Luận văn Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng xã Phúc lộc, huyện Ba bể, tỉnh Bắc Kạn

MỤC LỤC

MỤC LỤC.i

Lời cam đoan. iii

Lời cảm ơn .iv

Danh mục các ký hiệu viết tắt.v

Danh mục các bảng .vi

MỞ ĐẦU.1

1.Lý do chọn đề tài .1

2.Mục tiêu nghiên cứu .2

3.Câu hỏi nghiên cứu.3

4.Giả thuyết nghiên cứu.3

5.Kết cấu luận văn .3

Chương 1.Cơ sở lý luận của đề tài.6

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. 6

1.2. Các khái niệm làm việc.12

1.3. Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu từ tiếp cận của khung sinh kế bền vững .16

pdf34 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng xã Phúc lộc, huyện Ba bể, tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c động của biển đổi khí hậu - Năng lực thích ứng của cộng đồng xã Phúc Lộc còn hạn chế 5. Kết cấu luận văn Luận văn có cấu trúc theo quy định, gồm các phần chính sau: Phần mở đầu là phần nêu lên lý do chọn đề tài này làm nghiên cứu, đưa ra các mục tiêu nghiên cứu cũng như các câu hỏi nghiên cứu. Bên cạnh đó đưa ra giả thuyết cho nghiên cứu này. Phần tóm tắt các nội dung chính của báo cáo cũng được giới thiệu ở phần này. Chương 1 trình bày cơ sở lý luận của đề tài. Chương này tập trung vào khái quát tổng quan vấn đề nghiên cứu đã được trình bày trong các báo cáo của các chuyên gia trên thế giới, trong khu vực và Việt Nam. Tổng quan các nghiên cứu trước đây trên thế giới, trong nước và trên địa bàn nghiên cứu được tóm lược nhằm tìm hiểu phương pháp, học hỏi và kế thừa các kết quả nghiên cứu đã được công bố để tránh thực hiện trùng lặp và thiếu chính xác. Đồng thời, các khái niệm làm việc 4 sử dụng để phân tích vấn đề và khung lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu cũng được trình bày ở chương này. Các khái niệm làm việc sử dụng trong nghiên cứu được đưa ra rõ ràng làm cơ sở để phân tích dữ liệu thu thập được. Khung lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu nhằm tóm tắt lại tiến trình thực hiện nghiên cứu và được thể hiện bằng sơ đồ. Chương 2 là chương giới thiệu địa bàn nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu. Chương này cung cấp các thông tin về điều kiện địa lý tự nhiên và đặc điểm kinh tế xã hội của xã Phúc Lộc, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn. Cách tiếp cận liên ngành được vận dụng để thu thập thông tin cho phân tích đánh giá một cách toàn diện. Các phương pháp nghiên cứu bao gồm phân tích tài liệu thứ cấp, phỏng vấn sâu chuyên gia, quan sát tại hiện trường, phỏng vấn sâu người dân và cán bộ chính quyền địa phương, thảo luận nhóm người dân và nhóm cán bộ chính quyền địa phương. Trong quá trình thảo luận nhóm người dân và nhóm cán bộ chính quyền địa phương, luận văn sử dụng các công cụ Đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) để thu thập thông tin. Các công cụ này gồm bản đồ lịch thời vụ, sơ đồ hiểm họa, sơ đồ Venn, ma trận đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương. Ngoài ra, để thu thập thông tin từ phía người dân và cán bộ chính quyền địa phương, tác giả đã thiết lập bảng hỏi cho phỏng vấn sâu, bảng hỏi này có được điều chỉnh để lấy thông tin sao cho phù hợp khi lấy thông tin từ các đối tượng khác nhau. Chương 3 là chương về biểu hiện của Biến đổi khí hậu và các tác động của Biến đổi khí hậu đối với cộng đồng xã Phúc Lộc. Chương này trình bày về các biểu hiện của Biến đổi khí hậu tại địa phương thông qua các kịch bản biến đổi khí hậu tỉnh Bắc Cạn, diễn biến của biến đổi khí hậu thông qua các báo cáo về nhiệt độ, lượng mưa trong vùng và quan sát của người dân địa phương về các hiện tượng thời tiết trong những năm gần đây. Căn cứ vào các biểu hiện trên, luận văn đánh giá tác động của Biến đổi khí hậu đối với cộng đồng xã Phúc Lộc trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực, giao thông đi lại, môi trường, tài nguyên nước và đa dạng sinh học, y tế và sức khỏe cộng đồng. Chương 4 giới thiệu kết quả phân tích năng lực thích ứng của cộng đồng xã Phúc Lộc. Chương này tập trung vào phân tích và đánh giá năng lực của cộng đồng xã Phúc lộc trước các biểu hiện và tác động của Biến đổi khí hậu đã được trình bày ở Chương 3. Dựa trên cơ sở các khái niệm làm việc đã được trình bày ở Chương 1, 5 luận văn sử dụng khái niệm về các loại vốn của cộng đồng để phân tích năng lực thích ứng của họ đối với Biến đổi khí hậu. Các loại vốn đó là vốn con người, vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn tài chính và vốn vật chất. Các loại vốn này thể hiện năng lực nội tại của cộng đồng để thích ứng với các biểu hiện của Biến đổi khí hậu nhằm giảm nhẹ các tác động của biến đổi khí hậu lên cộng đồng. Kết luận, giải pháp và khuyến nghị là phần tóm tắt từ kết quả nghiên cứu. Xem xét mục tiêu nghiên cứu có đạt hay không. Các câu hỏi nghiên cứu đã được trả lời chưa. Giả thuyết nghiên cứu đã đáp ứng chưa. Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra các kết luận, nhận định ngắn gọn của nghiên cứu. Dựa vào các thông tin về năng lực hiện có của cộng đồng đã được đánh gia ở chương 4, luận văn đề xuất một số các giải pháp giúp cộng đồng nâng cao năng lực thích ứng đối với Biến đổi khí hậu. Từ đó, luận văn cũng đưa ra một vài khuyến nghị cho địa phương và các bên liên quan trong nghiên cứu này. 6 Chương 1.Cơ sở lý luận của đề tài 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu BĐKH ngày càng có những tác động trực tiếp lên hệ sinh thái và ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Trước tình hình trên, thế giới liên tục kêu gọi các hành động ứng phó với BĐKH nhằm khắc phục hậu quả do BĐKH gây ra và điều chỉnh nhằm thích ứng với sự thay đổi này. Các trung tâm nghiên cứu về BĐKH đã được thành lập với sự tham gia đóng góp của các chuyên gia đầu ngành. Tiêu biểu là Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change – IPCC). IPCC đã xuất bản hàng loạt các báo cáo kỹ thuật liên quan đến BĐKH, tiêu biểu là 5 báo cáo đánh giá tổng hợp gồm : Báo cáo đánh giá IPCC thứ nhất năm 1990 (FAR); Báo cáo đánh giá IPCC thứ 2 năm 1995: Biến đổi khí hậu (SAR); Báo cáo đánh giá IPCC thứ 3 năm 2001: Biến đổi khí hậu (TAR); Báo cáo đánh giá IPCC thứ 4 năm 2007: Biến đổi khí hậu (AR4); Báo cáo đánh giá IPCC thứ 5 năm 2014. Về năng lực thích ứng đối với các tác động của BĐKH, nhiều công trình nghiên cứu đã được các chuyên gia liên ngành quan tâm, nghiên cứu, đánh giá trên phạm vi toàn thế giới. Tiêu biểu cho các kết quả nghiên cứu đã được công bố nhiều năm qua như sau: Kể từ năm 1997, trong báo cáo đặc biệt của Ủy ban liên chính phủ làm việc về BĐKH về tác động của BĐKH đến khu vực – đánh giá tính dễ bị tổn thương, các đối tượng hệ sinh thái, nguồn nước, sản xuất lương thực, hệ sinh thái ven biển và sức khỏe con người được lựa chọn là đối tượng để đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương trước sự thay đổi của khí hậu toàn cầu. Đến năm 2001, một nghiên cứu mới được thực hiện từ Báo cáo đánh giá thứ 3 của IPCC chỉ ra rằng năng lực thích ứng bị ảnh hưởng không chỉ bởi sự phát triển kinh tế và công nghệ mà cả các nhân tố xã hội như là nguồn vốn con người và cấu trúc quản lý [27]. Hiện có rất nhiều ví dụ về các nguồn vốn xã hội, mạng lưới xã hội, giá trị, quan điểm, văn hóa, truyền thống và mức độ nhận thức ảnh hưởng đến năng lực của cộng đồng trong thích ứng với các rủi ro liên quan đến BĐKH. Cộng đồng ở Samoa ở Nam Thái Bình Dương, ví dụ, sống dựa vào sự hỗ trợ phi tài chính không chính thức và mạng lưới xã hội và đương đầu với các thảm họa bão lụt, cùng với sự 7 đa dạng sinh kế và hỗ trợ tài chính không chính thức của mạng lưới gia đình mở rộng ([27], [41]). Vào năm 2003, tổ chức Lương thực thế giới (FAO) đã xuất bản báo cáo “Rủi ro, tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng chống chịu trong bối cảnh BĐKH”. Báo cáo nhận định trước khi cân nhắc đến yếu tố chống chịu, chúng ta làm rõ khái niệm về tính dễ bị tổn thương trước. Khi xét đến các rủi ro và tác động của chúng lên các hệ thống, chúng ta cần cân nhắc tính dễ bị tổn thương. Tháng 8 năm 2003, nghiên cứu “Xây dựng năng lực cộng đồng thích ứng với BĐKH dựa vào các nguồn của cộng đồng” của nhóm các nhà nghiên cứu Sharmalene Mendis, Suzanne Mills và Jennifer Yantz đã được xuất bản. Nghiên cứu chứng tỏ rằng, các yếu tố quan trọng quyết định năng lực thích ứng của cộng đồng với BĐKH là các loại vốn gồm vốn kinh tế, vốn con người, vốn xã hội. Về vốn kinh tế, các chỉ số dùng để đánh giá gồm chỉ số của cải kinh tế, sự đa đạng về kinh tế, cơ sở hạ tầng và công nghệ. Chỉ số của cải kinh tế là các chỉ số thể hiện sự tiếp cận các tài sản vốn, vốn tài chính, ngân sách sẵn có, sức lao động và tỉ lệ thất nghiệp, phân phối thu nhập.Chỉ số đa dạng kinh tế là các chỉ số thể hiện sự đa dạng và quan điểm về các ngành công nghiệp, sự phụ thuộc vào các nguồn, tiếp cận tài nguyên du lịch sẵn có, cơ hội trong các lĩnh vực. Chỉ số cơ sở hạ tầng là các chỉ số thể thiện tỉ lệ đóng thuế tại địa phương, nhà ở, tiếp cận và duy trì các dịch vụ đáp ứng nhu cầu sống cơ bản, khả năng sử dụng các phương tiện vận chuyển sẵn có. Chỉ số công nghệ là các chỉ số thể hiện đầu tư vào công nghệ, tiếp cận với công nghệ, nguồn sẵn có để phát triển cộng nghệ, trình độ công nghệ hiện tại. Về vốn con người, các chỉ số đùng để đánh giá là các chỉ số liên quan đến thông tin và kỹ năng, giáo dục. Trong đó, chỉ số về thông tin và kỹ năng bao gồm mức độ tiếp cận các kiến thức truyền thống, sử dụng các dịch vụ thông tin và thư viện, mù chữ, hạn chế về hiểu biết, sự hiểu biết khoa học về các vấn đề, khả năng lãnh đạo, khả năng làm chủ doanh nghiệp. Chỉ số về giáo dục là các chỉ số thể hiện sự tiếp cận nền giáo dục chính thức và không chính thức, trình độ học vấn của người dân. Chỉ số về sức khỏe thể hiện ở việc sống trong nhà ở kiên cố; chất lượng và trữ lượng nước uống; chi tiêu vào sức khỏe; sức khỏe tâm sinh lý của từng cá nhân, sự thay đổi và tăng trưởng dân số; tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế. Về vốn xã hội, các chỉ số dùng để đánh giá là các chỉ số liên quan đến văn hóa, kết nối cộng đồng và thể chế, mối liên kết thể chế và sự công bằng. Chỉ số văn hóa gồm 8 mối quan hệ đất đai, bản sắc văn hóa, tiếp cận kiến thức bản địa, mối quan hệ với chính quyền, nguồn sẵn có, sử dụng ngôn ngữ, bản sắc văn hóa và ý thức lãnh thổ. Chỉ số về sự kết nối cộng đồng bao gồm việc lập kế hoạch có sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan, trao đổi kiến thức, ra quyết định đối với những vấn đề liên quan đến cả cộng đồng, khả năng tạo dựng lòng tin, thăm hỏi bạn bè, quan hệ xã hội, thành viên của các tổ chức, tham gia vào chính trị. Chỉ số liên quan đến thể chế và mối liên kết thể chế gồm sự tồn tài và mật độ các mạng lưới; tự do chính trị trong việc tạo dựng thể chế; năng lực thể chế; truyền thông; mức độ cách ly và kết nối với cộng đồng; lòng tin vào thể chế; kế hoạch chiến lược; phát triển quan hệ hợp tác và đối tác. Chỉ số về sự công bằng thể hiện ở tỉ lệ mức thu nhập thấp (nghèo đói); hiện trạng kinh tế xã hội; sự lãnh đạo của phụ nữ; tỉ lệ phần trăm lao động nữ; phân phối thu nhập đối với nhóm thiểu số; tiếp cận các dịch vụ cơ bản và nhà ở [8]. Tiếp theo, vào năm 2007, Công ước khung của Liên hiệp quốc (UNFCCC) cũng đã xuất bản báo cáo về BĐKH: Tác động, tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thuộc Châu Phi, Châu Á, Mỹ Latinh và các đảo nhỏ là các tiểu bang đang phát triển được lựa chọn là đối tượng để đánh giá tính dễ bị tổn thương. IPCC cũng xuất bản Báo cáo đánh giá thứ 4 vào năm này. Nhóm làm việc II thuộc IPCC đã tổng hợp các nghiên cứu báo cáo: “Tác động, khả năng thích ứng và tính dễ bị tổn thương và đánh giá năng lực thích ứng”. Báo cáo có cho rằng: “Về các nhân tố của năng lực thích ứng, năng lực thích ứng là khả năng hoặc tiềm năng của một hệ thống ứng phó thành công với các dạng và sự biến đổi của khí hậu, bao gồm cả sự điều chỉnh về hành vi, các nguồn và công nghệ. Biểu hiện của năng lực thích ứng đã được thể hiện là điều kiện cần thiết để phát triển và thực hiện chiến lược thích ứng hiệu quả nhằm giảm thiểu các hậu quả và tác động của BĐKH. Khả năng thích ứng cũng giúp các lĩnh vực và tổ chức tận dụng cơ hội hoặc lợi thế từ BĐKH, ví như mùa sinh trưởng kéo dài hơn hoặc phát triển tiềm năng du lịch. Nhiều hiểu biết hiện tại về năng lực thích ứng xuất phát từ các đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương. Ngay cả khi các chỉ số về tính dễ bị tổn thương không rõ ràng gồm các yếu tố quyết định năng lực thích ứng, các chỉ số được lựa chọn thường đưa ra các kiến thức quan trọng về các yếu tố, các quá trình và cấu trúc thúc đẩy hoặc hạn chế năng lực thích ứng (Eriksen and Kelly, 2007). Một kết quả rõ ràng từ nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng chỉ ra rằng một số khía cạnh của 9 khả năng thích ứng rất chung chung, trong khi những thứ khác lại cụ thể liên quan đến tác động của BĐKH. Chỉ số chung chung ở đây ví dụ như là các yếu tố giáo dục, thu nhập và sức khỏe. Chỉ số cụ thể liên quan đến tác động chuyên biệt như là hạn hán hoặc lũ lụt, có thể liên quan đến thể chế, hiểu biết và kỹ thuật. Ngoài ra, một số bằng chứng cho thấy rằng các chỉ số về năng lực thích ứng và tính dễ bị tổn thương ở cấp quốc gia được sử dụng bởi các chuyên gia thương lượng và làm việc về BĐKH, các cấp ra quyết định trong việc lập sách và phân bổ nguồn vốn ưu tiên cho việc can thiệp [42]. Ngay sau đó, năm 2009, tổ chức CARE international đã xuất bản cuốn sổ tay về phân tích tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó với BĐKH. Trong đó, phương pháp sử dụng để thu thập số liệu phân tích là phương pháp đánh giá có sự tham gia, đánh giá từ dưới lên kết hợp với một số khung làm việc về Giới và sự đa dạng, Khung sinh kế, Tiếp cận dựa trên quyền và Khung thích ứng dựa vào cộng đồng của CARE để tiến hành đánh giá [28]. Gần đây, vào năm 2014, IPCC xuất bản Báo cáo đánh giá lần thứ 5 và có tập trung sâu hơn về đánh giá năng lực thích ứng. Điều này chứng tỏ rằng xu hướng nghiên cứu của thế giới đang hướng đến việc tăng cường khả năng ứng phó của cộng đồng trước diễn biến của BĐKH. Nhân loại đã và đang hành động để giảm nhẹ và thích ứng với các nguy cơ trước mắt. Việc đánh giá năng lực thích ứng với BĐKH của từng cộng đồng cụ thể cho từng vùng cụ thể là cần thiết để có các kết quả chính xác và chi tiết cho từng vùng. Theo Ellen Wall & Katia Marzall, 2006, nghiên cứu về “ Năng lực thích ứng với BĐKh của cộng đồng khu vực nông thôn Canada đã được phân tích dựa trên Khung năng lực thích ứng đưa ra bởi Medis và cộng sự năm 2003 như trên. Nghiên cứu có cùng nhận định so với báo cáo trên của Mendis và cộng sự năm 2003 về việc Năng lực thích ứng tồn tại ở các phạm vi khác nhau, từ phạm vì cá nhân đến gia đình, cộng đồng, khu vực và quốc gia. Năng lực thích ứng cơ bản phụ thuộc vào việc tiếp cận các nguồn; không chỉ tồn tại ở số lượng mà hệ thống yêu cầu các nguồn phải được huy động một cách hiệu quả. Các nguồn được xét đến bao gồm: nguồn vốn xã hội, vốn con người, thể chế, tự nhiên và kinh tế[46]. Các nguồn vốn của cộng đồng cũng đã được chọn làm chỉ số để Đánh giá Tính dễ bị tổn thương và Năng lực thích ứng với các rủi ro khí hậu trong báo cáo cùng tên 10 về Phương pháp điều tra ở cấp địa phương đến quốc gia. Nghiên cứu đưa ra khái niệm về sinh kế bền vững nhấn mạnh đến các thể khác nhau của các nguồn vốn và điều kiện thể chế và chính sách, tiếp cận quyền lợi về môi trường và nhấn mạnh phạm vi độc lập trong việc huy động sử dụng các nguồn (bao gồm nguồn lực con người). Năng lực thích ứng, nghĩa là năng lực điều chỉnh trước các tác động thực tiễn hoặc dự kiến của khí hậu, theo lý thuyết thì năng lực thích ứng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm cơ sở hạ tầng và tài sản, hệ thống nước tưới, vốn xã hội và vốn con người, và các kinh nghiệm trong việc tận dụng các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài như là các tổ chức, cơ quan quản lý [29]. Việt nam nằm trong nhóm các nước đang phát triển chịu tác động nặng nề của BĐKH và các đặc điểm về địa hình, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội góp phần tạo ra tính dễ bị tổn thương cao trước các tác động của BĐKH. Vùng núi Đông bắc, Tây Bắc và Bắc trung bộ, đồng bằng Bắc Bộ, dải ven biển nhất là những vùng bị ảnh hưởng của bão, nước dâng, lũ lụt như đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng, ven biển Trung Bộ, Hải đảo, Tây nguyên, vùng núi và Trung du Bắc Bộ được đánh giá là có tính nhạy cảm và dễ bị tổn thương cao trước các biểu hiện của BĐKH. BĐKH có ảnh hưởng tới tất cả các ngành và các lĩnh vực gồm nông nghiệp và an ninh lương thực, thủy sản, các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học, tài nguyên nước (nước mặt và nước ngầm), năng lượng (sản xuất và tiêu thụ), sức khỏe cộng đồng, du lịch, hạ tầng kỹ thuật, khu công nghiệp, nơi cư trú, giao thông vận tải. Cộng đồng dễ bị tổn thương trước các biểu hiện của BĐKH gồm nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số, người già, trẻ em, phụ nữ, dân cư ven biển nhất là nông dân nghèo, ngư dân, dân cư miền núi nhất là dân tộc thiểu số [2]. Căn cứ vào nhận định về các vùng, các đối tượng, các cộng đồng dễ bị tổn thương trước Biến đổi khí hậu ở trên, nhiều báo cáo nghiên cứu đánh giá tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với BĐKH của cộng đồng đã được các các cơ quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ thực hiện tại các vùng được xác định là có tính phơi nhiễm cao và nhạy cảm trước các tác động của BĐKH gồm dải ven biển đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng và ven biển trung bộ, vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Shaw (2006) về thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng ở miền Trung đã chỉ ra rằng, thay đổi khí hậu, thời tiết như sự sự biến đổi 11 lượng mưa, hay sự thay đổi đường đi của lốc xoáy đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, những kiểu sinh kế chính của cộng đồng dân cư ở đây. Shaw nhận xét rằng, sự liên kết giữa người dân và chính quyền là yếu tố quan trọng của việc thích ứng đối với BĐKH dựa vào cộng đồng [54]. Một nhóm các tác giả khác qua nghiên cứu “Living with Environmental change: social vulnerability, Adaptation and Resilience in Vietnam” đã phân tích tương đối toàn diện các nhân tố liên quan đến những tổn thương về mặt xã hội cũng như khả năng phục hồi sau các thay đổi môi trường. Thêm nữa, ở Việt nam, trong quá trình ứng phó với BĐKH, cư dân thường vận dụng những loại vốn mà họ có từ trước ([33],[43]). Trong nghiên cứu, Nguyễn Tuấn Anh cùng các cộng sự tổng hợp các khái niệm vốn và các loại vốn và sau quá trình phân tích, nhóm tác giả dựa vào lập luận của Halpern về các nguồn vốn tài chính, vốn vật chất, vốn tự nhiên, vốn con người, vốn xã hội để làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu về cách mà người dân vận dụng một số loại vốn để ứng phó với những hiện tượng thời tiết cực đoan thông qua việc điều chỉnh, thay đổi sinh kế của họ, trong bối cảnh cụ thể của xã Cồn Thoi, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình [7]. Trong khuôn khổ dự án “Cải thiện sức chống chịu với tác động của Biến đổi khí hậu vùng ven biển Đông Nam Á” được tài trợ bởi Liên minh Châu Âu và thực hiện bởi sự hợp tác giữa Tổng cục Biển và hải đảo (VASI), Bộ Tài nguyên và Môi trường, GIZ và Quỹ quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Đánh giá tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với tác động cả BĐKH (VCA) tại ấp Vàm Rầy và Ấp Thuận An, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang đã được thực hiện và có kết quả vào tháng 10, 2012. Đánh giá sử dụng phương pháp và công cụ tổng hợp từ CARE và UNDP gồm công cụ đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của cộng đồng (VCA), công cụ đánh giá nhanh có sự tham gia (PRA) và các công cụ đánh giá tại thực địa khác. Khảo sát thực địa và phỏng vấn, thảo luận nhóm mục tiêu, phỏng vấn sâu đã được tiến hành để thu thập thông tin qua việc áp dụng các công cụ tại hiện trường. Khảo sát thực địa có sự tham gia của cộng đồng đã giúp đánh giá đầy đủ mọi khía cạnh của tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của địa phương từ nhiều phía. Thông qua phương pháp tiếp cận có sự tham gia, kinh nghiệm của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên thiên nhiên theo hướng có hiệu quả, các mô hình thích ứng thân thiện với môi trường sẽ được khuyến khích phát triển vì họ là những người biết rõ nhất đặc điểm của địa phương mình. Bên cạnh đó, phương pháp 12 này còn giúp đẩy mạnh việc thực hiện chính sách theo cả 2 chiều từ trên xuống và từ dưới lên cũng như tăng cường khả năng của cán bộ địa phương về kỹ năng và ý thức phục vụ người dân cho công việc thực tiễn của họ. Từ đó bảo đảm tính bền vững của các chính sách cả về kinh tế, xã hội và môi trường [4]. Về đánh giá tính dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng với BĐKH ở vùng núi phía Bắc, năm 2013, tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam đã xuất bản báo cáo về tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực thích ứng của cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng núi phía Bắc Việt Nam. Báo cáo mang tính tổng quát và là thông tin tổng hợp thu thập được từ cấp cộng đồng và có sự tham gia của người dân. Báo cáo phân tích năng lực của cộng đồng bằng các phương pháp thu thập thông tin có sự tham gia của cộng đồng. Cụ thể, đánh giá sử dụng Cẩm nang phân tích tình trạng dễ bị tổn thương và năng lực ứng phó với BĐKH làm khung lý thuyết để phân tích. Cẩm nang nhận định một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần hình thành năng lực thích ứng của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng là khả năng tiếp cận và kiểm soát của họ đối với các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, nguồn lực xã hội, nguồn lực vật lý và nguồn tài chính. Các nguồn lực quan trọng đối với năng lực thích ứng gồm nguồn nhân lực, nguồn lực xã hội, cơ sở vật chất, tài nguyên thiên nhiên và tài chính. Trong đó, nguồn nhân lực là các kiến thức về rủi ro khí hậu, việc bảo tồn các kỹ năng sản xuất nông nghiệp, sức khỏe tốt để lao động, nguồn lực xã hội là các tổ tín dụng và tiết kiệm của phụ nữ, tổ chức nông dân, cơ sở vật chất là cơ sở hạ tầng thủy lợi, thiết bị bảo quản và lưu trữ hat và giống nông nghiệp, tài nguyên thiên nhiên là nguồn nước an toàn, đất sản xuất, tài chính là các nguồn thu nhập đa dạng, các khoản tín dụng vi mô [28]Việc tiếp cận và kiểm soát đối với các nguồn lực cần thiết cho sự thích ứng có sự khác nhau giữa các quốc gia, giữa các cộng đồng và ngay cả hộ gia đình. Điều này bị ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài như chính sách, thể chế và cơ cấu quyền lực. Năng lực thích ứng có thể thay đổi theo thời gian, theo những điều kiện thay đổi và có thể khác nhau theo những hiểm họa cụ thể. Về địa bàn của nghiên cứu là xã Phúc Lộc huyện Ba Bể, hiện tại chưa được đánh giá cụ thể và có báo cáo chi tiết về năng lực thích ứng của cộng đồng trước diễn biến và tác động của các biểu hiện của Biến đổi khí hậu. 1.2. Các khái niệm làm việc Biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và 13 nước biển dâng là thách thức của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh chưa từng có và đang là mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. Trong Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với Biến đổi khí hậu của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường xuất bản tháng 7/2008 đưa ra định nghĩa về BĐKH như sau: BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/ hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên bên trọng hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất [2]. Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) định nghĩa về Biến đổi khí hậu như sau: Bất cứ sự biến đổi nào về khí hậu theo thời gian, do diễn biến tự nhiên hay là kết quả của hoạt động con người[39]. Về cơ bản, các định nghĩa đưa ra đều có một số điểm đồng nhất về thời gian và không gia diễn biến, tác nhân của BĐKH. Như vậy, nghiên cứu này dựa trên định nghĩa do Bộ Tài Nguyên và Môi trường đưa ra trong Chương trình mục tiêu quốc gia về Ứng phó với BĐKH. Biểu hiện của BĐKH: Theo kịch bản Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, BĐKH với các biểu hiện chính là sự gia tăng nhiệt độ trung bình, nhịp điệu và độ bất thường của khí hậu thời tiết và tính khốc liệt chủ yếu do các hoạt động kinh tế - xã hội của con người gây phát thải quá mức vào khí quyển các khi gây hiệu ứng nhà kính. Biểu hiện thứ nhất là hiện tượng băng tan làm nước biển dâng (xâm nhập mặn). Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày càng cao. Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giãn nở nhiệt của đại dương và sự tan băng. Số liệu quan trắc mực nước biển trong thời kỳ 1961 – 2003 cho thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm, trong đó đóng góp do giãn nở nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm/năm và tan băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm. Thứ hai là lượng mưa thay đổi. Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn 30⁰C. Tuy nhiên, lượng mưa lại có xu hướng giảm ở khu vực nhiệt đới từ giữa những năm 1970. Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực trên thế giới .Thứ ba là các hiện tượng thiên tai (bão, lũ lụt, hạn hán) gia tăng về tần xuất, cường độ, và độ bất thường và tính khốc liệt. 14 Tác động của BĐKH: Biến đổi khí hậu có tác động tới tất cả các vùng trên thế giới với mức độ khác nhau, tới tất cả các tài nguyên, môi trường và hoạt động kinh tế, xã hội của con người. Phạm vi tác động của BĐKH là toàn diện, tác động tới mọi người, mọi lĩnh vực, mọi khu vực ở hiện tại v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf01050003310_348_2002978.pdf
Tài liệu liên quan