Tóm tắt Luận văn Giải quyết điểm nóng khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 3

Chương 1: MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ “ĐIỂM NÓNG” VÀ GIẢI QUYẾT

“ĐIỂM NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở NÔNG THÔN 8

1.1. Nhận thức về “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nôngthôn 8

1.2. Nhận thức về giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất

đai ở nông thôn 23

Chương 2: THỰC TRẠNG “ĐIỂM NÓNG” VÀ GIẢI QUYẾT “ĐIỂM

NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở NÔNG THÔN

ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ41

2.1. Thực trạng “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông

thôn đồng bằng Bắc Bộ 41

2.2. Thực trạng giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất

đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ 63

Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI

QUYẾT “ĐIỂM NÓNG” KHIẾU KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT ĐAI Ở

NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ, THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ,

HIỆN ĐẠI HOÁ78

3.1. Dự báo tình hình chung liên quan đến ANNT 78

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên

quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ 83

3.3. Một số kiến nghị 108

KẾT LUẬN 111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113

pdf48 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 587 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Giải quyết điểm nóng khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cả quyền lợi không chính đáng khi bị thu hồi đất, mà không nhận thấy hết tính chất phức tạp, hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung, ANTT nói riêng từ những vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. Tất cả những yếu tố trên đã làm nảy sinh những vụ việc tranh chấp liên quan đến đất đai, dẫn đến tình trạng tụ tập đông ngƣời kéo đến trụ sở của các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc khiếu kiện. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều yếu kém. Đây là một yếu tố tác động không nhỏ đến tình trạng tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. Khi trình độ, năng lực của cán bộ cơ sở đƣợc nâng lên thì việc triển khai thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc sẽ thuận lợi, dễ đi vào thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở nhiều địa phƣơng, trình độ của một bộ phận không nhỏ cán bộ cơ sở còn hạn chế, vẫn còn tác phong làm việc quan liêu, thái độ hách dịch, cửa quyền, dẫn đến những sai phạm trong quá trình thực hiện các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về đất đai nhƣ cấp bán đất trái thẩm quyền; lợi dụng chủ trƣơng, chính sách thu hồi, 18 đền bù đất đai để thu lợi cá nhân; giải quyết các vụ tranh chấp đất đai không đúng, có sự thiên lệch Vai trò và hoạt động của các tổ chức Đảng, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở còn yếu. Các tổ chức Đảng, đoàn thể ở cơ sở có vị trí quan trọng đối với việc triển khai các chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng nhƣ giữ vững sự ổn định về ANTT. Nó đóng vai trò là cầu nối, đồng thời là nút chặn cuối cùng trong quá trình thực thi các chủ trƣơng, chính sách, pháp luật. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc có đƣợc thực thi đúng đắn, hiệu quả hay không cũng xuất phát từ cơ sở. Tuy nhiên, trên thực tế, ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ, do những nguyên nhân khác nhau, các tổ chức Đảng, đoàn thể không phát huy đƣợc hết vai trò của mình. Công tác phát triển đảng ở những tổ chức Đảng ngoài cơ quan Nhà nƣớc chậm, ý thức phấn đấu của đảng viên không cao, khả năng tập hợp quần chúng hạn chế, do đó không phát huy đƣợc tác dụng khi xảy ra tranh chấp, khiếu kiện. Các đoàn thể mặc dù đầy đủ theo hệ thống ngành dọc (Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh) song hầu nhƣ hoạt động không hiệu quả. Nghiêm trọng hơn, do trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức này còn hạn chế, đã dẫn đến những sai lầm trong việc tổ chức thực hiện chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc nói chung; chủ trƣơng, chính sách về đất đai nói riêng, đặc biệt trong quá trình giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai ở cơ sở. Từ đó, đã làm mất lòng tin của nhân dân vào vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phƣơng, thậm chí còn bị nhân dân phản đối, cô lập. Ở những nơi có tranh chấp, khiếu kiện phức tạp về đất đai, hệ thống chính trị thƣờng không phát huy hiệu quả, không những không 19 giải quyết đƣợc tranh chấp, không vận động đƣợc sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, mà có nơi, có lúc còn làm cho tình hình phức tạp hơn. Công tác phòng ngừa, phát hiện các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai còn kém hiệu quả. Đối với công tác đảm bảo ANCT và TTATXH, biện pháp phòng ngừa là vô cùng quan trọng. Phát hiện sớm các yếu tố tác động, nảy sinh các vụ việc để giải quyết kịp thời là một trong các yếu tố quyết định. Làm tốt công tác phòng ngừa, phát hiện, không để xảy ra các vụ việc phức tạp sẽ giảm thiểu những ảnh hƣởng, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Đối với các vấn đề liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện về đất đai cũng vậy, nếu làm tốt công tác phòng ngừa, phát hiện kịp thời những dấu hiệu có thể nảy sinh tranh chấp, khiếu kiện trên lĩnh vực này, chúng ta có thể tiến hành các biện pháp ngăn chặn, giải quyết dứt điểm, không để xảy ra hoặc hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả tiêu cực. Tuy nhiên, thực tế những năm qua, ở nhiều địa phƣơng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, công tác phòng ngừa, phát hiện đối với loại vụ việc này còn có hạn chế. Nhiều vụ việc chƣa đƣợc phát hiện kịp thời và sau đó là chƣa chủ động giải quyết dứt điểm từ cơ sở. Bên cạnh đó, xu hƣớng giải quyết thƣờng nhằm vào vào ngƣời khiếu kiện, chƣa tìm hiểu rõ nguyên nhân, nguyên cớ dẫn đến sự việc, thậm chí có hiện tƣợng bao che cho cán bộ làm sai, dẫn đến những bức xúc, lây lan trong quần chúng nhân dân. Công tác nắm tình hình của lực lƣợng Công an còn thiếu kịp thời, dẫn đến việc tham mƣu cho cấp uỷ, chính quyền các cấp, phối hợp với các ngành tham gia giải quyết không hiệu quả. 1.1.3.2. Những nguyên nhân khách quan Tác động của mặt trái cơ chế thị trường. 20 Cơ chế thị trƣờng đã làm thay đổi cách nghĩ, cách làm trong đại bộ phận quần chúng nhân dân, góp phần không nhỏ trong việc đƣa đất nƣớc ta thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu; làm thay đổi diện mạo của đất nƣớc vốn mang nặng tính chất nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị trƣờng cũng tác động, ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Dƣới tác động của cơ chế thị trƣờng, đã hình thành lối sống thực dụng ở một bộ phận dân cƣ, chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, mà không quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội, thậm chí bất chấp pháp luật, cản trở việc thi hành các chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nƣớc và của địa phƣơng. Nhiều trƣờng hợp cán bộ, đảng viên bị suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, tìm kẽ hở của luật pháp cũng nhƣ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để mƣu cầu lợi ích cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình chuyển hoá từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trƣờng đã kéo theo tình trạng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội (nhất là ở cơ sở) chƣa thích ứng kịp thời với phƣơng thức mới, dễ dẫn tới những xung đột trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến nhu cầu, lợi ích của quần chúng. Dân chủ đƣợc mở rộng, tự do cá nhân đƣợc tôn trọng, nhƣng trình độ của nhân dân còn hạn chế, dẫn đến suy nghĩ, hành động vƣợt quá giới hạn cho phép. Những yếu tố đó đã góp phần làm nảy sinh nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai, thậm chí phức tạp, kéo dài, làm ảnh hƣởng đến ANTT, khi mà đất đai đã và đang trở thành một loại hàng hoá có giá trị. Đất nƣớc ta đang ở trong thời kỳ kinh tế có những bƣớc phát triển mạnh mẽ. Những chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nhằm thúc đấy kinh tế phát triển đã tạo điều kiện cho nhiều ngƣời trở nên giàu có, dẫn đến khoảng cách giàu - nghèo gia tăng. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đã tạo ra tâm lý bất bình, tự ty trong một bộ phận nhân dân còn có đời sống vật chất khó khăn. Bất bình đẳng 21 về thu nhập dẫn đến bất bình đẳng về mức sống, bất bình đẳng về xã hội dễ tạo ra sự bất bình đẳng về tâm lý. Điều này cũng đã tác động, ảnh hƣởng đến quá trình thu hồi đất của nhân dân, đặc biệt là đất nông nghiệp. Có một bộ phận nông dân cho rằng Nhà nƣớc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị hay các công trình phúc lợi công cộng cũng chỉ phục vụ cho những ngƣời giàu có, còn họ thì mất đất, không có việc làm, không có thu nhập. Từ đó, họ không đồng tình với chính sách thu hồi đất, cản trở việc thu hồi đất, cũng nhƣ khi bị cƣỡng chế thu hồi thì khiếu kiện đòi quyền lợi. Tác động của vấn đề tăng dân số, thất nghiệp, thiếu việc làm. Giải phóng mặt bằng, thu hồi đất đai, nhất là ở vùng nông thôn, đã nảy sinh vấn đề phức tạp về giải quyết công ăn, việc làm cho một bộ phận quần chúng nhân dân làm nông nghiệp. Không có đất canh tác, trong khi trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn thấp; yêu cầu công việc ở các khu công nghiệp đòi hỏi phải có trình độ cao, các doanh nghiệp lại không muốn mất thời gian, kinh phí để đào tạo mới nên ngƣời dân không tự tìm kiếm đƣợc công ăn, việc làm. Mặc dù Đảng, Nhà nƣớc đã có chính sách hỗ trợ để đào tạo nghề, tạo điều kiện thu hút nhân dân ở các vùng bị thu hồi đất vào làm việc trong các khu công nghiệp, song phần lớn lại không đáp ứng đƣợc yêu cầu về trình độ chuyên môn, không tự chuyển đổi đƣợc ngành nghề, nên khi bị thu hồi đất đã trở thành thất nghiệp. Bên cạnh đó, dân số tăng nhanh nên nhu cầu về đất ở, đất canh tác tăng theo. Thiếu việc làm, dẫn đến thu nhập thấp, càng làm cho việc giải quyết các vấn đề tranh chấp đất đai trở nên khó khăn, phức tạp. Sự tác động của các thế lực thù địch và bọn phản động. Các thế lực thù địch và bọn phản động chƣa bao giờ từ bỏ âm mƣu, ý đồ, hoạt động phá hoại các chủ trƣơng, chính sách nhằm mục đích cuối cùng là xoá 22 bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nƣớc. Ở một số địa phƣơng, đã phát hiện có sự tiếp tay của các thế lực thù địch từ bên ngoài thông qua một số phần tử cực đoan, chống đối ở trong nƣớc, kích động quần chúng nhân dân khiếu kiện. Mặt khác, diễn biến của các vụ tranh chấp, khiếu kiện nói chung; các vụ tranh chấp, khiếu khiện về đất đai nói riêng có những đặc điểm, yếu tố phù hợp với âm mƣu, ý đồ của địch nhƣ lôi kéo đông ngƣời tham gia, gây phức tạp tình hình về ANTT, vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc. Ở đồng bằng Bắc Bộ, mặc dù chƣa phát hiện dấu hiệu hoạt động của các thế lực thù địch ở ngoài nƣớc, song đã xuất hiện hiện tƣợng các đối tƣợng khiếu kiện có quan hệ với số đối tƣợng cơ hội chính trị, trả lời phỏng vấn của báo chí, phát thanh nƣớc ngoài, sau đó đƣợc tán phát trên mạng Internet, gây dƣ luận không tốt trong nhân dân. Ngoài ra, không loại trừ có sự tác động của các thế lực tôn giáo từ nƣớc ngoài trong việc kích động quần chúng giáo dân, tín đồ đòi lại đất đai, cơ sở vật chất của các tôn giáo trƣớc đây. Đây cũng là vấn đề cần quan tâm trong quá trình phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất đai. 1.2. Nhận thức về giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn 1.2.1. Cơ sở chính trị của giải quyết “điểm nóng” khiếu kiện liên quan đến đất đai ở nông thôn 1.2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về quản lý, sử dụng đất đai Trong những năm qua, tình hình tranh chấp, khiếu kiện về đất đai diễn biến khá phức tạp ở nhiều địa phƣơng trên cả nƣớc (trong đó có các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ). Công tác giải quyết loại vụ việc này trên thực tế cũng đã và đang gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc cả về phƣơng diện lý luận cũng 23 nhƣ thực tiễn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chƣa nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, có hiệu quả các quan điểm, chủ trƣơng của Nhà nƣớc trong công tác quản lý, sử dụng đất đai vào quá trình giải quyết. Có thể nói, Đảng và Nhà nƣớc đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản luật và dƣới luật quy định về các vấn đề có liên quan đến đất đai, song tựu chung lại thấy một số quan điểm. Đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước. Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Vấn đề này đã đƣợc quy định trong Hiến pháp nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992. Theo Điều 17 của Hiến pháp thì “đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nƣớc, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nƣớc đầu tƣ vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nƣớc, đều thuộc sở hữu toàn dân”[12, tr.19]. Điều 18 của Hiến pháp cũng quy định “Nhà nƣớc thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nƣớc giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”[12, tr.19]. Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005 của nƣớc ta cũng quy định: “Đất đai thuộc hình thức sở hữu Nhà nƣớc, do Chính phủ thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác đƣợc xác lập do Nhà nƣớc giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng đƣợc xác lập do đƣợc 24 ngƣời khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Điều 5 Luật Đất đai quy định về sở hữu đất đai nhƣ sau: 1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu. 2. Nhà nƣớc thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai. 3. Nhà nƣớc thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai. 4. Nhà nƣớc trao quyền sử dụng đất cho ngƣời sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với ngƣời đang sử dụng đất ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của ngƣời sử dụng đất”. Đối với việc quản lý nhà nƣớc về đất đai, Điều 6 của Luật Đất đai quy định: “Nhà nƣớc thống nhất quản lý về đất đai. Nhà nƣớc có chính sách đầu tƣ cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về đất đai, xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, đủ năng lực, bảo đảm quản lý đất đai có hiệu lực và hiệu quả”. Ngoài ra, Nhà nƣớc cũng quy định rõ về trách nhiệm hình sự của các cá nhân trong quản lý, sử dụng đất đai. Theo Điều 173 Bộ luật hình sự nƣớc CHXHCN Việt Nam năm 1999 quy định “tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” thì: 1. Ngƣời nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nƣớc về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chƣa đƣợc xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 25 2. Phạm tội thuộc một trong trƣờng hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mƣơi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức. b) Phạm tội nhiều lần. c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mƣơi triệu đồng”[13, tr.123-124]. Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 1999 cũng quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: 1. Ngƣời nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Đất có diện tích lớn hoặc giá trị lớn; b) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”[13, tr.124]. Nhƣ vậy, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nƣớc thống nhất quản lý bằng pháp luật. Trên cơ sở nhu cầu chính đáng của cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp cũng nhƣ quy hoạch để phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nƣớc giao đất cho cá nhân hoặc tổ chức tạm thời quản lý và sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả phần diện tích đất đƣợc giao. Cá nhân hay tổ chức không có quyền định đoạt đối 26 với đất đai. Vì vậy, khi Nhà nƣớc có yêu cầu cần thu hồi đất để phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, mỗi cá nhân cũng nhƣ các cơ quan, tổ chức cần phải chấp hành nghiêm chỉnh. Trong trƣờng hợp cá nhân hay tổ chức có những vi phạm về quản lý, sử dụng đất đai thì tuỳ theo tính chất, mức độ có thể bị xử lý hành chính, hoặc bị xử lý theo pháp luật hình sự. Khi cần thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích phúc lợi công cộng, phát triển kinh tế hoặc vì mục đích an ninh, quốc phòng, Nhà nước đền bù thoả đáng cho các tổ chức và cá nhân đang sử dụng đất. Điều 38 của Luật Đất đai quy định các trƣờng hợp thu hồi đất, trong đó khoản 1 đề cập đến trƣờng hợp “Nhà nƣớc sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”[09]. Luật đất đai cũng đã quy định cụ thể về việc thu hồi đất đối với từng trƣờng hợp, cụ thể: + Điều 39. “Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng: 1. Nhà nƣớc thực hiện việc thu hồi đất, bồi thƣờng giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đƣợc công bố hoặc khi dự án đầu tƣ có nhu cầu sử dụng đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền xét duyệt. 2. Trƣớc khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mƣơi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mƣơi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền phải thông báo cho ngƣời bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phƣơng án tổng thể về bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng, tái định cƣ. 3. Sau khi có quyết định thu hồi đất và phƣơng án bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng, tái định cƣ đã đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền xét duyệt, đƣợc 27 công bố công khai, có hiệu lực thi hành, ngƣời bị thu hồi đất phải chấp hành quyết định thu hồi đất. Trƣờng hợp ngƣời bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cƣỡng chế. Ngƣời bị cƣỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết định cƣỡng chế và có quyền khiếu nại”. + Điều 40. “Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế: 1. Nhà nƣớc thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trƣờng hợp đầu tƣ xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tƣ lớn theo quy định của Chính phủ. Việc thu hồi đất đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật này. 2. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã đƣợc xét duyệt thì nhà đầu tƣ đƣợc nhận chuyển nhƣợng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất”. Việc bồi thƣờng cho ngƣời có đất bị thu hồi, cũng đƣợc quy định trong Luật đất đai. Theo Điều 42 về “Bồi thƣờng, tái định cƣ cho ngƣời có đất bị thu hồi: 1. Nhà nƣớc thu hồi đất của ngƣời sử dụng đất mà ngƣời bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để đƣợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì ngƣời bị thu hồi đất đƣợc bồi thƣờng, trừ trƣờng hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ, g khoản 1 Điều 43 của Luật này. 2. Ngƣời bị thu hồi loại đất nào thì đƣợc bồi thƣờng bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thƣờng thì đƣợc bồi thƣờng bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi 28 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng lập và thực hiện các dự án tái định cƣ trƣớc khi thu hồi đất để bồi thƣờng bằng nhà ở, đất ở cho ngƣời bị thu hồi đất ở mà phải chuyển chỗ ở. Khu tái định cƣ đƣợc quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Trƣờng hợp không có khu tái định cƣ thì ngƣời bị thu hồi đất đƣợc bồi thƣờng bằng tiền và đƣợc ƣu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nƣớc đối với khu vực đô thị; bồi thƣờng bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trƣờng hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở đƣợc bồi thƣờng thì ngƣời bị thu hồi đất đƣợc bồi thƣờng bằng tiền đối với phần chênh lệch đó. 4. Trƣờng hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thƣờng cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc bồi thƣờng bằng tiền, ngƣời bị thu hồi đất còn đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới. 5. Trƣờng hợp ngƣời sử dụng đất đƣợc Nhà nƣớc bồi thƣờng khi thu hồi đất mà chƣa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chƣa đƣợc thực hiện trong giá trị đƣợc bồi thƣờng, hỗ trợ 6. Chính phủ quy định việc bồi thƣờng, tái định cƣ cho ngƣời có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất”. Ngày 25/5/2007, Chính phủ đã ra Nghị định số 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Nghị định đã quy định rõ về các trƣờng hợp đƣợc bồi thƣờng, hỗ trợ khi Nhà nƣớc thu hồi đất nhƣ: hỗ trợ đối với 29 đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cƣ và đất vƣờn, ao liền kề với đất trong khu dân cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất (Điều 43); bồi thƣờng, hỗ trợ về đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất đối với đất sử dụng trƣớc ngày 15/10/1993 mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất (Điều 44); bồi thƣờng, hỗ trợ về đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất đối với đất sử dụng từ ngày 15/10/1993 trở về sau mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất (Điều 45); bồi thƣờng, hỗ trợ về đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất đối với đất đƣợc giao không đúng thẩm quyền trƣớc ngày 01/7/2004 nhƣng đã nộp tiền để đƣợc sử dụng đất mà chƣa đƣợc cấp Giấy chứng nhận (Điều 46); bồi thƣờng, hỗ trợ về đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất đối với trƣờng hợp diện tích đo đạc thực tế khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất (Điều 47); bồi thƣờng bằng đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất nông nghiệp (Điều 48); Ngoài ra, Nghị định 84/2007/NĐ-CP cũng quy định rõ về trình tự, thủ tục thu hồi đất và thực hiện việc bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất (Điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 60), bổ sung thêm một số quy định trong việc giải quyết khiếu nại về đất đai (Điều 63, 64, 65). Ngày 15/6/2007, Bộ Tài nguyên và môi trƣờng cũng đã ra Thông tƣ số 06/2007/TT- BTNMT hƣớng dẫn thực hiện Nghị định này của Chính phủ. Do đó, mặc dù đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nƣớc thống nhất quản lý và thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai, song khi đã giao cho cá nhân, tổ chức sử dụng, nếu Nhà nƣớc có nhu cầu thu hồi để phục vụ cho mục đích an ninh, quốc phòng, phát triển kinh tế, vì lợi ích chung của đất nƣớc, của cộng đồng thì Nhà nƣớc sẽ căn cứ vào đặc điểm, tình hình thực tế để có chính sách hỗ trợ, đền bù một cách thoả đáng cho cá nhân hay tổ chức đã đƣợc giao quyền sử dụng đất. 30 Mọi khiếu nại về đất đai sẽ được giải quyết theo pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng khiếu nại, tố cáo để gây rối ANTT. Theo Điều 138 Luật Đất đai về giải quyết khiếu nại về đất đai thì: “Ngƣời sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai”. Điều này cũng quy định về thẩm quyền, hình thức giải quyết các khiếu nại về đất đai. Còn đối với việc giải quyết tố cáo về đất đai, Điều 139 Luật Đất đai quy định: “Cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai. Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”. Theo Điều 54 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định về giải quyết khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất thì: “Việc giải quyết khiếu nại thực hiện theo quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai, Điều 63 và Điều 64 Nghị định này và quy định giải quyết khiếu nại tại Nghị định số 136/2006/NĐ-CP”. Theo quy định về việc khiếu nại, tố cáo, Điều 4 Luật khiếu nại, tố cáo (sửa đổi năm 2004) nêu rõ: “Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo phải đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật”. Điều 16 của Luật này cũng quy định “nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo; đe doạ, trả thù, trù dập ngƣời khiếu nại, tố cáo; tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của ngƣời tố cáo; cố tình không giải quyết hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo trái pháp luật; bao che cho ngƣời bị khiếu nại, tố cáo; can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; kích động, cƣỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc ngƣời khác khiếu nại, tố cáo sai sự thật; đe doạ ngƣời có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo; lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối trật tự”. Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 17 Luật khiếu nại, tố cáo quy định ngƣời khiếu nại có 31 nghĩa vụ “khiếu nại đến đúng ngƣời có thẩm quyền; trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho ngƣời giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật”. Khoản 2 Điều 57 của Luật khiếu nại, tố cáo cũng nêu nghĩa vụ của ngƣời tố cáo là “trình bày trung thực về nội dung tố cáo; nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình; chịu trách nhiệm trƣớc pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l2_01854_4852_2003140.pdf
Tài liệu liên quan