Luận văn Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Mở đầu.1

Chƣơng 1. Mâu thuẫn, các phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn và một số vấn đề về

nhận thức phƣơng pháp luận kết hợp các mặt đối lập trong quá trình phát

triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay .7

1.1. Vài nét khái quát về mâu thuẫn .7

1.1.1. Khái niệm mâu thuẫn.7

1.1.2. Mặt đối lập.7

1.1.3. Mối quan hệ giữa các mặt đối lập.9

1.1.4. Mâu thuẫn trong xã hội.13

1.2. Các phương thức giải quyết mâu thuẫn .17

1.2.1. Vai trò động lực của việc giải quyết mâu thuẫn .17

1.2.1. Các cách thức, hình thức giải quyết mâu thuẫn.18

1.3. Một số vấn đề về nhận thức phương pháp luận kết hợp các mặt đối lập trong quá

trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay .25

Chƣơng 2. Thực trạng một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát

triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay . 29

2.1. Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định chính trị.29

2.1.1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị.29

2.1.2. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị và mâu thuẫn nảy sinh .34

2.2. Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng tế với công bằng xã hội .41

2.2.1. Quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội .41

2.2.2. Mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã hội . 43

2.3. Mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc . 48

2.3.1. Bản sắc văn hóa và vai trò vị trí của nó trong bối cảnh hiện nay . 48

2.3.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bản sắc văn hóa dân tộc và mâu thuẫn

phát sinh . 515

Chƣơng 3. Một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết một số mâu

thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nạmhiện nay . 58

3.1. Một số giải pháp chung nhằm giải quyết một số mâu thuẫn nảy sinh

trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay. 58

3.1.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinhtế 58

3.1.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất

đạo đức cho chủ thể cách mạng . 61

3.1.3. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn phục vụ cho việc kết hợp các

mặt đối lập. 62

3.2. Một số giải pháp cụ thể giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình

phát triển kinh tế hiện nay. 64

3.2.1. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với giữ vững ổn

định chính trị . 64

3.2.2. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội . 75

3.2.3. Giải pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi liền với giữ gìn bản sắc văn hóa

dân tộc. 76

Kết luận .78

Danh mục tài liệu tham khảo .80

pdf38 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 659 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể là sự đối lập giữa các thuộc tính không cơ bản. Ví như việc người ta xác định mâu thuẫn đối kháng hay không đối kháng trên cơ sở căn cứ vào sự đối lập giữa lợi ích cơ bản hay không cơ bản của các giai cấp, các lực lượng xã hội. Thứ ba, tất cả các mặt đối lập dù là đối lập giữa những sự vật, giữa những sự vật hay hệ thống,... đều xuất phát từ những thuộc tính nhất định. Bản chất của một mâu thuẫn được quy định bởi sự đối lập của những thuộc tính tất nhiên, ở các mặt hợp thành mâu thuẫn ấy. Ví dụ, từ những sự đối lập giữa các thuộc tính: chiếm hữu tư liệu sản xuất và không có tư liệu sản xuất, làm chủ và làm thuê, bóc lột và bị bóc lột, áp bức và bị áp bức, thống trị và bị thống trị đã tạo thành sự đối lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. 1.1.3. Mối quan hệ giữa các mặt đối lập * Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh lại rằng, khi nói tới sự đồng nhất, xâm nhập lẫn nhau, phù hợp với nhau làm tiền đề cho nhau... là khía cạnh thuộc về mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập. Ngược lại sự đối lập, sự mất cân đối, địa vị không ngang nhau, sự tác động ngược chiều, kìm hãm bài trừ, phủ định, chống đối lẫn nhau, thuộc về khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập, trong đó sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thực chất là sự bài trừ, chống đối, phủ định lẫn nhau giữa chúng. 15 * Sự chuyển hóa của các mặt đối lập Ngoài quan hệ thống nhất và đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt đối lập cũng là một trong những nét đặc trưng của mâu thuẫn. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập bao gồm sự chuyển hóa từ mặt này sang mặt khác và chuyển hóa về địa vị của các mặt đối lập. Về vấn đề này trong tác phẩm bút ký triết học V.I.Lênin viết: “phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, - trong những điều kiện nào chúng đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau, - tại sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ mà là sinh động, có điều kiện, sinh động, chuyển hóa lẫn nhau” [24, tr.116-117]. Sự chuyển hóa từ mặt này sang mặt khác của các mặt đối lập trong mỗi trường hợp cụ thể cần được hiểu một cách khác nhau, không được đồng nhất khái niệm trừu tượng này với sự trực tiếp biến đổi từ mặt này sang mặt kia. Chẳng hạn sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả là, nguyên nhân sinh ra kết quả, kết quả được sinh ra lại tác động với sự vật, hiện tượng khác trở thành nguyên nhân của một kết quả khác. Trong quá trình nhận thức, sự chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng có nghĩa là bản chất được biểu hiện ra ở các hiện tượng và từ chỗ phân tích các hiện tượng con người dần dần tiếp cận và tìm ra bản chất của sự vật. Sự chuyển hóa về địa của các mặt đối lập cũng tùy từng trường hợp mà có cách hiểu khác nhau và được áp dụng trong những mâu thuẫn cụ thể. Quan hệ địa vị các mặt đối lập cũng có sự thay đổi trong những giai đoạn khác nhau của mâu thuẫn đó; nếu ở giai đoạn này, mặt này giữ vai trò chủ đạo, quyết định xu thế, chiều hướng vận động, phát triển của sự vật, thì trong giai đoạn khác, vai trò đó lại chuyển sang mặt đối lập khác. 16 Ở những góc độ tiếp cận khác nhau, tùy vào vai trò, vị trí của mâu thuẫn trong hệ thống mâu thuẫn của sự vật, người ta phân ra các loại mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản (được xác định dựa trên ý nghĩa đối với suốt quá trình tồn tại và phát triển của sự vật). Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện tượng. Nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở nảy sinh và quyết định các mâu thuẫn không cơ bản khác - khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật - không quyết định sự vận động, phát triển của toàn bộ sự vật hiện tượng - mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật hiện tượng thay đổi căn bản về chất. Việc xác định được mâu thuẫn cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động cải tao thực tiễn. Ví dụ: Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở xác định đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ (là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam yêu nước đang đấu tranh với chủ nghĩa thực dân, để quốc; mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và nhân dân lao động với giai cấp địa chủ Phong kiến) để từ đó đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta (đánh đuổi bọn thực dân đế quốc giành độc lập dân tộc; đánh đổ và xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân). Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong một giai đoạn nhất định, người ta chia các mâu thuẫn thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. 17 Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu ở cùng một giai đoạn. Việc xác định mâu thuẫn chủ yếu của sự vật hiện tượng là cơ sở để xác định các nhiệm vụ trung tâm trước mắt cần tập trung giải quyết. Sự phát triển hơn nữa của sự vật, sự chuyển hóa sang giai đoạn tồn tại khác của nó tùy thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn cơ bản có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản hay kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản trong một giai đoạn nhất định, việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ góp phần từng bước giải quyết mâu thuẫn cơ bản. Xét về vị trí các mặt đối lập đối với sự vật được xem xét, người ta phân chia mâu thuẫn biện chứng thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong của sự vật là mâu thuẫn mà hai mặt đối lập đều nằm trong sự vật đó. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật đó với sự vật khác. Ví dụ như mâu thuẫn giữa các giai cấp trong một xã hội là mâu thuẫn bên trong. Còn mâu thuẫn giữa các quốc gia, các nhà nước là mâu thuẫn bên ngoài. Tuy nhiên, không nên hiểu mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn của toàn bộ sự vật đó với sự vật khác mà chỉ là mâu thuẫn giữa một mặt của sự vật đó với một mặt của sự vật khác. Ví như, mâu thuẫn trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta không nên hiểu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với nhân dân Pháp mà phải được hiểu một cách chính xác là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc với bọn thực dân Pháp. Sự phân biệt giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối, tùy theo phạm vi xem xét của chủ thể. Chẳng hạn, nếu đứng trên phạm vi quốc gia mà xem xét thì mâu thuẫn giữa nước đó và nước khác là mâu 18 thuẫn bên ngoài; còn nếu xem xét là cả xã hội loài người trong chỉnh thể thì những mâu thuẫn giữa các nước là mâu thuẫn bên trong của xã hội loài người. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định còn mâu thuẫn bên ngoài tuy cũng rất quan trọng nhưng không giữ vai trò quyết định. Ví dụ, mâu thuẫn giữa sinh vật với môi trường tuy có vai trò quan trọng, chẳng hạn, thiếu phân bón, thiếu nước, hoặc sâu bệnh phá hoại có thể làm cho cây không phát triển hoặc chết đi, tuy nhiên yếu tố quyết định sự phát triển của sinh vật lại thuộc về sự tác động giữa các mặt đồng hóa - dị hóa, di truyền - biến dị bên trong sinh vật đó. Tương tự như vậy, sự vận động, phát triển của một dân tộc, về lâu về dài do mâu thuẫn bên trong, lực lượng bên trong của dân đó quyết định; còn sự tác động, hỗ trợ từ bên ngoài nhiều khi cũng rất quan trọng trong những thời điểm nhất định, nhưng không giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình phát triển của dân tộc đó. 1.1.4. Mâu thuẫn trong xã hội Mâu thuẫn xã hội “là sự thống nhất và đấu tranh giữa những con người (tồn tại dưới nhiều cấp độ khác nhau, giữa các khuynh hướng các lực lượng và các thực thể - thiết chế xã hội tưng ứng) có lợi ích đối lập nhau tạo thành nguồn gốc phát triển của xã hội” [46, tr.44]. Xã hội ra đời từ tự nhiên, là giai đoạn phát triển cao của tự nhiên. Chính vì thế quy luật mâu thuẫn - quy luật phổ biến của thế giới vật chất - cũng là quy luật phổ biến trong lĩnh vực xã hội. Sự tồn tại, phát triển và giải quyết mâu thuẫn trong xã hội cũng có tính khách quan như mâu thuẫn trong tự nhiên. Song bên cạnh đó, mâu thuẫn xã hội có một số đặc điểm khác với mâu thuẫn trong tự nhiên cụ thể: 19 Trước hết là quan hệ chủ thể - khách thể: Khác với mâu thuẫn trong tự nhiên không có quan hệ chủ thể - khách thể, mâu thuẫn xã hội là biểu hiện của những mối quan hệ xã hội nhất định và do đó luôn liên hệ bằng cách này hay cách khác với những chủ thể nhất định. Chủ thể của mâu thuẫn xã hội có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong trường hợp một trong những mặt đối lập là cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc gia, v.v., còn mặt kia là tự nhiên, là khách thể thì người ta coi chủ thể là trực tiếp hoặc trong trường hợp cả hai mặt đối lập là con người - mỗi mặt đối lập vừa là khách thể vừa là chủ thể so với mặt kia. Ví dụ, trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nếu đứng về phía giai cấp vô sản thì giai cấp vô sản là chủ thể so với giai cấp tư sản là khách thể; còn ngược lại nếu đứng về phía giai cấp tư sản thì giai cấp tư sản là chủ thể so với giai cấp vô sản - lúc này đóng vai trò là khách thể. Người ta gọi chủ thể của mâu thuẫn xã hội là gián tiếp khi những mặt đối lập của nó không phải là con người mà thay vào đó là những vật, những thuộc tính của những sự vật với tính cách là kết quả lao động của con người. Ví như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ lỗi thời. Tuy nhiên, đằng sau mâu thuẫn của những sự vật, những thuộc tính của sự vật ấy là biểu hiện mâu thuẫn giữa con người với con người. Ở đặc điểm này của mâu thuẫn xã hội, điều cần lưu tâm là mâu thuẫn xã hội không thể tồn tại bên ngoài những con người cụ thể. Không thể hình dung được một mâu thuẫn xã hội nào mà lại có thể thiếu đi bóng dáng của con người. Và khi phân tích mâu thuẫn xã hội ngoài việc chỉ ra những tính chất, khuynh hướng trái ngược nhau chủ thể cần gắn những tính chất, khuynh hướng đó với những con người nhất định hay nói rõ hơn là chỉ ra mối liên quan như thế nào của chúng tới những con người nhất định. 20 Thứ hai, mâu thuẫn xã hội là mâu thuẫn về lợi ích: Thực chất của mâu thuẫn xã hội là mâu thuẫn về những lợi ích ngược chiều nhau của những con người nhất định (ở đây có thể là lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội,...). Ở những nhóm xã hội có lợi ích ngược chiều nhau tức là nhóm xã hội này xâm phạm lợi ích của nhóm xã hội khác, thì giữa họ sẽ xuất hiện sự đấu tranh nhằm đảm bảo lợi ích của mình. Cũng cần nói thêm là, nhu cầu và lợi ích của con người rất đa dạng và phong phú, nhu cầu đó xét ở những lĩnh vực khác nhau của xã hội thì bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hóa, tinh thần, trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích căn bản nhất. Một khi những nhóm xã hội có sự đối lập về lợi ích căn bản có tính chất sống còn thì giữa họ có mâu thuẫn đối kháng với nhau. Thứ ba, mâu thuẫn xã hội có tính khách quan - chủ quan: Xét về bản chất mâu thuẫn xã hội là sự thống nhất và đấu tranh của những tính chất, những khuynh hướng khách quan. Tính khách quan của nó biểu hiện ở chỗ: sự ra đời và tồn tại của nó không phụ thuộc vào ý thức của bất kỳ cá nhân nào, giai cấp nào; trong những điều kiện nhất định mâu thuẫn đó là không tránh khỏi, không thể xóa bỏ được. Thí dụ, trong mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính chất tư bản chủ nghĩa của sự chiếm hữu, ta thấy hai mặt đó đều có tính khách quan không phụ thuộc vào ý thức của giai cấp vô sản hay giai cấp tư sản. Mâu thuẫn này biểu hiện thành sự đối kháng về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; sự đối kháng này cũng có tính tất yếu, khách quan. Tuy nhiên, sự đối lập giữa vô sản và tư sản, biểu hiện thành sự đấu tranh giữa giữa hai giai cấp, phải thông qua sự nhận thức của những cá nhân nhất định của những cá nhân trong hai giai cấp đó, và ở góc độ này, mâu thuẫn xã hội đã bao hàm tính chủ quan của nó. 21 Thứ tư, mâu thuẫn xã hội có tính lịch sử: Tính lịch sử của mâu thuẫn xã hội biểu hiện ở chỗ, các hiện tượng xã hội thường biến đổi nhanh hơn so với các hiện tượng tự nhiên. Càng dần về sau, xã hội biến đổi với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Khi một hình thái kinh tế - xã hội này được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội khác thì mâu thuẫn cơ bản của nó và những mâu thuẫn nảy sinh từ mâu thuẫn cơ bản đó cũng mất theo. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng mỗi một hình thái - kinh tế xã hội nhất định cũng có những biểu hiện đặc thù của chúng chẳng hạn sự biểu hiện khác nhau của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và sự biểu hiện khác nhau trong xã hội tư bản chủ nghĩa và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một ví dụ về tính lịch sử của mâu thuẫn xã hội. Một đặc điểm khác của mâu thuẫn xã hội là sự đấu tranh của các mặt đối lập trong xã hội là hoạt động có tổ chức: Sự nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã hội dù là mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội, giữa những nhóm xã hội hay mâu thuẫn giữa những tổ chức xã hội ít nhiều đều phải thông qua những tổ chức xã hội nhất định (Trong xã hội có giai cấp, các tổ chức xã hội ít nhiều mang tính giai cấp, là đại diện cho lợi ích và quyền lực của một giai cấp nhất định). Vì lẽ đó, sự can thiệp cải các tổ chức xã hội vào mâu thuẫn xã hội là điều không tránh khỏi mà thậm chí là cần thiết được xem như là yếu tố tất yếu của quá trình vận động và giải quyết mâu thuẫn xã hội. Cũng cần thấy rằng việc can thiệp của các tổ chức xã hội vào giải quyết mâu thuẫn xã hội dù là tất yếu nhưng không phải lúc nào sự can thiệp ấy cũng đúng mà còn có cả những trường hợp can thiệp không đúng với bản chất của mâu thuẫn khách quan. Sự sai lầm trong nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã hội bên cạnh nguyên nhân giai cấp, còn có thể xuất phát từ trình độ nhận thức và 22 tổ chức thực hiện của các tổ chức xã hội, nhất là tổ chức nhà nước - tổ chức xã hội quan trọng nhất trong xã hội có giai cấp. Như vậy, có thể nói sự can thiệp của các tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước vào quá trình nhận thức và giải quyết mâu thuẫn xã hội là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần có tư tưởng tránh can thiệp một cách chủ quan, thô bạo vào quá trình khách quan của mâu thuẫn xã hội. 1.2. Các phƣơng thức giải quyết mâu thuẫn 1.2.1. Vai trò động lực của việc giải quyết mâu thuẫn Trước hết cần khẳng định rằng mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Bởi lẽ, mâu thuẫn bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh lẫn nhau của các mặt đối lập. Trong đó, sự thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Chính ở nghĩa này V.I.Lênin đã viết: “sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập” [24, tr.379]. Tuy nhiên, nếu không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có sự đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Hơn nữa sự vận động, phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Trong khi đó, thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, ta có thể khẳng 23 định, mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) vừa là nguồn gốc vừa là động lực của vận động và phát triển. Tuy nhiên, nếu xem xét mâu thuẫn ở từng khâu, từng giai đoạn nhất định của nó chúng ta sẽ thấy sự khác nhau trong vai trò động lực của các mặt (thống nhất và đấu tranh) đó đối với mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi mâu thuẫn chưa phát triển đến giai đoạn chín muồi thì sự thống nhất của các mặt đối lập có vai trò rất quan trọng, lúc này đấu tranh phải phục tùng sự thống nhất. Nhưng, khi mâu thuẫn đã phát triển lên giai đoạn “chóp đỉnh” thì sự đấu tranh giữa các mặt đối lập để phá vỡ thống nhất cũ, thiết lập thể thống nhất mới có vai trò quan trọng hơn. Tất cả các mặt các khâu, của mâu thuẫn đều có vai trò đối với quá trình phát triển của sự vật. Tuy nhiên, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nếu không gắn liền với việc giải quyết đúng quy luật, nghĩa là mâu thuẫn không được giải quyết thường xuyên và kịp thời, hoặc chỉ được giải quyết một cách chủ quan tùy tiện, thì mâu thuẫn sẽ tích tụ lại, sự phát triển bị chặn lại và sự vật bị biến dạng. Vì vậy, có thể nói việc giải quyết mâu thuẫn là khâu quan trọng nhất trong vai trò động lực của mâu thuẫn đối với quá trình phát triển. 1.2.2. Các cách thức giải quyết mâu thuẫn Tất cả các hình thức giải quyết mâu thuẫn đều có điểm chung là khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự xung đột giữa hai mặt đối lập vĩnh viễn mất đi hoặc tạm thời lắng dịu. Chính trên cơ sở kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn này (mâu thuẫn vĩnh viễn mất đi hay mâu thuẫn vẫn còn nhưng tạm thời lắng dịu) mà người ta chia ra các cách giải quyết và hình thức giải quyết khác nhau. Mâu thuẫn được giải quyết bằng nhiều cách và hình thức đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, về đại thể việc giải quyết mâu thuẫn có thế chia làm hai cách cơ bản là loại trừ các mặt đối lập và kết hợp các mặt đối lập. 24 * Giải quyết mâu thuẫn bằng cong đường loại trừ giữa các mặt đối lập Trong tư tưởng biện chứng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, vai trò đấu tranh (loại trừ) giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn đối với sự vật được thể hiện khá rõ nét. Khi nói về vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập trong quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và “Tư bản” các ông đã chỉ rõ chính giai cấp vô sản mới là đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản chính là cuộc đấu tranh vì sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Kế thừa và tiếp thu những tư tưởng đó, V.I.Lênin cũng đã nhận mạnh tới vấn đề đấu tranh giữa các mặt đối lập và mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh của chúng đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng khách quan. Theo Người thì sự phát triển chẳng qua “là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập” [24, tr.379]. V.I.Lênin viết: “... những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau; đối lập trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội)” [24, tr.379]. Một trong những hình thức giải quyết mâu thuẫn bằng con đường loại trừ các mặt đối lập là sự chuyển hoá cuối cùng của các mặt đối lập từ mặt này sang mặt kia. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ thế giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan tức là tư duy biện chứng, thì chỉ phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ thế giới tự nhiên của toàn bộ sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, sesp (tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” [32, tr.694]. 25 Một số ví dụ cho hình thức giải quyết này như: giữa cái mới và cái cũ; giữa các hình thái kinh tế - xã hội... Cái mới ra đời từ cái cũ, là mặt đối lập với cái cũ, hợp thành với cái cũ thành một mâu thuẫn. Sự giải quyết mâu thuẫn này chính là cái mới phủ định cái cũ, đưa sự vật tiến lên một trạng thái mới về chất. Khi đó, cái mới không còn là một mặt nữa, mà trở thành một sự vật mới có mâu thuẫn mới. Chẳng hạn, xem xét sự phủ định của chế độ tư bản chủ nghĩa đối với chế độ phong kiến ta sẽ thấy rõ điều đó. Thoạt đầu những tiền đề của chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong lòng hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, là mặt đối lập của chế độ phong kiến. Kết quả của cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập này là chế độ tư bản chủ nghĩa phủ định chế độ phong kiến - hay nói cách khác là sự chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư bản chủ nghĩa từ chỗ là mầm mống trong chế độ phong kiến đã trở thành một sự vật độc lập. Việc giải quyết mâu thuẫn bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập còn được thực hiện bằng việc cả hai mặt của mâu thuẫn đều mất đi, sự vật chuyển lên một chất mới, với mâu thuẫn mới. Ở đây, có thể xem việc mất đi của cả hai giai cấp vô sản và tư sản khi mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản được giải quyết một cách triệt để là một ví dụ như thế. Cũng cần lưu ý thêm rằng, việc giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn chỉ được thực hiện khi mâu thuẫn đã phát triển lên đến chóp đỉnh của nó. V.I.Lênin viết: “Chỉ khi nâng lên chóp đỉnh của mâu thuẫn thì những cái nhiều hình, nhiều vẻ mới trở nên năng động và chống đối nhau, - và mới chứa đựng một tính phủ định, tức là sự phốc động bên trong của sự tự vận động và của sức sống” [24, tr.152]. Nói tóm lại, việc giải quyết mâu thuẫn thông qua con đường đấu tranh (loại trừ) giữa các mặt đối lập xét đến cùng nhằm tạo ra sự chiến thắng của mặt 26 đối lập này đối với mặt đối lập còn lại trong một mâu thuẫn, thông qua đó giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn xác định. Nói như vậy, không có nghĩa là đồng nhất việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách tiêu diệt, loại bỏ một trong hai mặt đối lập hợp thành mâu thuẫn một cách chủ quan, bất chấp những điều kiện cụ thể. Hậu quả của việc giải quyết mâu thuẫn như thế có thể biến một mặt vốn là cái phiến diện, cái bộ phận thành cái toàn thể, cái tương đối thành cái tuyệt đối. Việc đó không những không giải quyết được mâu thuẫn mà ngược lại sẽ làm biến dạng mâu thuẫn. * Giải quyết mâu thuẫn bằng con đường kết hợp các mặt đối lập Trong đời sống hiện thực, việc giải quyết mâu thuẫn không phải lúc nào cũng bằng cách mặt này chiến thắng mặt kia, mà nhiều khi mâu thuẫn được giải quyết bằng cách dung hợp, kết hợp cả hai mặt đối lập lại với nhau tạo thành một sự vật mới. Xuất phát từ việc nhận thức sự thống nhất khách quan, từ những điểm chung vốn có giữa các mặt đối lập, đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu hoạt động thực tiễn xã hội của mình, con người có thể chủ động tiến hành kết hợp các yếu tố, thậm chí các mặt đối lập nào đó nhằm giải quyết được những mâu thuẫn xã hội cụ thể, đem lại lợi ích cụ thể cho chủ thể con người. Việc giải quyết mâu thuẫn xã hội về bản chất là biểu hiện hoạt động của chủ thể con người. Do đó, quá trình giải quyết mâu thuẫn cũng in dấu ấn của chủ thể. Điều đó được biểu hiện ở phương pháp giải quyết mâu thuẫn mà chủ thể sử dụng trong việc giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể. Trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, chủ thể có thể tìm ra phương pháp giải quyết mâu thuẫn thích hợp nhất để có thể giải quyết hiệu quả nhất mâu thuẫn xã hội cụ thể. Chính trong hoạt động tự giác như thế, trong điều kiện cho phép, chủ thể có thể sử dụng phương pháp kết hợp 27 các mặt đối lập, coi đó như là một hình thức cụ thể để các mặt đối lập thực hiện sự đấu tranh của chúng, dẫn đến việc giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể theo hướng có lợi cho chủ thể. Cũng vì lẽ đó, việc tiến hành kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn xã hội, rõ ràng không phải là giải pháp duy nhất và cũng không phải là giải pháp có thể áp dụng đối với mọi trường hợp. Trong quá trình vận động, phát triển của mâu thuẫn, tùy thuộc vào tương quan giữa các mặt đối lập của nó, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh trong đó mâu thuẫn nảy sinh và phát triển, mà có thể có những hình thức, biện pháp giải quyết mâu thuẫn cụ thể. Chẳng hạn đối với mâu thuẫn đối kháng, phương pháp giải quyết nhìn chung là sử dụng bạo lực, loại trừ một mặt đối lập nào đó. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể, khi giữa hai lực lượng xã hội cụ thể tồn tại với tư cách là hai mặt đối lập của nhau, mặc dù xét về bản chất vẫn có sự đối kháng về mặt lợi ích

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l2_01843_0677_2003131.pdf
Tài liệu liên quan