Danh mục bảng
Bảng kí hiệu các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN.2
1.1. Pin nhiên liệu kiềm .2
1.1.1. Giới thiệu .2
1.1.2. Ưu điểm của pin nhiên liệu kiềm.2
1.1.3. Yêu cầu cấp thiết của việc chế tạo màng trao đổi anion .3
1.2. Các hệ màng trao đổi anion.4
1.2.1. Màng trao đổi anion đồng thể.4
1.2.1.1. Giới thiệu.4
1.2.1.2. Trùng hợp hoặc trùng ngưng monomer có tính cation.4
1.2.1.3. Quá trình đưa nhóm cation vào màng .7
1.2.1.4. Các phương pháp đưa tiểu phân bán cation vào polymer bằng
biến tính hóa học .9
1.2.2. Màng trao đổi anion dị thể.13
1.3. Các phương pháp sử dụng để khảo sát tính chất của màng .17
1.3.1. Phương pháp xác định độ dẫn ion của màng.17
1.3.2. Phương pháp xác định khả năng trao đổi ion .19
1.3.3. Phương pháp xác định khả năng hút nước.19
1.3.4. Độ bền nhiệt và độ bền cơ học .20
1.3.5. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân nghiên cứu cấu trúc của
màng.20
38 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 700 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chế tạo và tính chất của màng trao đổi anion trên cơ sở poly(vinyl alcohol) cho pin nhiên liệu kiềm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục những vấn đề của sự rò rỉ điện và kết tủa cacbonat trên các điện cực.
Pin nhiên liệu hoạt động tốt ở nhiệt độ thường, độ bền của pin cao (có thể lên
đến 40.000 giờ).
Nhiên liệu được lưu trữ, vận chuyển dễ dàng và có mật độ năng lượng cao.
1.1.3. Yêu cầu cấp thiết của việc chế tạo màng trao đổi anion
Hiện nay, màng trao đổi ion đang được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Một
trong những ứng dụng quan trọng nhất là việc sử dụng chúng trong các pin nhiên
liệu, do nhu cầu cao về năng lượng trên toàn cầu. Pin nhiên liệu kiềm sử dụng màng
trao đổi anion được cho là một hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn, thu hút được sự
quan tâm rộng rãi, do nhiều ưu điểm như động học của các phản ứng khử nhanh
hơn, có nhiều sự lựa chọn điện cực là các kim loại không quý, chi phí thấp như Ag
hoặc Ni và dễ quản lý nước.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến hiệu suất của pin
nhiên liệu màng trao đổi anion (AEMFC) là tính chất của các màng trao đổi anion
(AEM). Độ dẫn ion cao, khả năng kiểm soát nước tốt, hình thái học bề mặt ổn định,
có độ bền cơ học, nhiệt học và bền hóa học là những yêu cầu cơ bản cho màng trao
đổi anion AEM để được ứng dụng trong pin nhiên liệu kiềm.
Màng trao đổi anion là một bộ phận rất quan trọng trong cấu tạo của pin
nhiên liệu kiềm. Để có thể ứng dụng cho pin nhiên liệu kiềm, màng trao đổi anion
cần đạt được những tính chất sau:
- Có khả năng trao đổi anion OH- cao.
4
- Có độ dẫn anion cao.
- Có độ bền cơ học và bền với môi trường kiềm.
- Bền với nhiệt độ (thông thường pin nhiên liệu kiềm làm việc trong khoảng
nhiệt độ thấp hơn 1000C, do đó màng trao đổi anion cần có độ bền nhiệt tới
100
0C
).
- Khả năng hút nước không quá cao.
- Chiều dày của màng không quá lớn.
- Giá thành thấp.
1.2. Các hệ màng trao đổi anion
1.2.1. Màng trao đổi anion đồng thể
1.2.1.1. Giới thiệu
Màng đồng thể là loại màng được tạo thành từ cation polyme có khả năng
trao đổi anion. Những polyme này có chứa các nhóm ion như nhóm ammonium bậc
4 được cấy ghép vào khung xương của mạch polyme.
Tồn tại những phương pháp khác nhau dùng để chế tạo màng trao đổi anion
đồng thể [25]:
- Trùng hợp hoặc trùng ngưng monome chứa nhóm chức, nhóm này có
thể trở lại làm nhóm trao đổi anion, có thể đồng trùng hợp với những monome
(không) nhóm chức và cuối cùng tạo thành màng trao đổi anion.
- Đưa các nhóm cation vào màng bằng cách trực tiếp như gắn monome
đã được nhóm chức hóa hoặc bằng cách gián tiếp như gắn các monome chưa được
nhóm chức hóa sau đó tiến hành phản ứng nhóm chức hóa.
- Đưa nhóm bán cation vào polyme (hoặc hỗn hợp polyme) bằng sự điều
chỉnh hóa học, sau đó hòa tan polyme và tạo thành màng.
1.2.1.2. Trùng hợp hoặc trùng ngưng monome có tính cation
Tác giả [24, 35] đã chế tạo màng trao đổi anion có nhiều liên kết chéo. Trùng
hợp chloromethylstyrene được thực hiện dễ dàng sau khi đã tiến hành phản ứng bậc
bốn hóa. Tuy nhiên, polyme này cần phải được liên kết chéo. Divinylbenzene đã
được dùng để tạo liên kết chéo trong cả phản ứng trùng hợp và phản ứng bậc bốn
5
hóa. Màng thu được có khả năng trao đổi ion tốt (0,83-2,38x10-3 mol.g-1) và hàm
lượng nước rất thấp. Một phương pháp khác chế tạo màng từ việc clomethyl hóa
polysulfone, tiến hành phản ứng đồng trùng hợp thông qua liên kết chéo của
cloromethylstyren với divinylbenzene và một loạt các diamine (bằng cách thay đổi
độ dài của mạch alkyl). AEMs có khả năng trao đổi anion đạt 1,8 x10-3 mol/g [34].
Tương tự, nghiên cứu [23] đã sử dụng DVB (divinylbenzene) để tạo liên kết
chéo bằng phản ứng đồng trùng hợp với bromoalkylstyrenes hoặc
bromoalkyloxymethylstyrenes, sau đó bậc bốn hóa với triethylamine (hình 1.1).
Khả năng trao đổi anion của vật liệu thu được có chứa nhóm bromoalkoxy trong
khoảng 3-4 x10-3 mol/g. Loại màng này có độ bền nhiệt cao.
Hình 1.1. AEM trên cơ sở DVB và bậc bốn hóa
bromoalkyloxymethylstyrenes[23].
Nghiên cứu [36] đã đưa ra báo cáo về việc tìm ra phản ứng mở vòng thành
olefin, qua đó hỗ trợ quá trình điều chế màng trao đổi anion dạng kiềm thông qua
phản ứng đồng trùng hợp của tetraalkylammonium chức hóa norbornene với
dicyclopentadiene (hình 1.2). Màng mỏng điều chế được có độ bền cơ học cao và có
độ dẫn hydroxyl cao (28 S.cm-1) [36].
6
Hình 1.2.Sơ đồ tổng hợp AEM trên cơ sở norbornene và dicyclopentadiene[36].
Một cách mới để chế tạo màng trao đổi anion được phát triển với vật liệu ban
đầu chứa tetraakylammonium (hình 1.3). Độ dẫn riêng của màng đạt 68,7x10-3Scm-1
tại 220C và 111x10-3 Scm-1 tại 500C [26]. Màng cũng có độ dẫn ion hidroxyl tốt và
độ bền cơ học cao, là những yếu tố giúp cho màng trở thành tiềm năng để ứng dụng
vào pin nhiên liệu.
Hình 1.3. Sự tổng hợp màng trên cơ sở tetraalkylammonium
và cyclooctene [26].
Nghiên cứu [16] đã sử dụng nhóm tetraalkylammonium để chức hóa
polyethylene nhằm tạo ra màng trao đổi anion mới. Kết quả nghiên cứu cho thấy
màng có độ bền cơ học cao với độ dẫn ion đạt 40x10-3Scm-1 tại 200C, được ứng
dụng phù hợp với điều kiện hoạt động của pin nhiên liệu kiềm.
Tác giả [41] đã tổng hợp poly(methyl methacrylate-co-butylacrylate-co-
vinylbenzyl chloride ) bậc 4 hóa. Thay vì biến tính các polyme có sẵn trước đó, một
7
số monome với các nhóm chức chọn trước được đồng trùng hợp. Trong nghiên cứu
này, methyl methacrylate được dùng để làm tăng độ bền cơ học cho màng,
vinylbenzyl clorua cung cấp nhóm chức và cuối cùng butyl acrylat được dùng để
làm cho vật liệu dẻo dai hơn. Polyme thu được có độ dẫn ion là 8,2x10-3Scm-1 tại
80
0
C. Khi thử nghiệm loại màng này trong pin nhiên liệu thu được một đỉnh của
mật độ năng lượng là 35x10-3Wcm-2 tại 600C [41].
1.2.1.3. Quá trình đưa nhóm cation vào màng
Một phương pháp khác để điều chế màng trao đổi anion là bắt đầu từ polyme
và đính thêm các monome chứa nhóm chức hoặc các monome có thể biến tính. Việc
ghép được tiến hành bằng các phương pháp như hồng ngoại, UV hoặc plasma.
Chloromethyl styrene(CMS) có độ bền cao nên được ưu tiên dùng trong ghép bức
xạ.
Hình 1.4. Sự tổng hợp AEM bằng bức xạ ghép ethylene-tetrafluoroethylene
(ETFE)[19].
Nghiên cứu của Varcoe và Slade về việc gắn CMS vào FEP [29] và ETFE [2,
31] bằng phản ứng bức xạ và polyme hóa cho ra một kết quả đầy hứa hẹn cho AFC.
Hình 1.4 đưa ra quy trình tổng hợp màng trao đổi anion dựa trên ETFE. Màng mỏng
được kích thích bằng chùm tia electron, sau khi kích thích màng được nhúng vào
dung dịch vinylbenzyl clorua. Màng copolyme được ngâm trong dung dịch
trimethylamine nhằm hình thành nhóm ammonium bậc 4. Bước cuối cùng trong quá
trình tổng hợp là tiến hành trao đổi kiềm bằng cách ngâm vào dung dịch KOH.
Màng trao đổi anion điều chế từ FEP cũng áp dụng phương pháp tương tự cho độ
dẫn trong khoảng 10-20 x10-3 S/cm tại nhiệt độ phòng [29, 37]. Kiểm nghiệm trong
8
điều kiện vận hành của pin nhiên liệu với loại màng cho đỉnh có mật độ năng lượng
55x10
-3
W/cm
2
tại hiệu điện thế 0,5V ở 500C và độ ẩm 100%.
Loại màng chứa nhóm chức ammonium bậc 4 được gắn vào bằng bức xạ trên
nền ETFE ( hình 1.5) có độ dẫn cao (34 x10-3 S/cm ở 500C) [18]. Những nghiên cứu
[2, 18, 20, 31] đã phát triển loại màng này. Hiệu suất vận hành của pin nhiên liệu
với loại polyme dẫn này đạt được với các màng có độ dày khác nhau và các điện
cực có thiết kế khác nhau (chất xúc tác Pt hoặc không chứa Pt). Mật độ năng lượng
của của các màng dày(153µm) là 55x10-3Wcm-2 và đạt 130x10-3Wcm-2 cho màng
mỏng (51µm) [20]. Kết quả trên đã chỉ ra rằng việc làm giảm độ dày của màng trao
đổi anion sẽ giúp cải thiện hiệu suất của pin nhiên liệu do làm giảm điện trở của
màng.
Hình 1.5. Màng chứa nhóm chức ammonium bậc 4 đƣợc gắn vào bằng bức xạ
trên nền ETFE[18].
Một vài loại màng điều chế bằng cách gắn triflorostyrene vào PVDF, PE,
ETFE và PTFE (polytetrafluoroethylene) bằng bức xạ [33]. Polyme tạo thành được
haloankyl hóa và ammonium bậc 4 hóa để tạo ra màng trao đổi anion. Trong các
loại màng thì loại dựa trên nền PE có điện trở suất thấp nhất (1,4 Ωcm-2) và khả
năng trao đổi ion đạt 0,86x10-3mol.g-1.
9
Với phương pháp khác, nghiên cứu [30] đã chế tạo màng từ polyethylene
(PE) bằng cách gắn SOCl2 thay vì monome và sử dụng tia UV (hình 1.6). Sau khi
biến tính quang hóa, polyme được chức hóa với diamines.
Hình 1.6. Sơ đồ tổng hợp AEM trên cơ sở polyethylene và tia UV[30].
Màng trao đổi anion kiềm (AAEM) được tổng hợp bằng cách dùng chùm tia
electron chiếu xạ vào lớp màng poly(ethylene-co-tetrafluoroethylene) gắn với
monome vinylbenzyl chloride (VBC). Kết quả là nhóm metylclorua phản ứng ngay
với trimethylamine để tạo thành nhóm ammonium bậc bốn. Kết quả khảo sát trên
pin nhiên liệu sử dụng H2 và O2 cho ra cùng một pic mật độ năng lượng (164±3
x10
-3
Wcm
-2
) với 2 loại màng AAEM điều chế bằng 100% VBC và 20% VBC [27].
1.2.1.4. Các phương pháp đưa tiểu phân bán cation vào polyme bằng biến tính
hóa học
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các phương pháp chế tạo màng trao đổi ion từ
màng polyme bằng biến tính hóa học. Nó được phân loại dựa trên cơ sở các vật liệu
ban đầu.
1.2.1.4.1. Màng điều chế từ Epichlorohydrin
Nghiên cứu [1, 10] đã sử dụng polyether dựa trên nền epichlorohydrin để
điều chế AEMs do polyether ổn định hơn trong môi trường kiềm. Tác giả đưa nhóm
ammonium vào khung xương polyme bằng 2 cách: trực tiếp đính vào DABCO(1,4-
10
diazabicyclo[2.2.2]octane), hoặc trộn DABCO và trietylamin (TEA) (hình 1.7).
Màng thu được có độ dẫn ion lớn hơn 10-2 S/cm [10].
Hình 1.7. Cấu trúc hóa học của poly(epichlorohydrin) bậc bốn hóa bởi TEA và
DABCO [10].
Stoica và cộng sự [8, 9] đã nghiên cứu một loại màng trao đổi anion từ
poly(epichlorhydrin-co-allyl glycidyl ether). Hai amine vòng, DABCO và 1-
azabicyclo-[2,2,2]-octane (quinuclidine), kết hợp với nhau (hình 1.8) để thể hiện
tính chất anion.
11
Hình1.8. Sơ đồ tổng hợp màng poly(epichlorhydrin-co-allyl glycidyl ether) bậc
bốn và liên kết chéo[9].
Để tăng độ bền, màng được tạo liên kết chéo bằng xử lý nhiệt hoặc quang
hóa. Màng có độ dẫn cao mà không cho thêm bất cứ một lượng KOH nào. Tại 600C
và độ ẩm 98%, màng có độ dẫn hydroxyl là 1,3x10-2Scm-1 [8] và khả năng trao đổi
12
ion là 1,3 x10-3 mol/g [9]. Hiệu suất của màng khi tham gia vận hành pin nhiên liệu
H2/O2 cho mật độ năng lượng là 100x10
-3
Wcm
-2
tại mật độ dòng 270x10-3Acm-2 [7].
1.2.1.4.2. Màng trao đổi anion điều chế từ Polypropylen (PP)
Màng trao đổi anion mới được điều chế dựa trên phản ứng amin hóa giữa PP
đã được clo hóa (CPP) và ethylenediamine (EDA). Loại màng này có khả năng trao
đổi ion nằm trong khoảng 0,557-1,498 x10-3 mol/g và độ dẫn ion từ 4,7-10 x10-3
S/cm [17].
1.2.1.4.3. Màng điều chế từ Poly(vinyl alcohol) (PVA) gắn thêm Chitosan.
Do màng PVA có độ bền cơ học thấp, nghiên cứu [45] đã ghép chitosan vào
màng để tăng độ bền của màng. Cả 2 loại polyme được bậc bốn hóa tạo thành
QAPVA, 2-hydroxypropyltrimethyl ammonium chloride chitosan (HACC)và tạo
liên kết chéo bằng glutaraldehyde. Màng hỗn hợp thu được có cấu trúc đặc hơn, độ
bền cơ học tốt hơn và độ dẫn cao trong khoảng 10-3 đến 10-2 Scm-1.
1.2.1.4.4. Màng trao đổi anion được tổng hợp dựa trên Morpholine[48]
Màng trao đổi anion trên cơ sở biến tính poly(vinyl alcohol) bậc 4 và phân
nhánh (QPVA) được chế tạo để ứng dụng trong pin nhiên liệu kiềm. Loại màng này
có tính chất điện và tính chất nhiệt tốt, được điều chế bằng một quy trình tương đối
đơn giản, sử dụng 4-metyl-4-glycidylmorphin-4-ium chloride (MGMC) là hóa chất
không độc và rẻ tiền, bằng cách cấy ghép vào một tác nhân tạo bazơ bậc 4 một số
đơn vị morpholine no (hoạt động như một nhóm cố định điện tích), tiếp theo là phản
ứng của các nhóm hydroxyl với các lượng khác nhau của nhựa epoxy bisphenol-
A(DGEBA) và sau đó kiềm hóa. Các màng này thể hiện độ bền nhiệt tốt (dưới
210
0C), độ dẫn ion vào khoảng 5,21x10-2 Scm-1 ở 600C.
1.2.1.4.5. Màng trao đổi anion điều chế từ PVA bậc 4 hóa với
hydroxyethylcellulose ethoxylate [49]
Màng trao đổi anion mới được điều chế từ PVA liên kết với
hydroxyethylcellulose ethoxylate được biến tính bậc 4 hóa (PVA/QHECE). Khả
năng trao đổi ion, tính chất cơ học, kích thước và độ bền của PVA/QHECE được đo
để đánh giá khả năng ứng dụng của nó trong pin nhiên liệu kiềm methanol trực tiếp
13
(DAMFC). Độ dẫn của màng tăng theo nhiệt độ và đạt tới 7,5x10-3Scm-1 tại 900C
nhưng không có sự thay đổi về hàm lượng của nước và methanol theo nhiệt độ. Mặt
khác, màng PVA/QHECE có độ bền ổn định trong môi trường kiềm cao 6M và
80
0
C trong một tuần nhưng độ dẫn và cấu trúc màng không thay đổi.
Trong các loại màng trao đổi ion, màng trao đổi anion đồng thể có thể đạt
được sự phân bố điện tích đồng nhất trên toàn bộ nền mẫu. Loại màng trao đổi
anion thành công nhất được điều chế bằng phản ứng đồng trùng hợp của
chloromethylstyren và divinyl benzene hoặc butadiene. Tuy nhiên,
chloromethylstyrene có giá thành cao, là một trong những nhược điểm cần khắc
phục.
Việc đưa tiểu phân bán cation vào nền mẫu polyme bằng biến tính hóa học
cũng được sử dụng rộng rãi. Các màng chế tạo từ styrene, poly(ether imide) hoặc
polysulfone có 1 vấn đề là khi điều chế chúng, phải tiếp xúc thường xuyên với
chloromethyl ether, đó là 1 tác nhân gây ung thư. Màng được điều chế từ chitosan,
epichlorohydrin và PVA có độ dẫn ion tốt nhưng độ bền cơ học kém và độ hút nước
lớn, điều này ảnh hưởng đến độ bền của màng trao đổi anion.
1.2.2. Màng trao đổi anion dị thể
Trong màng trao đổi anion dị thể, thành phần cung cấp anion là một cấu tử
độc lập so với polyme (tức màng có cấu tạo gồm ít nhất hai thành phần là chất cho
OH
-
và nền polyme).
Những nghiên cứu về màng trao đổi anion dị thể trên cơ sở của poly(vinyl
alcohol) (PVA) đã đưa ra kết quả tốt về độ bền hóa học và tính ưa nước. PVA có
tính ưa nước do có nhóm OH- nằm trong thành phần polyme mà có thể tương tác rất
mạnh với nước. Độ dẫn của hệ polyme điện li PVA-KOH-H2O xấp xỉ 10
-3
Scm
-1
tại
nhiệt độ phòng [3].
Những nghiên cứu về hỗn hợp chứa PVA nhằm làm giảm độ kết tinh từ đó
tăng mức độ vô định hình và làm tăng độ dẫn điện riêng của màng. Màng trao đổi
được chế tạo từ hỗn hợp của PVA và poly(epichlohidrin)(PECH). Việc cho thêm
14
PECH vào PVA, vùng vô định hình của polyme tăng và độ dẫn đạt 2x10-2 Scm-1 tại
nhiệt độ phòng [5].
Nghiên cứu [6] đã chế tạo màng trao đổi anion trên cơ sở hỗn hợp PVA và
tetraethyl ammoniumchloride (TEAC). TEAC được trộn trực tiếp với PVA để tạo
thành màng trao đổi anion. Màng này có số tải anion nằm trong khoảng 0,82-0,99
và độ dẫn ion là 2x10-2Scm-1 tại nhiệt độ phòng.
Hình 1.9. Sơ đồ tổng hợp màng từ PVA pha trộn với
tetraethyl ammonium chloride [6].
Nghiên cứu đã tổng hợp màng trao đổi anion từ PVA và poly(acrylic acid)
(PAA) [14]. Axit acrylic được trộn với PVA, sau đó quá trình polyme hóa theo cơ
chế gốc tự do xảy ra để hình thành polyme dẫn anion. Tiếp theo, màng PVA/PAA
được ngâm trong dd KOH 32%. Độ dẫn ion của hệ PVA/PAA/KOH đo được là
30x10
-2
Scm
-1
tại nhiệt độ phòng. Màng hỗn hợp này cũng có được những tính chất
nhiệt học và cơ học tốt. Màng bền trong khoảng nhiệt độ rộng từ 250C-900C. Màng
PVA/PAA với độ dẫn tốt, độ bền cơ học cao là một lựa chọn phù hợp để ứng dụng
trong AFC.
Tác giả [40, 42] đã sử dụng chitosan để chế tạo nền mẫu cho màng trao đổi
ion. Màng hỗn hợp được chế tạo trên nền chitosan, kiềm bằng cách đưa KOH vào
như là một nguồn cung cấp anion OH- và glutaraldehyde là tác nhân tạo liên kết
chéo. Màng có độ dẫn vào khoảng 1-3x10-2Scm-1 sau khi hidrat hóa. Trong nghiên
cứu, tác giả đã công bố những đánh giá sơ bộ về tính khả thi của việc sử dụng màng
hỗn hợp chitosan kiềm ứng dụng cho pin nhiên liệu [42].
Sự biến tính PVA để chế tạo màng trao đổi anion là một trong những hướng
nghiên cứu để đáp ứng được yêu cầu cần thiết của pin nhiên liệu. Sự biến tính PVA
15
được thực hiện bằng cách chiếu xạ tia gamma vào dung dịch PVA và tiếp sau bởi
một loạt các xử lý bức xạ khác. Sau đó ngâm vào chất điện ly để tạo thành màng với
độ dẫn cao. Việc cải thiện cấu trúc của PVA có thể làm tăng khả năng dẫn điện của
màng (0,3 Scm-1 tới 0,34 Scm-1) [32]. Cấu trúc và độ dẫn của màng không thay đổi
sau 14 tháng, kể cả khi màng được ngâm trong dung dịch kiềm mạnh.
Hình 1.10. Sơ đồ liên kết chéo của PVA sử dụng bức xạ [32].
Ngoài ra màng dị thể còn được chế tạo trên cơ sở các hợp chất vô cơ và hữu
cơ. Nói chung, phần hữu cơ quyết định tính chất điện hóa và phần vô cơ quyết định
tính chất cơ học. Trong hầu hết các trường hợp, màng trao đổi anion dị thể được
điều chế bằng phương pháp sol-gel, tuy nhiên một vài phương pháp khác cũng có
thể được áp dụng như xen kẽ, pha trộn trong quá trình polyme hóa hoặc tự tổng hợp
phân tử.
Nghiên cứu [43] đã chế tạo màng trao đổi anion bằng phương pháp sol-gel
nhóm chức trimethoxysilyl bởi nhóm cation ((N-triethoxysilylpropyl-N,N,N-
trimethyl ammonium iodine) để tạo ra màng PEO-[Si(OCH3)3]2. Với hệ vật liệu
này, các nhóm cation được gắn vào khung xương polyme (hình 1.11) để anion OH-
di chuyển. Màng dị thể hữu cơ- vô cơ này có độ dẫn ion là 3x10-3Scm-1.
16
Hình 1.11. Quy trình tổng hợp alkoxysilane mang điện-chức hóa polyethylene
oxide (PEO) để tạo màng (PEO-[Si(OCH3)3]2) [43].
Nhóm nghiên cứu của Wu [44] đã chế tạo màng trao đổi anion PVA-SiO2 từ
PVA, N-triethoxysilylpropyl-N,N,N-trymethylammonium iodine và một số tác nhân
tạo liên kết chéo khác nhau như tetraethoxysilane
hoặc glycidoxypropyltrimethoxysilane. Bằng việc tăng các tác nhân tạo liên kết
chéo, khả năng trao đổi ion tăng từ 0,76 đến 1,01 x10-3 mol/g [44].
Màng trao đổi anion dị thể được tổng hợp bằng quá trình sol-gel và tiếp tục
xử lý bằng UV hoặc bằng nhiệt. Phản ứng alkyl hóa giữa triethoxysilylpropylamine
(TESPA) và alkoxysilane chứa nhóm acrylate hoặc epoxy
(như γ-methacryloxypropyltrimethoxysilane (γ-MPS) hoặc
γ-glycidoxypropyltrimethoxilane (GPTMS). Loại màng này có khả năng trao đổi
ion vào khoảng từ 0,9-1,6 x10-3 mol/g [39].
Một số màng trao đổi ion được chế tạo dựa trên nền PVA, TiO2, KOH và
H2O [28, 47]. Hạt TiO2 được độn vào chất dẻo làm tăng hoạt tính điện hóa của vật
17
liệu, TiO2 kết hợp trực tiếp với PVA và dung dịch KOH. Sản phẩm thu được có độ
dẫn ion từ 102- 171x10-3 S/cm ở 200C. Loại màng này được xem xét ứng dụng cho
pin Zn-Ni, tuy nhiên nó cũng có thể phù hợp cho pin nhiên liệu.
Yang [46] đã đưa ra quy trình chế tạo và khảo sát tính chất của hệ màng trao
đổi anion PVA/ZrO2. Cấu trúc nano (20-30 nm) của chất độn ZrO2 được trộn trực
tiếp với PVA và dung dịch KOH. Vật liệu thu được có độ dẫn ion cao là
267x10
-3
S/cm tại 200C.
Màng trao đổi ion dị thể được chế tạo trên cơ sở các hợp chất vô cơ và hữu
cơ là 1 vật liệu hứa hẹn cho tương lai của pin nhiên liệu, nó không chỉ có được các
đặc tính hóa học của các vật liệu hữu cơ mà còn có độ bền, tính ổn định của các hợp
chất vô cơ. Việc cho thêm các vật liệu vô cơ vào nền polyme giúp tăng độ bền cơ
học, tuy nhiên khi xét đến các tính chất điện hóa như độ dẫn điện các màng dị thể
có hiệu quả thấp hơn các màng đồng thể [15]. Các nghiên cứu mở rộng cần được
tiếp tục phát triển để có thể đạt được những điều kiện tốt hơn ví dụ như làm sao để
kiểm soát tốt hơn điều kiện phản ứng. Các yếu tố này có thể được cải thiện bằng
cách chọn tiền chất phù hợp cũng như các chất mang điện tốt hơn.
1.3. Các phƣơng pháp sử dụng để khảo sát tính chất của màng
1.3.1. Phương pháp xác định độ dẫn ion của màng
Trong các nghiên cứu [11, 12, 38], các tác giả đã sử dụng phương pháp phổ
tổng trở để xác định độ dẫn ion của màng.
Phổ tổng trở là phương pháp được sử dụng để xác định các tham số của vật
liệu như: hằng số điện môi, độ dẫn điện, đặc biệt là độ dẫn ion trong các vật liệu có
tính dẫn ion. Tổng trở của mẫu đo được xác định bằng cách áp thế hiệu xoay chiều
biên độ nhỏ vào mẫu ở một dãy tần số thích hợp, phân tích các dữ liệu thu được
( điện thế, dòng điện) ở các mức tần số tương ứng ta sẽ tính được độ lệch pha và
tổng trở cũng như các hàm trở kháng khác.
Phương pháp đo tổng trở bằng cách áp một dao động nhỏ của điện thế hoặc
dòng điện lên hệ thống được nghiên cứu, thu được tín hiệu có dạng hình sin lệch
pha so với dao động áp đặt và tổng trở của hệ điện hóa.
18
Một hệ điện hóa có thể coi như mạch điện bao gồm :
- Điện dung của lớp điện kép coi như một tụ điện: C
- Tổng trở của vật liệu: R
Hình 1.12. Sơ đồ mạch điện của hệ điện hóa
Trong phương pháp này, dựa vào sự tương đồng giữa các quá trình xảy ra
trên mẫu ( khi đo tổng trở) và các thành phần điện trở, tụ điện của mạch điện, người
ta thiết lập lên mạch tương đương. Từ việc trùng khít đường cong thực nghiệm rút
ra từ mô hình mạch tương đương với đường phổ tổng trở, chúng ta sẽ tìm ra các
tham số của vật liệu.
Phổ tổng trở thường được biểu diễn trên giản đồ Nyquist đó là đồ thị biểu
diễn sự phụ thuộc của phần thực tổng trở vào phần ảo của nó: (Z’, Z”) ở nhiều dải
tần số.
Hình 1.13. Phổ Nyquist của một hệ điện hóa không xảy ra khuếch tán
Độ dẫn ion (σ )(S/cm) của màng đã được tính toán bằng cách sử dụng công
thức:
Trong đó l (cm) là khoảng cách giữa hai điện cực hoặc độ dày của màng, R
(Ω) là điện trở của màng, và A là diện tích mặt cắt ngang (cm2) của các mẫu màng.
19
Độ dẫn ion của màng trao đổi ion được đo với thiết bị điện Parstat 2263
(Princeton Advanced Technology, Mỹ) có giá trị là 5,2 x10-3 S/cm khi ngâm màng
trong nước [12].
Phổ tổng trở của màng trao đổi anion được đo bằng một tế bào dẫn gồm hai
đầu dò được sử dụng để lắp ráp các mẫu màng và độ dẫn ion của màng có giá trị là
6,8 x10
-3
S/cm [38].
Màng trao đổi anion trong pin nhiên liệu vi khuẩn được đặt trong một đầu đo
(0,62 cm
2) và độ dẫn ion của màng có giá trị 2,4 x10-3 S/cm[11].
1.3.2. Phương pháp xác định khả năng trao đổi ion
Khả năng trao đổi ion (IEC) là một tính chất quan trọng của màng trao đổi
anion và được xác định bằng phương pháp chuẩn độ ngược [11, 48]. Giá trị
IEC(mol/g) đã được tính toán bằng cách sử dụng phương trình sau :
IEC=
no,HCl: sốmol HCl trước khi ngâm màng
ne , HCl: sốmol HCl sau khi ngâm màng
md: khối lượng của màng khô (g )
Các giá trị thực nghiệm IEC của các màng trao đổi ion trong khoảng 2,36-
2,73 x10
-3
mol/g [48].
Giá trị khả năng trao đổi ion (IEC) của màng QPEI là 0,968 x10-3 mol/g [11].
1.3.3. Phương pháp xác định khả năng hấp thu nước
Khả năng hấp thu nước của màng trao đổi anion ứng dụng trong các pin
nhiên liệu kiềm [48] được khảo sát bằng cách màng được cân sau khi sấy ở 65°C
trong 24h trong chân không cho đến khi thu được khối lượng không đổi (md). Sau
đó, màng được ngâm trong nước cất tại nhiệt độ mong muốn trong 24 giờ, lấy ra và
nhanh chóng lau nước trên bề mặt bằng giấy thấm. Cuối cùng, khối lượng màng ướt
(mw) được cân lại. Độ hấp thu nước ( Wu) được xác định bằng phương trình :
Wu(%)= x 100%
20
Nghiên cứu [48] đã khảo sát độ hấp thu nước của màng trao đổi anion trên cơ
sở poly(vinyl alcohol) có giá trị lớn hơn 100% .
Màng trao đổi anion trên cơ sở poly (ether imide) dùng trong pin nhiên liệu
vi khuẩn có độ hấp thu nước là 42% [11].
1.3.4. Độ bền nhiệt và độ bền cơ học
Độ bền nhiệt của màng được xác định bằng phương pháp phân tích nhiệt
trọng lượng (TGA).
Phân tích nhiệt trọng lượng là phương pháp phân tích trong đó sự thay đổi
khối lượng của mẫu dưới sự thay đổi của nhiệt độ theo một chương trình được ghi
lại như là một hàm số của nhiệt độ hoặc thời gian.
Kỹ thuật phân tích nhiệt trọng lượng dựa trên cơ sở ghi lại liên tục sự thay
đổi khối lượng của mẫu trong quá trình gia nhiệt hoặc làm lạnh, và hữu ích khi phân
tích định lượng các thay đổi vật lý hoặc hóa học với sự thay đổi về khối lượng. Ví
dụ các biến đổi về hóa học do sự mất nước, phân hủy, oxy hóa, và sự khửhoặc
các thay đổi vật lý như thăng hoa, bay hơi, hấp thụ và khử hấp thụ.
Từ kết quả phân tích nhiệt trọng lượng ta sẽ biết được nhiệt độ ban đầu và
kết thúc của sự tăng và giảm khối lượng cũng như khối lượng mất đi.
Nghiên cứu [22] về màng nano composite của poly(vinyl alcohol) ứng dụng
làm màng trao đổi proton cho DMFC có sự suy giảm khối lượng đột ngột trong
khoảng 1600Cđến 3000C.
Nghiên cứu tiến hành phân tích nhiệt trọng lượng (TGA) của màng trao đổi
anion ứng dụng trong các pin nhiên liệu kiềm với thiết bị phân tích nhiệt Perkin
Elmer TGA-2 [48] cho thấy sự ổn định nhiệt tốt của màng với độ hụt khối 10% ở
200°C.
1.3.5. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân nghiên cứu cấu trúc của màng
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) là một phương pháp vật lý hiện đại
nghiên cứu cấu tạo của các hợp chất hữu cơ và có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định cấu tạo các phân tử phức tạp.
21
Phương pháp phổ NMR nghiên cứu cấu trúc phân tử bằng sự tương tác bức
xạ điện t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003350_4595_2002649.pdf