LỜI CAM ĐOAN .i
LỜI CẢM ƠN.ii
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ.v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .vi
LỜI MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC
CÔNG TRÌNH CẤP NƯỚC SINH HOẠT NÔNG THÔN .6
1.1 Cơ sở lý luận.6
1.1.1 Một số khái niệm, đặc điểm và vai trò hệ thống công trình cấp nước sinh
hoạt nông thôn .6
1.1.2 Nội dung công tác quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn.9
1.1.3 Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác quản lý các công trình cấp nước sinh
hoạt nông thôn .15
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý các công trình cấp nước sinh
hoạt nông thôn .17
1.2 Cơ sở thực tiễn .19
1.2.1 Các mô hình quản lý, vận hành công trình cấp nước sạch .20
1.2.2 Kinh nghiệm quản lý các công trình cấp nước sạch.22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .26
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁC CÔNG TRÌNH
CẤP NƯỚC SẠCH NÔNG THÔN ĐANG THỰC HIỆN VÀ ĐÃ ĐƯA VÀO SỬ
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HẠ HÒA .27
2.1 Khái quát chung tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Hạ Hòa.27
2.1.1 Khái quát đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội huyện Hạ Hòa .27
2.1.2 Nhận xét về hiện trạng phát triển kinh tế.32
2.2 Thực trạng về quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt đang thực hiện và đã
bàn giao vận hành.33
2.2.1 Chính sách của tỉnh và tình hình thực tế các công trình cấp nước sinh hoạt
nông thôn trên địa bàn huyện .33
2.2.2 Các mô hình quản lý hệ thống cấp nước trên địa bàn huyện.37
88 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 19/02/2022 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả công tác quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tại địa bàn huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những
bước phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 13,22%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y
tế tăng, đạt 84,36%. Có 90,59 % hộ gia đình, 85,07% khu dân cư và 92% cơ quan đơn
vị đạt tiêu chuẩn văn hóa. Toàn huyện có 4 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Các chỉ tiêu
về quốc phòng an ninh được đảm bảo; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được
giữ vững.
* Về nông - lâm nghiệp
Đã mạnh dạn thay đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa
học – công nghệ vào phục vụ sản xuất. Đẩy mạnh sản xuất, hoạt động khuyến nông
bằng nâng cao dịch vụ sản xuất như cung cấp giống, thuốc bảo vệ thực vật, đầu tư vật
tư; đặc biệt là nâng cao công tác quản lý thủy lợi.
33
Công tác quản lý, bảo vệ rừng, trồng rừng có chuyển biến tích cực, nâng cao độ che
phủ rừng, cơ bản hoàn thành việc giao đất giao rừng cho nhân dân, việc khai thác rừng
được quản lý chặt chẽ.
* Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Sản xuất công nghiệp từng bước ổn định. Quan hệ sản xuất tiếp tục được củng cố, tạo
môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển CN – TTCN.
* Về thương mại - dịch vụ
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản được củng cố và phát triển. Các loại hình dịch
vụ phục vụ sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân được đa dạng hoá.
2.2 Thực trạng về quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt đang thực hiện và đã
bàn giao vận hành
2.2.1 Chính sách của tỉnh và tình hình thực tế các công trình cấp nước sinh hoạt
nông thôn trên địa bàn huyện
Về văn bản chính sách và hướng dẫn của Chính phủ quy định về hoạt động cung cấp
nước sạch nông thôn bao gồm:
- Quyết định 104/2000/QĐ-CP ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chiến lược quốc gia về Cấp nước và Vệ sinh nông thôn giai đoạn đến năm 2020;
- Quyết định 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn
giai đoạn 2016-2020;
- Quyết định số 131/2009/QĐ-TTg ngày 02/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về một
số chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý, khai thác công trình cấp nước
sạch nông thôn; Thông tư liên tịch số 37/2014/TTLT-BNNPTNT-BTC- BKHĐT ngày
31/10/2014 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 131/2009/QĐ- TTg ngày 02/11/2009
của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản
lý, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn;
34
- Thông tư số 54/2013/TT-BTC ngày 04/5/2013 của Bộ Tài Chính quy định việc quản
lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung;
- Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Chính phủ về sản xuất, cung cấp
và tiêu thụ nước sạch; Nghị định số 124/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của
Chính phủ về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch;
Về địa phương, trong phạm vi quyền hạn được quy định. Căn cứ chính sách của Trung
Ương, tỉnh Phú Thọ đã nghiên cứu xây dựng và ban hành các chính sách, kế hoạch để
quản lý và thực hiện hoạt động cấp nước nông thôn theo định hướng chung của Chính
Phủ;
Theo như nội dung đã trình bày về tính cấp thiết, điều kiện tự nhiên, tình hình dân sinh
kinh tế đã nêu ở trên. Việc đầu tư và xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt phục
vụ các hoạt động của người dân nông thôn trên địa bàn huyện Hạ Hòa đã được đội ngũ
chức năng, các phòng ban có thẩm quyền đề xuất thực hiện và phát triển nhanh chóng.
Từ những năm 1998 Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch và Vệ sinh môi
trường nông thôn (NS&VSMTNT) được triển khai tại tỉnh Phú Thọ. Mục tiêu của
chương trình là ưu tiên xây dựng công trình cấp nước tập trung, giải quyết nước sinh
hoạt cho nhân dân các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các xã
khó khăn về nguồn nước sinh hoạt hoặc có nguy cơ nguồn nước bị ô nhiễm.
Từ năm 2000 trên địa bàn huyện đã bắt đầu triển khai xây dựng công trình cấp nước
sinh hoạt nông thôn ở các xã với lưu lượng thiết kế cung cấp cho khoảng 830 người
dân; đến năm 2016 số lượng công trình đã tăng lên đáng kể giải quyết việc cung cấp
nước sinh hoạt phục vụ đời sống người dân trong các khu của 10 xã trên địa bàn
huyện.Tuy nhiên, số lượng người dân thực tế được cung cấp đấu nối còn rất ít do công
tác quản lý công trình cấp nước sau dự án không đạt hiệu quả tối ưu, việc hướng dẫn
công tác quản lý, vận hành các công trình chưa được đầu tư, giám sát, người dân thờ ơ
với công tác tuyên truyền sử dụng nước sạch.
35
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cung cấp nước sạch đến đời sống sinh hoạt
và sản xuất của người dân, nhà nước đã ban hành các văn bản hướng dẫn, các quy định
về quản lý, khai thác sử dụng công trình nước sạch:
*Trong giai đoạn từ 2006 - 2010: Thực hiện Quyết định 277/2006/QĐ-TTg Về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
giai đoạn 2006 - 2010; Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ ban hành Quyết định
1441/2007/QĐ-UBND Ban hành Quy định về quản lý, khai thác công trình cấp nước
sạch nông thôn với các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Lập hồ sơ, thực hiện các thủ tục xin cấp phép khai thác nước theo quy định của Luật
Tài nguyên nước;
- Thành lập và giao cho các tổ chức, cá nhân trong xã trực tiếp quản lý, khai thác công
trình cấp nước; phê duyệt Quy chế hoạt động của tổ chức, cá nhân được giao quản lý,
khai thác công trình cấp nước;
- Phê duyệt và chỉ đạo thực hiện phương án bảo vệ nguồn nước, bảo vệ công trình, kế
hoạch phát triển công trình cấp nước;
- Tiếp nhận, quản lý sử dụng kinh phí hỗ trợ của Nhà nước cho công tác quản lý khai
thác công trình cấp nước;
- Theo dõi, đánh giá tình hình hoạt động của công trình cấp nước, chỉ đạo thực hiện
bảo trì, bảo dưỡng công trình;
- Kiểm tra, đôn đốc và đánh giá hoạt động của các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý,
khai thác công trình cấp nước, đảm bảo hoạt động quản lý, khai thác công trình cấp
nước đúng Quy chế đã ban hành;
- Tổ chức các hoạt động truyền thông về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
nâng cao nhận thức cho người dân về quyền và nghĩa vụ trong quản lý sử dụng nguồn
nước. Ngăn chặn, xử lý các vi phạm về bảo vệ công trình, tranh chấp nguồn nước.
36
*Giai đoạn từ 2010 – 2015 (định hướng đến 2020):
Thực hiện Quyết định số 104/2010/QĐ-TTg ngày 25/8/2010 của Thủ tướng Chính Phủ
phê duyệt Chiến lược Quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020;
Ủy ban nhân dân tỉnh phú thọ ra quyết định số 491/QĐ-UBND ngày 18/02/2011 về
việc phê duyệt quy hoạch cấp nước sinh hoạt nông thôn tỉnh phú thọ giai đoạn 2010 -
2015 và định hướng đến năm 2020 đưa ra các giải pháp cấp nước cho các vùng nông
thôn trên địa bàn tỉnh.
Giải pháp đưa ra đối với huyện Hạ Hòa:
- Các xã vùng ven sông: Giải pháp cấp nước cho vùng này là cải tạo, mở rộng các
công trình cấp nước đã có và xây mới các công trình cấp nước tập trung bằng bơm dẫn
mà nguồn cấp là nước sông Thao, sông Lô, sông Chảy.
- Các xã vùng đất giữa, vùng đồi gò: Có các ngòi chảy qua và một số đầm lớn, hồ thủy
lợi có trữ lượng nước lớn đủ để cấp cho sản xuất và sinh hoạt xây dựng các công tình
cấp nước tập trung quy mô liên xã để cấp nước sinh hoạt;
- Các khu dân cư sống quá xa có công trình cấp nước tập trung hoặc các xã khan hiếm
nguồn nước mặt không có điều kiện xây dựng các công trình cấp nước tập trung thì phương
án cấp nước là cải tạo những công trình cấp nước hộ gia đình đã có như giếng khoan, giếng
đào, máng dẫn nước tự chảy đã có để đảm bảo có nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
Các văn bản hướng dẫn và kế hoạch thực hiện nêu trên do UBND tỉnh Phú Thọ ban
hành đã cụ thể hóa các quy định và hướng dẫn của Chính phủ đối với công tác tổ chức
và triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng công trình cấp nước. Bên cạnh đó, trong các
quy định và hướng dẫn này, nội dung phân giao trách nhiệm về quản lý khai thác và
vận hành các công trình CNTT được xây dựng trên địa bàn huyện và trách nhiệm về
hiệu quả hoạt động cũng đã phần nào được nêu ra.
Nhìn chung, cùng với các quy định của TW, những văn bản quy định và hướng dẫn
này đã giúp tạo dựng hành lang pháp lý và tổ chức tại cấp tỉnh, hình thành bộ máy tổ
37
chức và triển khai thực hiện các hoạt động liên quan tới lĩnh vực cấp nước nông thôn
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Tuy nhiên, liên quan trực tiếp tới việc đảm bảo hiệu quả công tác quản lý khai thác,
vận hành đối với công trình CNTT đã được xây dựng (đặc biệt là các công trình hiện
đang giao cho UBND xã quản lý), tỉnh Phú Thọ vẫn chưa có những quy định và chế
tài mạnh mẽ để cải thiện nội dung này. Các hướng dẫn của tỉnh đưa ra tuân theo định
hướng chung của Chính phủ, tuy nhiên lại chưa gắn trách nhiệm cụ thể hoặc có các
chế tài rõ ràng đối với các trường hợp đơn vị quản lý công trình cấp nước kém hiệu
quả hoặc có chậm trễ, yếu kém trong công tác báo cáo hiệu quả hoạt động của các
công trình. Đây có thể coi là một hạn chế về chính sách và hướng dẫn trong công tác
quản lý khai thác và sử dụng các công trình cấp nước tập trung nông thôn trên địa bàn
huyện Hạ Hòa nói riêng và trên toàn tỉnh nói chung.
Hiện tại, hiệu quả hoạt động của các công trình đã bàn giao cho huyện chủ yếu phụ
thuộc vào sự quan tâm vào cuộc của chính quyền UBND xã và huyện nơi có công
trình. Việc báo cáo về hiệu quả quản lý khai thác, vận hành các công trình đã xây dựng
chưa được thực hiện tốt, và mới chỉ được thực hiện khi có yêu cầu từ cấp trên (mang
tính sự vụ) nhưng chất lượng báo cáo còn hạn chế.
2.2.2 Các mô hình quản lý hệ thống cấp nước trên địa bàn huyện
2.2.2.1 Các mô hình quản lý và nội dung quản lý
Như đã trình bày ở phần 1.2.1, theo thống kê, trong lĩnh vực cấp nước nông thôn của nước
ta đã tồn tại 7 mô hình quản lý các công trình cấp nước tập trung nông thôn, bao gồm:
i) Mô hình cộng đồng, ii) Mô hình tư nhân, iii) Mô hình Hợp tác xã, iv) Mô hình
doanh nghiệp tư nhân, v) Mô hình Trung tâm Nước sinh hoạt và VSMTNT tỉnh, vi)
Mô hình UBND xã, và vii) Mô hình Ban quản lý.
Tính tới năm 2013, trước khi ra đời Thông tư 54/2013/TT-BTC do Bộ Tài chính ban
hành quy định về việc quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông
thôn tập trung. Trong báo cáo số 265/BC-SNN-CCTL ngày 15/11/2016 của Sở Nông
nghiệp và PTNT báo cáo công tác quản lý nhà nước về nước sạch nông thôn trên địa
38
bàn tỉnh Phú Thọ có nêu rõ các công trình cấp nước tập trung nông thôn của tỉnh Phú
Thọ sau khi xây dựng được phân giao cho 03 mô hình/đơn vị chính sau quản lý, vận
hành công trình: i) Mô hình quản lý bởi cộng đồng, đơn vị công lập; ii) Mô hình quản
lý bởi Trung tâm Nước sinh hoạt và VSMTNT tỉnh (Doanh Nghiệp); iii) Mô hình quản
lý bởi UBND xã và Hợp tác xã.
Các công trình cấp nước trên địa bàn huyện chủ yếu là công trình có công suất lớn và
rất lớn với quy mô cấp nước cho xã và liên xã, phạm vi kết nối rộng lớn tuy nhiên
công tác quản lý vận hành chủ yếu giao cho Ủy ban nhân dân xã và Hợp tác xã;
Hiện nay, UBND tỉnh đang lên kế hoạch áp dụng mô hình quản lý vận hành các công
trình cấp nước mới, sẽ thí điểm trên địa bàn một số huyện trong đó có huyện Hạ Hòa
là mô hình doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, doanh nghiệp tư nhân) thực hiện quản lý, vận hành các công trình CNTT nông
thôn đã xây dựng thông qua công tác đấu thầu rộng rãi.
2.2.2.2 Hiện trạng mô hình quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt
* Số lượng công trình: Hiện nay trên địa bàn huyện Hạ Hòa có tổng cộng 09 công
trình đã đưa vào vận hành và 01 công trình đang trong giai đoạn triển khai. Các công
trình cấp nước sinh hoạt đang vận hành được thống kê trong bảng 2.1:
Bảng 2.1 Các công trình cấp nước sạch trên địa bàn huyện Hạ Hòa
Tên, địa chỉ công trình
Năm
xây
dựng
Năm
đưa vào
sử dụng
Số dân phục vụ
Khối lượng
sản xuất
nước(m3)
Tỷ lệ
hao
hụt
(%) Thiết kế Thực tế
CTCN khu 4 Động Lâm, xã
Động Lâm
2002 2003 470 70 39.023 35
CTCN khu trung tâm Đan
Thượng, xã Đan Thượng
2009 2010 680 320 38.976 28
CTCN TT xã Minh Hạc, xã
Minh Hạc
2001 2002 420 330 41.446 34
CTCN TT xã Vụ Cầu, xã Vụ
Cầu, huyện Hạ Hòa
2003 2004 480 301 64.865 35
CTCN TT xã Hiền Lương, xã
Hiền Lương
2000 2001 830 432 72.000 30
39
Tên, địa chỉ công trình
Năm
xây
dựng
Năm
đưa vào
sử dụng
Số dân phục vụ
Khối lượng
sản xuất
nước(m3)
Tỷ lệ
hao
hụt
(%) Thiết kế Thực tế
CTCN TT Hạ Hoà 2 2007 2008 2000 950 228.960 34
CTCN TT xã Vĩnh Chân, xã
Vĩnh Chân
2009 2011 1286 496 46.785 24
CTCN khu 2 Văn Lang, xã Văn
Lang
2006 2010 725 465 27.771 32
CTCN khu 6,7,8 , xã Bằng Giã,
huyện Hạ Hòa
2009 2010 308 -- --
Theo bảng trên, quy mô cấp nước của các công trình còn ở mức thấp, tuy nhiên số
lượng đấu nối thực tế đến các hộ còn rất ít. Với số đấu nối của người dân hạn chế, việc
này cũng đặt ra thách thức trong công tác quản lý chi phí vận hành các công trình, hầu
hết việc quản lý gặp khó khăn trong việc thu không đủ chi, gánh nặng cho ngân sách
nhà nước. Do công suất, quy mô cung cấp nước sinh hoạt các công trình cấp nước trên
địa bàn huyện chủ yếu là trung bình và nhỏ, mô hình quản lý hiện tại ở huyện Hạ Hòa
là giao cho Ủy ban nhân dân xã và hợp tác xã quản lý.
Các mô hình quản lý công trình cấp nước hiện nay trên địa bàn huyện được thể hiện
trong bảng 2.2:
Bảng 2.2 Các mô hình quản lý công trình cấp nước trên địa bàn huyện Hạ Hòa
Tên, địa chỉ công trình
Đơn vị quản lý vận hành
CĐ HTX Tư nhân UBND xã DN TTN
CTCN khu 4 Động Lâm, xã Động
Lâm, huyện Hạ Hòa
x
CTCN khu trung tâm Đan Thượng,
xã Đan Thượng, huyện Hạ Hòa
x
CTCN TT xã Minh Hạc, xã Minh
Hạc, huyện Hạ Hòa
x
CTCN TT xã Vụ Cầu, xã Vụ Cầu,
huyện Hạ Hòa
x
40
Tên, địa chỉ công trình
Đơn vị quản lý vận hành
CĐ HTX Tư nhân UBND xã DN TTN
CTCN TT xã Hiền Lương, xã Hiền
Lương, huyện Hạ Hòa
x
CTCN TT Hạ Hoà 2, huyện Hạ
Hòa
x
CTCN TT xã Vĩnh Chân, xã Vĩnh
Chân, huyện Hạ Hòa
x
CTCN khu 2 Văn Lang, xã Văn
Lang, huyện Hạ Hòa
x
CTCN khu 6,7,8 , xã Bằng Giã,
huyện Hạ Hòa
x
ThNgoài áp dụng mô hình quản lý giao Ủy ban nhân dân xã và hợp tác xã quản lý.Gần
đây, do nguồn vốn cung cấp cho dự án đầu tư xây dựng công trình nước sạch cho tỉnh
tăng lên, từ đó kéo theo nguồn vốn cung cấp cho xã cũng tăng theo vì vậy quy mô dự
án cũng lớn dần. Trong năm 2017, huyện Hạ Hòa triển khai thực hiện dự án cấp nước
mới với quy mô cấp nước liên xã, lưu lượng thiết kế khá lớn, đủ cung cấp cho khoảng
hơn 4000 người dân. Với công tác quản lý hiện tại là giao cho Ủy ban nhân dân xã và
hợp tác xã quản lý không đủ khả năng quản lý hiệu quả công trình sau vận hành, do đó
trên địa bàn huyện đã thay đổi sang mô hình quản lý bởi doanh nghiệp và Trung tâm
cấp nước sinh hoạt và VSMTNT tỉnh, hiện tại đã tiến hành thay đổi công tác quản lý
mới trên một số công trình thí điểm để làm quen và tiện cho việc quản lý các công
trình về sau.
* Nguồn vốn đầu tư và đơn vị tổ chức quản lý vận hành công trình:
Từ năm 1998, tham gia thực hiện mục tiêu cấp NS&VSMT nông thôn có nhiều
chương trình, dự án của các tổ chức khác nhau như: Dự án vốn chương trình mục tiêu
quốc gia và vốn hỗ trợ vốn của UNICEF do Sở NN&PTNT quản lý; vốn vay ADB do
Ban quản lý dự án cơ sở hạ tầng nông thôn làm chủ đầu tư; vốn Chương trình 134, 135
do UBND các huyện làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, nhờ có sự viện trợ của các nhà tài trợ
lớn là WB và ODA nên nguồn vốn phân bổ cho tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Hạ
41
Hòa nói riêng để đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung quy mô lớn cũng đã
được cải thiện đáng kể, số lượng và quy mô các công trình lớn dần, nâng cao số lượng,
chất lượng nước sạch cung cấp cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
Trong 5 năm gần đây, huyện Hạ Hòa không triển khai xây dựng thêm dự án cấp nước
mới nào do nguồn vốn ngân sách cấp chủ yếu sử dụng cung cấp cho các huyện lân cận
có nhu cầu cấp bách hơn.
Gần đây, ngân sách dành cho hoạt động đầu tư cấp nước sinh hoạt nông thôn có xu
hướng tăng dần, trong đó nguồn vốn đầu tư từ chương trình vệ sinh môi trường nông
thôn của WB chiếm đến 70% ngân sách phân bố của tỉnh, hiện nay trên địa bàn huyện
đang triển khai xây dựng thêm hệ thống cấp nước sinh hoạt xã Bằng Giã, huyện Hạ
Hòa với công suất khoảng 1.500 m3/ngày.đêm, kế hoạch cấp nước cho khoảng gần
3.000 hộ dân liên xã và sẽ mở rộng quy mô trong những năm tiếp theo.
* Tình hình hoạt động của các công trình cấp nước trên địa bàn huyện Hạ Hòa:
Năm 2014, Trung tâm Quốc gia Nước sạch và VSMTNT đã đưa ra Báo cáo đánh giá
về tình hình hoạt động của các công trình CNTT nông thôn trên phạm vi cả nước.
Trong đó, việc đánh giá được dựa theo hướng dẫn tại Chỉ số 8 thuộc điều 1 Quyết định
số 2570/QĐ-BNN-TCTL của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, bao gồm các yếu
tố (chấm theo thang điểm) :
i) bộ máy tổ chức, vận hành và bảo trì công trình,
ii) hiệu suất hoạt động (công suất hiện tại/công suất thiết kế),
iii) doanh thu nước chi cho quản lý, vận hành, duy tu bảo dưỡng,
iv) tỷ lệ thất thoát nước,
v) nguồn cấp nước và chất lượng nước đầu ra ổn định.
Cụ thể, dựa trên các yếu tố theo chỉ số 8 của quyết định này. Tỷ lệ hiện trạng hoạt
động của các công trinh cấp nước tập trung được chia làm 4 mức hiện trạng như sau:
A) Bền vững; B) Trung bình(Bình thường); C) Kém hiệu quả; D) Không hoạt động.
42
Công trình hoạt động bền vững là công trình đạt từ 7 điểm trở lên; Công trình hoạt
động bình thường đạt từ 5 đến 6 điểm; Công trình dưới 5 điểm là công trình hoạt động
kém hiệu quả; Công trình không cấp nước liên tục 3 tháng tính đến ngày khảo sát là
công trình không hoạt động.
Theo cách đánh giá như trên. Hiện nay ở huyện Hạ Hòa, trong số các công trình cấp
nước đang hoạt động chỉ có 01 công trình được đánh giá là hoạt động bền vững, 3
công trình được đánh giá là hoạt động bình thường, 5 công trình hoạt động kém hiệu
quả và không hoạt động.
Qua đó, hiện trạng các công trình cấp nước sinh hoạt huyện Hạ Hòa được thống kê
trong bảng 2.3 như sau:
Bảng 2.3 Hiện trạng hoạt động các công trình CNTT ở huyện Hạ Hòa
Tên công trình
Tình trạng hoạt động
Bền vững
Bình
thường
Hoạt động
kém hiệu
quả
Không
hoạt động
CTCN khu 4 Động Lâm (Động Lâm)
x
CTCN khu trung tâm Đan Thượng (Đan
Thượng)
x
CTCN TT xã Minh Hạc (Minh Hạc)
x
CTCN TT xã Vụ Cầu (Vụ Cầu)
x
CTCN TT xã Hiền Lương (Hiền Lương)
x
CTCN TT Hạ Hoà 2 (")
x
CTCN TT xã Vĩnh Chân (Vĩnh Chân) x
CTCN khu 2 Văn Lang (Văn Lang)
x
CTCN khu 6,7,8 (Bằng Giã)
x
43
Như vậy, từ số liệu tổng hợp trên, ta có thể thấy phần nào hiệu quả công tác quản lý,
khai thác vận hành các công trình đã xây dựng chưa bền vững. Một số lý do cơ bản
được chỉ ra cho tình trạng này bao gồm việc công trình cấp nước đã xây dựng còn
chưa phát huy hết công suất thiết kế, doanh thu từ bán nước còn thấp, tỷ lệ nước thất
thoát lớn...
Bảng số liệu trên cũng cho thấy trên địa bàn huyện vẫn còn công trình hoạt động ở
mức kém, ngoài ra còn có công trình không hoạt động. Với số lượng người dân được
cung cấp nước sạch thống kê ở trên thì việc có công trình không hoạt động và kém
hoạt động là việc đáng lưu tâm đối với công tác quản lý các công trình cấp nước trên
địa bàn huyện. Việc các công trình hoạt động kém hiệu quả do một số nguyên nhân
chủ yếu, bao gồm: do công tác quản lý, sử dụng khai thác và bảo vệ công trình cấp
nước của địa phương và người dân chưa tốt; ý thức người dân sử dụng, quản lý công
trình chưa cao; do mưa lũ, sạt lở đất, rừng đầu nguồn; do chất lượng công tác thiết kế
và thi công xây dựng còn chưa tốt.
Trong thời gian vừa qua, trên địa bàn huyện Hạ Hòa mới chỉ đang triển khai xây dựng
thêm mới 01 công trình cấp nước có quy mô rất lớn. Tuy nhiên trong thời gian tới,
ngoài việc xây dựng mới nhiều hơn các công trình cấp nước để tăng tỷ lệ bao phủ cấp
nước sinh hoạt cho các khu vực chưa được tiếp cận nước sạch, cũng cần tiếp tục chú
trọng việc tăng cường hiệu quả công tác quản lý, vận hành và báo cáo về tình trạng
hoạt động của các hệ thống cấp nước đã được đầu tư xây dựng.
Theo hướng dẫn của tỉnh, UBND các xã thành lập các Tổ quản lý vận hành để quản lý,
vận hành và bảo dưỡng những công trình cấp nước này. Nguồn nhân lực trực tiếp chịu
trách nhiệm quản lý, vận hành và bảo dưỡng các công trình cấp nước sinh hoạt bao
gồm các cán bộ của thôn, bản, cán bộ xã tại địa phương nơi có công trình cấp nước đã
được xây dựng.
Như vậy, ta có thể thấy rằng, trong số 9 công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn đã
được xây dựng trên địa bàn huyện Hạ Hòa, tất cả công trình đều do UBND xã, Hợp tác
xã quản lý và khai thác sử dụng. Với nguồn nhân lực mỏng và còn tương đối yếu về
44
chuyên môn kỹ thuật, cũng như sự giám sát và quản lý còn hạn chế, vì vậy, hiệu quả
hoạt động của các công trình này mới chỉ đáp ứng những yêu cầu vận hành cơ bản.
Quá trình tìm hiểu về 2 mô hình quản lý các công trình cấp nước tập trung nông thôn
của huyện Hạ Hòa cho thấy, chất lượng công tác quản lý và báo cáo về hiệu quả vận
hành của các công trình do mô hình UBND xã và Hợp tác xã quản lý hiện còn gặp
nhiều bất cập do một số lý do:
Thứ nhất, UBND xã là đơn vị quản lý Nhà nước, chịu trách nhiệm chung về mặt quản
lý và phát triển kinh tế - xã hội của xã, do đó, công tác quản lý các công trình cấp nước
tập trung nông thôn chỉ là một mảng chuyên môn của công việc. Thời gian phân phối
cho công tác quản lý không nhiều, việc học tập và nghiên cứu nâng cao hiệu quả
không được đầu tư chuyên sâu. Hợp tác xã cũng vậy, tuy rằng có ưu điểm về thời gian
và nguồn lực nhưng về chuyên môn vận hành còn rất hạn chế, tinh thần trách nhiệm
trong công tác quản lý chưa cao. Trong trường hợp thiếu đi sự quan tâm và vào cuộc
của chính quyền xã và sự đôn đốc của cấp trên (UBND huyện và tỉnh) thì hiệu quả
quản lý, vận hành công trình sẽ gặp khó khăn.
Thứ hai, việc quản lý, vận hành trực tiếp các công trình được phân giao cho Tổ quản
lý vận hành của thôn hoặc liên thôn. Thành viên các Tổ quản lý vận hành công trình
chỉ dao động từ 2-5 người tùy theo quy mô công trình với trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm về quản lý vận hành công trình không nhiều. Do vậy, chất lượng và hiệu quả
dịch vụ cấp nước từ các công trình cấp nước nhìn chung mới chỉ đáp ứng được yêu
cầu cơ bản.
Thứ ba, việc cập nhật, báo cáo thông tin về hiện trạng và hiệu quả hoạt động của các
công trình cấp nước còn rất lỏng lẻo và hiện tỉnh cũng chưa đưa ra chế tài cụ thể trong
trường hợp báo cáo muộn hoặc không đầy đủ. Xét về góc độ quản lý Nhà nước, việc
tổng hợp và cập nhật thông tin, dữ liệu về hoạt động và hiệu quả hoạt động của các
công trình cấp nước đã xây dựng từ cấp xã còn chưa kịp thời và gặp nhiều khó khăn do
không có cơ quan chuyên môn quản lý và vận hành các công trình đã được xây dựng.
Do đó, việc xây dựng kế hoạch để cải thiện hiệu quả công tác quản lý vận hành, bảo
45
dưỡng và tu bổ sửa chữa công trình cũng như kế hoạch nâng cấp sửa chữa các công
trình đã xây dựng cũng còn đối mặt với nhiều thách thức.
2.2.3 Đánh giá hiệu quả công tác quản lý các công trình cấp nước sinh hoạt
Theo phần 1.1.3 trong Chương 1, các tiêu chí được đề xuất để đánh giá kết quả công tác
quản lý khai thác hệ thống cấp nước sạch nông thôn được xác định bởi yếu tố lý thuyết
và thực tế, trong đó yếu tố lý thuyết bao gồm các tiêu chí: i) Công tác tổ chức bộ máy,
ii) Mức độ hoàn thiện kế hoạch, iii) Mức độ lãnh đạo thưc hiện và hoàn thành kết hoạch;
iv) Mức độ kiểm soát các quá trình. Như đã trình bày ở phần 2.2 về hiện trạng công
trình và các mô hình quản lý công trình đang được áp dụng tại huyện Hạ Hòa (2 mô
hình quản lý), phần tiếp theo sẽ xem xét và đánh giá công tác quản lý khai thác các hệ
thống cấp nước nông thôn theo 2 yếu tố được đề xuất. Xuất phát từ thực tiễn của việc
quản lý các công trình cấp nước trên địa bàn tỉnh nói chung và trên địa bàn huyện nói
riêng, việc đánh giá về cơ bản sẽ được thực hiện theo 2 mô hình tổ chức quản lý công
trình, đó là mô hình do UBND xã quản lý và mô hình do hợp tác xã quản lý.
2.2.3.1 Yếu tố lý thuyết
Tổ chức bộ máy:
Hiệu quả tổ chức bộ máy quản lý công trình cấp nước được xác định bởi hai yếu tố: i) tổ
chức bộ máy/mô hình quản lý công trình phù hợp, ii) chất lượng đội ngũ cán bộ, lao động.
Xét về sự phù hợp của tổ chức bộ máy/mô hình quản lý công trình phù hợp, ta có thể
thấy rằng trong tổng số các công trình cấp nước nông thôn của huyện Hạ Hòa, đa phần
công tác quản lý đảm bảo hoạt động bình thường, do các công trình cấp nước chủ yếu
là công trình có quy mô trung bình và nhỏ, nên công tác quản lý như hiện tại không
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên các công trình trên vẫn chưa đảm bảo phát triển bền
vững và vẫn còn có công trình không hoạt động và hoạt động kém hiệu quả, hơn nữa
nếu triển kh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_quan_ly_cac_cong_trinh_c.pdf