủ động thì mới có thể thu được thắng lợi trước một kẻ thù độc ác và nham hiểm. 95 Đặc biệt, bên cạnh việc diệt mật báo và trật tự, tại Trại giam tù binh Phú Quốc, tổ chức Đảng còn đẩy cuộc đấu tranh lên hình thức cao và quyết liệt hơn đó là, đánh bắt quân cảnh và trừng trị giám thị. Mặc dù tù binh trong tay không có vũ khí, nhưng vẫn dũng cảm áp dụng hình thức đấu tranh bằng bạo lực. Áp dụng hình thức bạo lực đối với trật tự và đối với quân cảnh có khác nhau mặc dù nguyên nhân trực tiếp đều do chúng quá hung ác, thường xuyên đánh đập tù binh. Với bọn trật tự, tù binh phải diệt một số và đuổi ra khỏi phân khu, không cho ở chung với tù binh; với quân cảnh, tù binh đánh lại để làm cho chúng phải sợ, hạn chế tính ác ôn và nhiều khi bắt một hai tên quân cảnh giữ lại trong phân khu làm con tin đòi địch chấp thuận những yêu sách đấu tranh của tù binh. Vụ giết một têm giám thị tại phân khu C6 cũng là cách đấu tranh đánh vào bọn cai ngục rất quyết liệt. Trước khi xảy ra sự việc tù binh phân khu C6 giết tên giám thị phân khu vào ngày 30-5-1970, phân khu C6 tiếp nhận số tù binh từ Trại giam Pleiku và Trại giam Cần Thơ địch mới đưa ra Phú Quốc. Qua nắm tình hình, tổ chức Đảng biết được chúng cài theo 12 tên trật tự để chuẩn bị lập trại “Tân sinh hoạt” ở phân khu C6. Những người trong đoàn tù binh phát hiện và báo cho đảng ủy phân khu C6, nên Đảng ủy phân khu quyết định tiêu diệt những tên trật tự này, không để cho địch thực hiện âm mưu chiêu hồi, lập trại “Tân sinh hoạt”. Thực hiện chỉ đạo của đảng ủy phân khu, các phòng giam thực hiện kế hoạch vào lúc trời gần sáng, nhưng chỉ diệt được 2 tên, còn 10 tên chạy thoát ra ngoài kêu quân cảnh tiếp cứu. Khi trời sáng hẳn, quân cảnh đến đứng bên ngoài và chĩa súng bắn vào phòng giam làm một tù binh chết. Đảng ủy chỉ đạo cho tù binh kéo ra sân đấu tranh, một lúc sau, nhiều xe quân sự chở lính tới bao vây phân khu. Giám thị và quân cảnh mở cửa cổng phân khu vào đánh đập tù binh tới tấp. Tù binh tức giận đánh chết một tên giám thị rồi ném hắn xuống giếng và đánh một quân cảnh khác bị thương. Những tên quân cảnh còn lại hoảng hốt kéo tên bị thương chạy ra 96 ngoài. Ra khỏi cổng, chúng chĩa súng bắn liên tục vào phân khu, nơi tù binh đang đứng làm một số người chết và nhiều người bị thương. Cuộc đấu tranh đã gây chấn động dư luận. Vụ tổ chức Đảng khu C10 lãnh đạo tổ chức đánh quân cảnh cũng là một điển hình. Vào tháng 1-1971, tình hình các phân khu gặp nhiều khó khăn vì địch giảm bớt số lượng lương thực, thực phẩm và đồ dùng của tù binh. Sắp đến tết Nguyên đán, Đảng ủy phân khu C10 chủ trương cho tù binh tuyệt thực, đấu tranh đòi cấp đủ lương thực, thực phẩm, nước uống, quần áo để tù binh chuẩn bị đón tết. Kế hoạch Đảng ủy đưa ra được tù binh toàn phân khu hưởng ứng. Cuộc tuyệt thực diễn ra sau giờ điểm danh sáng ngày 27-1-1971 tại sân của phân khu. Diễn biến cuộc tuyệt thực được Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh, Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu ghi khá rõ trong phiếu đệ trình số 630/TTK đề ngày 12-3-1971 như sau: Vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 27 tháng 1 năm 1971, những tù binh thuộc phân khu B10 sau khi tập hợp xong không chịu tan hàng, không nấu ăn và đòi Bộ Chỉ huy giải quyết các yêu sách: Gia tăng ẩm thực trong mấy ngày Tết; Nhận bưu phẩm cũng như thư từ trực tiếp từ gia đình gửi đến (không được kiểm duyệt); đòi cung cấp thêm nước uống” “Giám thị trưởng Khu A10 đã đến giải quyết nhưng không có kết quả, đến 18 giờ 30, tù binh tự giải tán về phòng. Sáng ngày 28-1-1971, tù binh không tập hợp, không đi lao tác bên ngoài và nằm tuyệt thực tại phòng. Tiếp đến 21 giờ ngày 29-1-1971, đại đội trách nhiệm khu giam vào mở cuộc lục soát điểm danh và đã gặp sự kháng cự của tù binh bằng cách la ó, đập vách tôn, một số ùa ra định bắt quân cảnh chỉ huy (trưởng khu). Toán quân cảnh lục soát đã chống cự mãnh liệt để giải vây cho sĩ quan chỉ huy lục soát và đám quân cảnh yểm trợ bên ngoài bắn chỉ thiên áp đảo để tiếp cứu. Kết quả, có một quân cảnh bị thương vì tù 97 binh đánh và một tù binh bị đạn lạc [58, tr. 2]. 3.2. ĐẤU TRANH BIẾN NHÀ TÙ THÀNH TRƯỜNG HỌC CÁCH MẠNG 3.2.1. Học tập văn hóa trong tù Trong trại giam tù binh, hầu hết các tù binh khi bị bắt có trình độ học vấn thấp, thậm chí nhiều người mù chữ. Tuy nhiên, trong tù có một bộ phận tù binh có học vấn, tri thức trên nhiều lĩnh vực như: kỹ sư, dược sĩ, y sĩ, bác sĩ, giảng viên, giáo viên, cán bộ tuyên huấn, sinh viên đại học, nhạc sĩ, họa sĩ, nghệ sĩ biểu diễn... Đặc biệt, nhiều đồng chí có kinh nghiệm giảng dạy ở ngoài đời. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức Đảng trong trại giam tập hợp tù binh là trí thức thành đội ngũ giáo viên mở lớp dạy học. Lớp học được tổ chức ở hầu khắp các phân khu trong trại giam, nên khi địch có xáo trộn, đến nơi mới, tù binh vẫn có thể tham gia học tập. Tùy tình hình từng nơi, mỗi lớp học có từ 3-5 người, nhiều nhất là 10 người, ngồi học ở ngoài sân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_hoat_dong_cua_to_chuc_dang_trong_cac_trai_giam_tu_b.pdf
Tài liệu liên quan