Mục Lục
Lời cảm tạ Trang
Mục lục i
Danh sách bảng, biểu đồ và hình iv
Chữ viết tắt ix
Mở đầu 1
Chương I: Tổng quan tài liệu 5
I.1 Sơ lược đặc điểm điều kiện tự nhiên & kinh tế xã hội tỉnh AG 5
I.1.1Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 5
I.1.2 Tình hình kinh tế xã hội tỉnh An giang 6
I.2 Nuôi trồng Thủy sản tại An giang 8
I.2.1 Tình hình Nuôi trồng Thủy sản tại An giang 8
I.2.2 Những nhân tố hạn chế sự phát triển nghề nuôi cá tạiAn giang 12
I.3. Bệnh cá nuôi tại An giang 14
I.4 Tình hình nghiên cứu bệnh xuất huyết của cá ba sa nói riêng
và cá nước ngọt nói chung 15
I.4.1 Trong nước 15
I.4.2 Trên thế giới 17
I.4.3 Các nghiên cứu về những lọai bệnh do vi khuẩn Aeromonas
và Pseudomonas gây ra trên đối tượng nuôi thủy sản 20
Chương II: Vật liệu, phương pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm 26
II.1 Phương pháp thu thập số liệu 26
II.2 Địa điểm và thời vụ thu mẫu 26
II.3 Phương pháp kiểm tra tổng thể mẫu cá 27
II.4 Phương pháp thu, bảo quản, vận chuyển và xử lý sơ bộ mẫu cá 27
II.5 Phương pháp phân lập, nuôi cấy và định danh vi khuẩn 28
II.6 Phương pháp tiến hành thực nghiệm gây nhiễm trở lại 31
II.7 Phương pháp tổng hợp xử lý số liệu 33
Chương III: Kết quả nghiên cứu và thảo luận 34
III.1 Tình hình xuất hiện bệnh xuất huyết trên cá ba sa ở An giang
trong thời gian nghiên cứu 34
III.1.1Đánh giá ảnh hưởng các yếu tố khí hậu, thủy văn chính và
họat động của làng bè đến chất lượng nước của vùng nuôi 34
III.1.1.1Các yếu tố khí hậu, thủy văn chính 34
III.1.1.2 các chỉ số đánh giá mức độ nhiễm bẩn 35
III.1.2 Tình hình xuất hiện bệnh xuất huyết trên cá ba sa ở A G
An Giang trong thời gian nghiên cứu 36
III.2 Kết quả kiểm tra tổng thể các mẫu cá bệnh thu thập được 37
III.2.1Điểm thu mẫu và số lượng mẫu 37
III.2.2 Kết quả kiểm tra bằng mắt thường về dấu hiệu,
triệu chứng bệnh lý của cá ba sa 38
III.2.3 Phân nhóm các dấu hiệu bệnh lý
xuất hiện trên những mẫu cá thu được 40
III.3 Kết quả phân lập nuôi cấy và định danh vi khuẩn trên các
mẫu cá thu thập được 46
III. 3.1 Số lượng mẫu theo mùa vụ và khu vực 46
III.3.2 Kết quả phân lập định tính 46
III.3.3 Kết quả phân lập vi khuẩn định lượng 50
III.3.4 Tính nhạy cảm của các chủng vikhuẩn phân lập từ cá bệnh
đối với một số thuốc kháng sinh thông dụng 51
III.4 Kết quả thực nghiệm gây nhiễm trở lại 53
III.4.1Các chủng vi khuẩn sử dụng cho thí nghiệm 53
III.4.2 Tính chất gây bệnh của A. hydrophilaSHB681984 54
III.4.3 Tính chất gây bệnh củaA. sobria STB511983 58
Chương IV: Kết luận và đề xuất ý kiến 60
IV.1 Kết luận 60
IV.2 Đề xuất ý kiến 62
Tài liệu tham khảo 63-72
Phụ Lục
118 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2212 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên vi, xoang miệngcá Basa (Pangasius bocourti) cá tra (P. hypopthalmus) nuôi tại An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cá
chết với số lượng đáng kể trong điều kiện môi trường không thuận lợi.
Supawat và ctv (1983) nghiên cứu cytotoxin của A. hydrophila ở những nhiệt độ
khác nhau. Vi khuẩn phân lập từ cá có 90, 5% (67/74) tạo cytoxin ở cả hai nhiệt
độ : 25 và 37oC. Vi khuẩn phân lập từ người có 93,3% (28/30) và 90% (27/30) tạo
23
cytotoxin ở nhiệt độ 25 và 37oC. Những chủng phân lập từ nước tạo cytotoxin ở
25o C tốt hơn 37oC: 92,9% (13/14) và 78,6% (11/14).
Laohaviranit (1983) chứng minh được rằng, A. hydrophila, phân lập đưọc từ cá
lóc (O. striatus) mắc bệnh, có khả năng sản sinh enterotoxin, hemolysin và protease;
đồng thời tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ muối và pH lên
những họat động của protease, hemolysin và cytotoxin tạo ra từ các chủng vi
khuẩn này.
Tanasupawat (1985) nghiên cứu họat tính enzyme ngoại tế bào (extracellular
enzyme) của Aeromonas sp. gây bệnh động vật thủy sản. Họat tính exoenzyme của
30 chủng vi khuẩn phân lập được từ cá, rùa mắc bệnh mềm vỏ, nước, chất vẩn và
bệnh nhân. Aeromonas hydrophila có thể thủy phân tinh bột, casein, DNA, gelatin,
tế bào máu cừu, trứng gà, huyết thanh thỏ, ... nhưng không thể thuỷ phân cellulose
và pectine. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những thay đổi bệnh học ở cá bệnh, ở động
vật thủy sản khác cũng như ở người bệnh do họat tính extracellular enzyme của
những thể phân lập gây ra.
Tachusong và Saitanu (1984) khử họat tính Aeromonas hydrophila bằng
potassium permanganate (PP) ở những nồng độ khác nhau tại pH = 7, trong điều
kiện nước sạch (purified water) và nước lấy từ ao (dirty water). Trong nước sạch
nồng độ 2,5 ppm không diệt vi khuẩn , tuy nhiên ở các nồng độ 5 ppm, 50 ppm và
100 ppm PP khử hoạt tính A. hydrophila trong vòng 120, 15 và 1phút. Trong nước
lấy từ ao , nồng độ 5ppm PP không diệt được vi khuẩn; thời gian diêït A. hydrophila là
15 phút ở nồng độ 50 ppm, 5 phút với nồng độ 100ppm và 1phút cho nồng độ 1.000
ppm.
24
Nialkul và cộng sự (1984) khảo sát sự nhạy cảm của Aeromonas spp phân lập từ
cá nhiễm bệnh, ao nuôi cá và người. Tất cả những vi khuẩn giống Aeromonas nhạy
cảm cao đối với những kháng sinh thuộc Aminoglycoside đặc biệt là Amikacin,
Gentamicin và Tobramicin, nhưng kém nhạy cảm với Streptomycin, Neomycin và
Kanamycin.
Pawaputanon và Chinabut (1973) thử nghiệm vi khuẩn Aeromonas sp phân lập
từ cá trê với 8 lọai thuốc kháng sinh: Streptomycin, Tetracycline, Declomycin,
Terramycin, Gentricin, Erythromycin, Chloromycetin và Novobiocin. Những kháng
sinh, vi khuẩn đề kháng cao là Cephaloridin, Cloxacillin, Polymycin, Mycostantin
và Penicillin.
Supriyadi và Taufik (1983) nghiên cứu bứơc đầu về sự miễn nhiễm trên bốn
nhóm cá chép bằng vaccine phòng A. hydrophila, bằng cách tiêm vào xoang bụng
cá - có khối lượng trung bình 5gr/con - với liều lượng 0,1ml hoặc 0,2ml dung dịch
chứa vi khuẩn đã xử lý bằng formaline hàm hượng vi khuẩn là 3,8 mg khối lượng tươi
/ ml. Sau đó, gây nhiễm thực nghiệm cho cá. Kết quả cho thấy, cá được tiêm 0,2 ml
vaccine có khả năng đề kháng bệnh với tỉ lệ cá chết giảm đáng kể.
Supriyadi và Widagdo (1986) thử nghiệm vaccine phòng vi khuẩn A. hydrophila
trên bốn nhóm cá trê (C. batrachus) có trọng lượng trung bình 85,1gr/ cá. Tuy
nhiên, sau 3 tuần thực nghiệm không có sự khác biệt về tỉ lệ sống giữa ba nhóm cá
có chủng vaccine và nhóm cá đối chứng.
Qua những kết quả nghiên cứu đã nêu trên, cho thấy Aeromonas hydrophila là
tác nhân gây bệnh quan trọng ở cá nước ngọt. Chúng gây bệnh nhiễm trùng máu xuất
huyết trên nhiều đối tượng cá nuôi cũng như cá sống trong các loại hình thủy vực tự
nhiên khác nhau. Pseudomonas cũng được phân lập từ các mẫu cá bệnh, tần số xuất
25
hiện của giống Aeromonas chiếm ưu thế hơn. Bên cạnh các công bố về bệnh dấu
hiệu bệnh lý, xá định tác nhân gây bệnh, đã có một số nghiên cứu đặc điểm sinh học,
sinh lý, sinh hóa của các tác nhân gây bệnh; đặc điểm tổ chức bệnh lý học, huyết học,
miễn dịch học của nhiều loài cá nhiễm bệnh. Đồng thời đã có một số công bố về
phương thức phòng trị bằng kháng sinh hoặc vaccine.
Tại Việt Nam, tuy đã có một số đề tài nghiên cứu về bệnh xuất huyết của cá ba sa
và đã có một số đề xuất về phương pháp trị bệnh bằng kháng sinh. Tuy nhiên, tác hại
do bệnh xuất huyết gây ra vẫn chưa hoàn toàn được khắc phục. Nguyên nhân có thể
là do sự hình thành các chủng vi khuẩn đề kháng các loại kháng sinh đang được sử
dụng hoặc biện pháp đã đề xuất chưa được hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các đề tài đã
công bố tại Việt nam chưa thực hiện hoàn chỉnh phần thực nghiệm gây nhiễm trở lại
do đó cơ sở để khẳng định vai trò của các vi khuẩn phân lập từ cá bệnh. Đồng thời,
các chủng vi khuẩn đã phân lập trước đây không được lưu giữ bảo quản, vì thế không
thể tiến hành nghiên cứu thử nghiệm biện pháp phòng bệnh cho cá bằng vaccine.
Từ thực tế trên, định hướng nghiên cứu của đề tài là :
- Xác định vi khuẩn, tác nhân gây bệnh cho cá thông qua thực nghiệm gây nhiễm
trở lại trên cá khỏe để khẳng định tính chất gây bệnh của tác nhân nghi vấn.
- Thiết lập kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn gây bệnh làm cơ sở cho việc
nghiên cứu đề xuất biện pháp phòng trị bệnh trong giai đoạn trưưóc mắt. Đồng thời
lưu giữ và bảo quản các chủng vi khuẩn gây bệnh, làm cơ sở cho các nghiên cứu về
miễn dịch học và sản xuất chế phẩm vaccine tiếp theo.
26
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
III.1 Tình hình xuất hiện bệnh xuất huyết trên cá ba sa ở An giang trong
thời gian nghiên cứu
III.1.1 Các yếu tố khí hậu, thủy văn chính và họat động của làng bè đến
chất lượng nước của vùng nuôi
III.1.1.1 Các yếu tố khí hậu - thủy văn chính
Khí hậu: Năm 1997, mùa mưa đến muộn hơn các năm trước, nhiệt độ trung
bình của tháng 6 (28,2o C) cao hơn tháng 3 (26,9oC), ngược lại nhiệt độ trung bình
của nước trên sông Hậu vào tháng 6 (31,8o C) lại thấp hơn tháng 3 (32,57oC) (Phan
thị Yến Nhi 1988). Lượng mưa đầu mùa rất thấp (43,2cm) và mưa xuất hiện vào
tháng 5, trễ hơn các năm 1995, 1996 - mưa đã xuất hiện vào tháng 3, 4 (Cục
Thống Kê An giang 1998). Vì vậy số giờ nắng kéo dài, thời lượng nắng của tháng
6 (232,8 giờ) thấp hơn tháng 3 (274,2giờ) chỉ 41,4 giờ. Trong khi đó độ ẩm giữa
tháng 3 (79%) và tháng 6 ( 80%) không chênh lệch nhau nhiều. Từ các thông số
vừa nêu có thể nói yếu tố thời tiết, năm 1997 có một số biểu hiện bất thường so
với những năm trước.
Thủy văn: Chế độ Thủy văn trên sông Hậu, cho thấy vào tháng 3, đoạn sông
Hậu ở Châu Đốc còn ảnh hưởng chế độ thủy triều bán nhật triều đều và không
đều, nên dòng chảy xuất hiện hai chiều. Màu nước xanh trong do hòa lẫn màu cỏ
của nước từ kênh rạch nội đồng chảy ra sông. Mực nước trung bình của tháng 3
(71cm), bắt đầu bước sang mùa kiệt, lại cao hơn mực nước trung bình của tháng 6
(51cm) (Cục Thống Kê An giang1998), là tháng giao thời của cuối mùa kiệt và
đầu mùa lũ. Tháng 6, nước từ thượng nguồn đã đỗ về, nên màu nước sông Hậu
hơi đục và tại Châu Đốc ảnh hưởng của thủy triều yếu dần, cho đến mùa lũ, ảnh
31
hưởng nầy trên sông Hậu tại Châu đốc dường như mất đi và dòng nước chảy một
chiều về phía hạ lưu. Tất cả các yếu tố thủy văn trên đã góp phần rất lớn ảnh
hưởng đến chất lượng nước của vùng nuôi thông qua các biến đổi về tốc độ dòng
chảy, mực nước và chất lượng nước qua các mùa khác nhau.
III.1.1.2 Các chỉ số đánh giá mức độ nhiễm bẩn
Vào mùa khô BOD5 trung bình 1,64 mgO2 /l (Phan Thị Yến Nhi 1998), trị số
nầy tại các điểm khảo sát không chênh lệch nhau nhiều và nằm trong giới hạn
“nhỏ hơn “ 5 mgO2/l. Qua khảo sát các chỉ tiêu nầy, cho thấy các trị số khảo sát
liên quan đến môi trường nuôi cá bè tại sông Hậu đều nằm trong giới hạn cho cá
phát triển theo tiêu chuẩn nước để bảo vệ thủy sản (Lê Trình 1997).
COD trung bình 17,11mgO2 /l, trị số thấp nhất 12,18mgO2/l, ở đầu nguồn, cao
nhất 26,66 mgO2/l (Phan Thị Yến Nhi 1988) ở phía sau làng bè. Các chỉ tiêu nầy
đều thấp trong giới hạn cho phép nước sử dụng nuôi nuôi trồng thủy sản “lớn hơn
“ 35mg/l theo TCVN.5942 -1995 (Lê Trình 1997).
Về chỉ tiêu vi sinh: Coliform, hiện diện với mật độ cao, trung bình 123.102
MPN/100ml vượt 2 lần giới hạn tiêu chuẩn cho phép TCVN 5942 -1995 (Lê Trình
1997).
Vào mùa mưa BOD5 trung bình 1,20 mgO2 /l, trị số BOD5 thấp nhất tại làng
bè 1,05 mgO2/l, và cao nhất 1,36 mgO2/l tại đầu nguồn.
COD trung bình 6,32 mgO2/l, trị số thấp nhất 3,75 mgO2/l, tại làng bè, cao
nhất 8,25 mgO2/l ở phía sau làng bè. Cũng như mùa khô, các chỉ tiêu BOD5 , COD
đều thấp so với giới hạn của tiêu chuẩn nuôi trồng thủy sản. Cũng như mùa khô
các chỉ tiêu trên có độ biến động không lớn tại các điểm khảo sát. Về chỉ tiêu vi
sinh như Coliform, hiện diện với mật độ cao, trung bình 472,94.104 MPN/100ml
vượt xa giới hạn tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5942 -1995).
32
Qua các chỉ tiêu khảo sát trên cho thấy nước có hiện tượng nhiễm hữu cơ, cụ
thể là chỉ tiêu COD trước và sau khi chảy qua làng bè.. Mùa mưa, chất lượng nước
tốt hơn mùa khô, bởi lượng hữu cơ trong nước không lớn và biến động không nhiều.
Điều cần chú ý là chỉ số Coliform trong nước khá cao ở cả hai mùa và hiện diện
cao nhất vào mùa mưa.
III.1.2 Tình hình xuất hiện bệnh xuất huyết trên cá ba sa ở An giang trong
thời gian nghiên cứu
Vào tháng 2 -3 năm 1997, bệnh xuất huyết bộc phát cao điểm trên cá ba sa
nuôi bè. Gần 100% bè cá thu họach bị nhiễm, với mức độ khác nhau. Điều chưa
từng xảy ra là tỷ lệ cá dạt trong quá trình chế biến lên đến 30%, gây tổn thất nặng
nề cho ngư dân. Tình trạng cá bệnh vẫn kéo dài, rãi rác nhiều nơi, tuy mức độ
xảy ra có đôi phần lắng dịu sau vài tháng.
Đề tài bắt đầu thực hiện vào ngày 13 tháng 6 năm 1997. Thời tiết đầu mùa
mưa. Tiến hành thu mẫu cá ba sa bệnh nuôi bè, nằm tại sông Tiền - Tân Châu.
Bè có sản lượng 140 tấn. Trong thời điểm nầy cá bị nhiễm bệnh xuất huyết chết
khoảng 50 - 60 kg/ ngày.
Đầu tháng 7/1997, tại xã Long Sơn - Phú Tân, hai bè cá ba sa nằm trên sông
Tiền cách nhau 5 km, cá bị nhiễm bệnh xuất huyết, ngư dân điều trị tích cực
bằng thuốc kháng sinh, tình trạng cá lúc thu mẫu vừa giảm tử vong.
Đầu tháng 8/1997, thu mẫu cá bệnh tại xí nghiệp Đông lạnh số 7. Cá thu mẫu
có nguồn gốc từ bè đóng trên sông Hậu - Châu đốc. Theo các nhân viên Kiểm
sóat chất lượng sản phẩm (KCS), từ đầu tháng 6/1997, cá nguyên liệu khi fillet,
ngày nào cũng thấy xuất hiện cá bệnh xuất huyết - có những đốm đỏ trong thịt -
với tỷ lệ khỏang 3-5%/ ngày.
Từ tháng 9 - 12/1997, theo báo cáo của cán bộ cơ sở về tình hình cá bệnh
xuất huyết vẫn xảy ra rãi rác ở cả hai khu vực sông Tiền và sông Hậu. Ngày 13
33
và 21/ 1 năm 1998, thời tiết giữa mùa nắng - tiến hành thu mẫu cá bệnh tại xí
nghiệp Đông lạnh số 7. Cá thu mẫu có nguồn gốc bè ở sông Tiền (xã Long sơn -
Phú Tân) và sông Hậu - Châu đốc. Từ tháng 1- 4 ở hai xí nghiệp Đông lạnh số 7
và xí nghiệp Đông lạnh Châu thành số 8, với mức nguyên liệu nhiễm bệnh bị hạ
lọai 3,95%/ ngày.
Từ những ghi nhận trên, cho thấy cá ba sa bị nhiễm bệnh xuất huyết xảy ra tại
nhiều điểm nuôi trong suốt thời gian nghiên cứu.
Đối phó với bệnh nầy, ngư dân theo kinh nghiệm đã sử dụng các lọai thuốc
kháng sinh như Sulfamethoxazole, Sulfaguianidine, Tetramycine, Oxytetracyline,
Chloramphenicol, Furazon, Néomycine ... trộn vào thức ăn cho cá để ngừa bệnh
và điều trị, hoặc các hóa chất để điều trị bệnh như muối ăn (NaCl), sulphat đồng
(CuSO4), Malachite green, Dipterex .... treo túi thuốc hay pha loãng phun
xuống be.ø Các lọai dược thảo như lá trầu không, lá giác, lá xoan... hiện nay
cũng còn được sử dụng, nhưng rất ít.
III.2 Kết quả kiểm tra tổng thể các mẫu cá bệnh thu thập được
III. 2.1 Điểm thu mẫu và số lượng mẫu
Điểm thu mẫu được thực hiện tại 6 điểm.
Sông Tiền có 4 điểm: gồm xã Long an -Tân châu (1 điểm), xã Long sơn - Phú
Tân (3 điểm).
Sông Hậu gồm có 2 điểm tại thị xã Châu đốc.
Tổng số lượng mẫu thu là 80, trong đó 5 mẫu thu tại sông Hậu vào mùa khô
(cá không thấy biểu hiện bệnh lý bên ngoài) làm mẫu đối chứng.
* Cá đối chứng chiều dài trung bình: 47, 4cm (43 - 50cm). Trọng lượng trung
bình: 1,41 kg (0,9 - 1,65 kg).
Cá bệnh thu mẫu được phân thành hai lọai kích cỡ:
34
* 20 mẫu cá giống có chiều dài trung bình: 22, 8 cm, (19 - 25 cm). Trọng lượng
trung bình 0,13kg ( 0,1 -0,2 kg).
* 55 mẫu cá thương phẩm chiều dài trung bình: 48,73 cm ( 39 - 59 cm). Trọng
lượng trung bình: 1,62 kg (0,75 - 2,95 kg).
III.2..2 Kết quả kiểm tra bằng mắt thường về dấu hiệu, triệu chứng bệnh
lý của cá ba sa
- Cá giống: Quan sát tổng thể cá bị xuất huyết vành môi, xoang miệng, mang
tím bầm. Xuất huyết vi lưng, vi ngực, vi bụng, vi hậu môn, vi đuôi. Vi ngực tưa
rách. Hậu môn lồi đỏ. Giải phẩu bên trong thấy gan vàng nhạt hay đỏ bầm,
hoặc đỏ bầm ở rìa mép, gan sưng có đốm trắng, hay đỏ. Lách đen, thận sưng,
bóng khí đầy hơi, mạch máu trương to, ruột chứa ít thức ăn.
Hình 2 - Dấu hiệu bệnh lý của cá ba sa giống
35
- Cá thương phẩm: Cá ăn ít hoặc bỏ ăn, hay nhào lộn bất thường, bụng trướng
to, ngữa bụng trôi theo dòng nước tấp theo mặt khại bè, hay uốn cong thân, bơi lội
không định hướng. Biểu hiện bệnh lý bên ngòai cũng như bên trong của cá rất rõ
ràng. Xoang miệng cá xuất huyết, mang đen bầm, vi lưng, vi ngực, vi bụng, vi hậu
môn đều xuất huyết, vi ngực, vi lưng thường tưa rách, hay tia cứng bị gảy, vi đuôi
bị cụt, hậu môn lồi đỏ. Thân cá mất nhớt, màu da không tươi sáng, da bụng xuất
huyết, bụng trướng to, có mùi hôi đặc trưng, mặc dù cá vẫn còn sống.
Giải phẩu bên trong thấy gan đen bầm, màu vàng nhạt, hay đỏ sậm có đốm
trắng hoặc sưng, hay ửng đỏ từng vùng, dạ dày và ruột xuất huyết không chứa thức
ăn, bóng khí đầy hơi và xuất huyết, mật ửng vàng có đốm xanh, lách và thận đen
bầm,hoặc thận nhủn, mạch máu trương to, mô mở xuất huyết, thịt có đốm đỏ,
xoang bụng chứa dịch vàng.
Những dấu hiệu bệnh lý bên ngòai và bên trong của cá bệnh nêu trên, phần
nhiều trùng hợp với mô tả cá bệnh xuất huyết của Phan văn Ninh (1993) và
Nguyễn văn Hảo (1996).
III.2..3 Phân nhóm các dấu hiệu bệnh lý xuất hiện trên những mẫu cá
thu được
+ Cá giống: Trong 20 mẫu khảo sát, các biểu hiện bệnh lý bên ngòai của cá
được ghi nhận như sau: Cá có biểu hiện xuất huyết ở vi đuôi 19,50%, xoang
miệng 15,58%, vi ngực 12,98%, vi lưng 11,68%, vi hậu môn 11,68% và vành môi
10,38% chiếm tỉ lệ cao trong số lần bắt gặp. Biểu hiện của các dấu hiệu bệnh lý
nầy (được liệt kê trong bảng 6) xuất hiện với một vài dấu hiệu kết hợp với nhau
và chưa thấy trường hợp nào xuất hiện riêng lẻ.
36
Bảng 6. Tần số xúât hiện các dấu hiệu bệnh lý trên mẫu cá giống
Dấu hiệu bệnh lý Số lần xuất hiện Tỉ lệ %
Xuất huyết vi đuôi 15 19,50
Xuất huyết xoang miệng 12 15,58
Xuất huyết vi ngực 10 12,98
Xuất huyết vi lưng 9 11,68
Xuất huyết vi hậu môn 9 11,68
Xuất huyết vành môi 8 10,38
Xuất huyết vi bụng 6 7,80
Xuất huyết da bụng 3 3,60
Xuất huyết hàm dưới 2 2,60
Hậu môn lồi đỏ 2 2,60
Vi ngực tưa rách, gai cứ ng gảy 1 1,30
Cộng 77 100%
Biểu đồ 2 . Tần số xúât hiện các dấu hiệu bệnh lý trên mẫu cá giống
37
+ Cá thương phẩm
* Nhóm cá bệnh có biểu hiện bệnh lý bên ngòai
Gồm 47 mẫu cá, ghi nhận các biểu hiện bệnh lý bên ngòai như sau:Thịt có
đốm đỏ 16,43%, xuất huyết trên các vi như vi lưng 13,61%, vi ngực 13,61%, vi
bụng 13,15%, vi hậu môn 7,51%, vi đuôi 7,51%. Vi ngực, vi lưng tưa rách, gai
cứng bị gảy, xuất huyết da bụng chiếm tỉ lệ khá cao trong số lần bắt gặp. Các dấu
hiệu bệnh lý nêu trên, với vài dấu hiệu xuất hiện kết hợp với nhau và chưa thấy có
dấu hiệu nào xuất hiện riêng lẻ.
Bảng 7. Tần số xúât hiện các dấu hiệu bệnh lý trên mẫu cá thương phẩm
Dấu hiệu bệnh lý Số lần xuất hiện Tỉ lệ %
Thịt có đốm đỏ 35 16,43
Xuất huyết vi lưng 29 13,61
Xuất huyết vi ngực 29 13,61
Xuất huyết vi bụng 28 13,15
Xuất huyết vi đuôi 16 7,51
Xuất huyết vi hậu môn 16 7,51
Vi ngực tưa rách,gai cứng gảy 14 6,57
Vi lưng tưa rách, gai cứng gảy 11 5,16
Xuất huyết da bụng 8 3,76
Xuất huyết xoang miệng 7 3,30
Hậu môn lồi đỏ 6 2,82
Vi đuôi tưa rách 4 1,87
Bụng trướng 3 1,41
Thân mất nhớt 3 1,41
Vi bụng tưa rách 1 0,47
Da sần sùi 1 0,47
Xuất huyết hàm dưới 1 0,47
Xuất huyết vành môi 1 0,47
Cộng 213 100%
38
Biểu đồ 3. Tần số xúât hiện các dấu hiệu bệnh lý trên mẫu cá thương phẩm
*Nhóm cá bệnh không có biểu hiện xuất huyết bên ngòai
39
Gồm 8 mẫu cá thương phẩm bệnh trong mùa mưa. Khi quan sát bằng mắt
thường không thấy dấu hiệu bệnh lý bên ngoài, nhưng nội quan được ghi nhận có
những dấu hiệu khác thường về mầu sắc trên các cơ quan gan, thận, lách.
Bảng 8- Màu sắc các cơ quan gan, thận,lách của cá bệnh không biểu hiện xuất
huyết bên ngòai
Màu sắc cơ quan Số lần xuất hiện Tỉ lệ%
Gan: màu đen xám 7 29,17
Gan : màu vàng xanh 1 4,17
Thận : màu hồng nhạt 4 16,66
Thận: màu tái xám 3 12,5
Thận: màu xám nhạt 1 4,17
Lách : màu hồng nhạt 4 16,66
Lách: màu tái xám 3 12,5
Lách: màu xám nhạt 1 4,17
Cộng 24 100,00
Biểu đồ 4. Màu sắc các cơ quan gan, thận,lách của cá bệnh không biểu hiện
xuất huyết bên ngòai
40
41
Các dấu hiệu bệnh lý biểu hiện bên ngòai rõ nhất của cá ba sa được tóm tắt
như sau:
- Cá giống xuất huyết trên các vi: vi đuôi, vi ngực,vi lưng, vi hậu môn, xoang
miệng, vành môi có tỷ lệ khá cao.
- Cá thương phẩm: thịt có đốm đỏ, xuất huyết vi lưng, vi ngực, vi hậu môn,
xoang miệng, vi đuôi và các tia cứng bị gảy cũng có tỷ lệ khá cao.
- Cá không có dấu hiệu bệnh lý bên ngòai, nhưng bên trong nội quan có màu
sắc khác thường biểu hiện rõ trên gan, thận, lách.
Trong giới hạn đề tài không nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng. Nhưng những
nghiên cứu trước đây trên cá basa đã công bố một số ký sinh trùng gây bệnh như :
trùng bánh xe Trichodina ký sinh trên da cá, sán lá đơn chủ Silurodiscoides và
Silurodiscoides sp7 ký sinh trên mang cá, Balantidum, Nyctotherus ký sinh trong
ruột cá ba sa (Bùi Quang Tề 1993).
Bệnh xuất huyết trên cá ba sa xảy ra gần như quanh năm. Theo ngư dân nuôi
bè thì trong chu kỳ một năm, có những tháng bệnh bộc phát cao điểm như các
tháng mùa khô 2 - 4, mùa nước đỗ tháng 7 - 8, mùa nước rút tháng 11. Có lẽ do
những tháng mùa nắng, nhiệt độ không khí lên cao, trung bình từ 33-35oC, nhiệt
độ nước cũng tăng cao, dòng chảy chậm, mực nước thấp, cá dễ phát sinh bệnh.
Tháng nước đổ, nước từ thượng nguồn sông Mékông tràn về, mang đến khu vực
nuôi bè nhiều phù sa hòa tan trong nước, tốc độ dòng chảy rất mạnh, ngư dân di
chuyển bè nhiều lần có thể làm cá bỏ ăn, ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Tháng
nước rút, nước từ đồng ruộng, kênh, rạch, tuôn ra sông, mang nhiều chất hữu cơ do
cây cỏ phân hủy, dư lượng nông dược và hóa chất dùng trong nông nghiệp. Vì vậy,
vào các thời điểm nầy thường gặp cá bệnh.
III.3 Kết quả phân lập nuôi cấy và định danh vi khuẩn trên các mẫu cá
thu thập được
42
III.3.1 Số lượng mẫu theo mùa vụ, khu vực
Số lượng mẫu cá bệnh thu được là 75 mẫu, và 5 mẫu đối chứng (thu vào mùa
khô, trên bè sông Hậu) đều là cá nuôi bè, được chia theo mùa và khu vực.
- Mùa mưa có 53 mẫu, gồm 32 mẫu, thu trên khu vực bè sông Tiền, 21 mẫu
thu trên khu vực bè sông Hậu.
- Mùa khô có 22 mẫu, gồm 10 mẫu, thu trên khu vực bè sông Tiền, 12 mẫu
thu trên khu vực bè sông Hậu.
III.3.2 Kết quả phân lập định tính
III.3.2.1 Nuôi cấy và định danh vi khuẩn
Trên tổng số 80 mẫu thu cá ba sa bệnh và đối chứng. Kết qủa nuôi cấy và định
danh vi khuẩn phân lập được 2 giống Aeromonas và Pseudomonas gồm các lòai:
Aeromonas hydrophila, Aeromonas caviae, Aeromonas sobria, Aeromonas sp và
Pseudomonas sp.
a. Giống Aeromonas: thuộc họ Vibrionaceae. Các lòai vi khuẩn thuộc
giống Aeromonas chia thành 2 nhóm, nhóm không di động và di động. Nhóm
Aeromonas di động gồm Aeromonas hydrophila, A. caviae, A. sobria là những lòai
ưa nhiệt ôn hòa, di động (Poppoff 1984).
- Aeromonas sp
Vi khuẩn Aeromonas sp phân lập từ cá ba sa bệnh và cá đối chứng của bè nuôi
ở cả hai khu vực sông Tiền và sông Hậu vào mùa mưa lẫn mùa nắng. Aeromonas
sp được tìm thấy từ các mẫu phân lập gan, thận, lách cá giống cũng như cá thương
phẩm . Sự xuất hiện của Aeromonas sp đôi khi riêng lẻ, nhưng đa số các mẫu phân
lập xuất hiện các vi khuẩn khác như Aeromonas hydrophila, Aeromonas caviae,
Aeromonas sobria, Pseudomonas sp. Số lần xuất hiện của vi khuẩn Aeromonas sp
được thể hiện qua bảng 9.
43
Bảng 9. Tần số xuất hiện Aeromonas sp.
Số lần xuất hiện
LoÏai cá TSXH/n %
Cá giống 47/60 78,3
Cá thương phẩm 79/165 47,9
Cá khỏe 9/15 60
Ghi chú: TSXH/n : Tần số xuất hiện/ số mẫu
Aeromonas sp xuất hiện với tỉ số cao trên cá giống 78,3%, cá thương phẩm
47,9% cũng như cá đối chứng 60%.
+ Dấu hiệu bệnh lý quan sát trên cá thu mẫu bị nhiễm Aeromonas sp : Xuất
huyết vi ngực, vi lưng, vi đuôi, gai cứng vi lưng bị gảy, da sần sùi, thân mất nhớt,
hậu môn lồi đỏ. Xuất huyết vành môi, xoang miệng. Gan, thận sưng đỏ bầm, nội
quan khô.
+ Hình dạng khuẩn lạc và đặc điểm vi khuẩn Aeromonas sp
Khuẩn lạc hình tròn, rìa đều, bóng, trong suốt hoặc bán trong suốt, lồi thấp
hoặc dẹp, đường kính khuẩn lạc d: 2-3 mm. Vi khuẩn hình roi ngắn, bắt màu Gram
âm.
+ Các phản ứng sinh hóa và đường định danh vi khuẩn
Các phản ứng sinh hóa và đường được thể hiện qua bảng 10
Bảng 10. Các phản ứng sinh hóa và đường định danh vi khua ån
Các phản ứng sinh hóa và đường Aeromonas sp
OF/O, OF/F +
Motility +
Ornithine -
D.Glucose gas +
Oxydase +
Catalase +
Gelatine +
Urea, Phenylalanine -
44
+ Kháng sinh đồ: Kháng sinh đồ của vi khuẩn Aeromonas sp theo
Bảng 11. Kháng sinh đồ của vi khuẩn Aeromonas sp
Số TT Kháng sinh Aeromonas sp
1 Furazolidone S:kháng sinh nhạy cảm
2 Neomycine S: //
3 Gentamycine S: //
4 Penicilline R:kháng sinh đề kháng
5 Ampicilline R: //
6 Tetramycine R: //
7 Streptomycine R: //
8 Chloramphenicole R: //
9 Sulfamethoxazole N: ít nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien cuu benh xuat huyet tren Vi Xoang Mieng camp225 Basa Pangasius Bocourti Nuoi be tai An.pdf