2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của
nông hộ theo GAP . 49
2.2.1. Nhóm nhân tố điều kiện sản xuất . 49
2.2.2. Nhóm nhân tố đặc điểm nông hộ . 52
2.2.3. Nhóm nhân tố thị trường . 55
2.2.4. Nhóm nhân tố đầu tư doanh nghiệp . 57
2.2.5. Nhóm nhân tố hỗ trợ của nhà nước . 57
2.3. Các nhân tố tác động đến đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông
hộ theo GAP - Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt Nam . 59
2.3.1. Kinh nghiệm GAP tại Nhật Bản . 59
2.3.2. Kinh nghiệm GAP tại Thái Lan . 61
2.3.3. Kinh nghiệm GAP tại Malaysia . 63
2.3.4. Bài học rút ra cho Việt Nam nói chung và cho Ninh Thuận nói riêng . 64
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 . 67
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NÔNG HỘ THEO
GAP Ở TỈNH NINH THUẬN . 68
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Ninh Thuận . 68
3.1.1. Điều kiện tự nhiên . 68
3.1.2. Điều kiện xã hội . 70
3.2. Thực trạng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông hộ theo GAP
ở Ninh Thuận . 71
3.2.1. Khái quát về phát triển sản xuất nông nghiệp theo GAP ở Ninh Thuận . 71
3.2.2. Vốn và nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông hộ
theo GAP . 72
 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
208 trang | 
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 746 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông hộ theo tiêu chuẩn gap - Phân tích trường hợp Ninh Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phí đầu tư các cơ sở hạ tầng khác nhằm đảm bảo tiêu chuẩn 
GAP bao gồm đầu tư nhà kho chứa vật tư, khu vực ủ phân, hồ xử lý nước tưới, di dời 
những hệ thống hạ tầng không được phép ở gần (như chuồng trại chăn nuôi, nhà vệ 
sinh,),... với tổng số vốn đầu tư bình quân khoảng 190,02 triệu đồng/ha. Khoản chi 
phí này thì chỉ có các hộ sản xuất theo GAP mới đầu tư, còn các hộ khác thì đa số 
không đầu tư. (Hình 3.4) 
3.2.3.3. Đầu tư của nông hộ cho vật tư nông nghiệp 
Tổng vốn đầu tư vật tư nông nghiệp thời kì đầu tư kiến thiết cơ bản (9 tháng - 1 
năm) là 251,29 triệu đồng/ha, trong đó bao gồm 216,98 triệu là đầu tư cho phân bón 
thuốc trừ sâu; 37,31 triệu/ha là đầu tư cho phân chuồng. Vốn đầu tư cho giai đoạn này 
thấp hơn 18,41 triệu đồng/ha so với đầu tư sản xuất không theo GAP. 
- Đối với cây nho: Thời kỳ đầu tư kiến thiết cơ bản kéo dài khoảng 8-9 tháng, 
giai đoạn này khoảng 2 tháng bón phân một lần. Phân bón cho giai đoạn này có thể 
dùng phân hữu cơ sinh học đạt tiêu chuẩn định lượng quy định (HCSH) với số lượng 
4.000 kg/ha hoặc phân hóa học gồm Urê 650 kg + Super lân 1.000 kg/ha + Clorua kali 
450 kg/ha, vôi 01 tấn/ha và 20 tấn/ha phân chuồng ủ hoai. Chia ra các lần bón như sau: 
Bón lót: Đào hố bón 8-10 Kg phân chuồng hoai, lấp đất trước khi trồng 15 ngày. Bón 
thúc lần 1: Bón 650kg phân HCSH hoặc 75 Kg Urê + 100 Kg Super lân + 45 Kg 
Clorua kali, bón khi cây nho mới bén rễ. Bón thúc lần 2: Bón 650kg phân HCSH hoặc 
75 Kg Urê + 100 Kg Super lân + 45 Kg Clorua kali, bón sau khi trồng 2 tháng. Bón 
thúc lần 3: Bón 1.350 Kg phân HCSH hoặc 150 Kg Urê + 180 Kg Super lân + 85 Kg 
Clorua kali, bón sau khi trồng 4 tháng. Bón thúc lần 4: Bón 1.350 Kg phân HCSH 
hoặc 150 Kg Urê + 200 Kg Super lân + 85 Kg Clorua kali, bón sau khi trồng 6 tháng. 
 81 
- Cách bón: Bón quanh gốc kết hợp xới xáo xung quanh vùng rễ, lần đầu cách 
gốc 20 cm, các lần kế tiếp xới xa dần, bón xong tưới nước ngay. Đối với táo bón tương 
tự như bón với nho. 
Bảng 3.6: Đầu tư vật tư nông nghiệp theo GAP và không theo GAP 
STT Chỉ tiêu 
Nhóm hộ không sản xuất 
theo GAP (TrĐ/ha) 
Nhóm hộ sản xuất 
theo GAP (TrĐ/ha) 
A Đầu tư kiến thiết cơ bản 484,42 468,66 
1 Phân bón, thuốc trừ sâu 240,44 216,98 
2 Phân chuồng 29,26 37,31 
3 Công chăm sóc 214,72 217,37 
B Đầu tư bình quân 1 năm 364,19 425,08 
1 Phân bón, thuốc trừ sâu 203,31 240,4 
2 Phân chuồng 29,26 42,26 
3 Công chăm sóc 131,62 142,42 
I Đầu tư Vụ Đông Xuân 153,94 186,1 
1 Phân bón, thuốc trừ sâu 75,72 91,11 
2 Phân chuồng 29,26 42,22 
3 Công chăm sóc 48,96 52,77 
II Đầu tư vụ 2 79,41 84,98 
1 Phân bón, thuốc trừ sâu 50,27 53,31 
2 Phân chuồng 0 0 
3 Công chăm sóc 29,14 31,67 
III Đầu tư vụ 3 130,84 154 
1 Phân bón, thuốc trừ sâu 77,32 95,98 
2 Phân chuồng 0 0 
3 Công chăm sóc 53,52 57,98 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Tổng số vốn đầu tư vật tư nông nghiệp giai đoạn sản xuất kinh doanh bình quân 
hằng năm là 282,66 triệu đồng/ha chia đều cho 3 vụ, vụ đông xuân chiếm 47,2% tổng 
vốn đầu tư, vụ 2 chiếm 18,84% và vụ 3 chiếm 33,96%. Cao hơn so với đầu tư không 
theo GAP khoảng 50,09 triệu đồng/ha. 
 82 
Đối với cây nho ( tính bình quân cho 1ha/1 vụ nho) 
- Về phân chuồng thì bình quân khoảng 20 Tấn/ha/Vụ (chỉ bón cho vụ Đông 
Xuân), bón ngay khi thu hết trái vụ trước. 
- Về phân hóa học thì bón theo công thức NPK là 184-160-200 Kg/ha/vụ. 
Bảng 3.7: Quy chuẩn và cách bón phân cho cây nho 
Loại dưỡng chất Quy ra phân 
 Cách bón (kg) 
 (1) (2) (3) (4) (5) 
 N : 184 kg Urea: 400 kg - 160 80 120 40 
 P2O5: 160 kg Superlân: 1000 kg 700 - - 300 - 
 K2O : 200 kg Cl.Kali: 330 kg - 132 33 66 99 
* Chú thích: 
(1): Bón ngay khi thu hoạch hết trái vụ trước; (2): Bón trước cắt cành 10 - 15 ngày; 
(3): Bón sau cắt cành 10 - 15 ngày; (4): Bón sau cắt cành 35 - 40 ngày; (5): Bón sau 
cắt cành 55 - 60 ngày. 
Nguồn: Quy trình sản xuất nho theo tiêu chuẩn VietGAP, BQL DA QSEAP Ninh Thuận 
Việc bón phân theo hướng hữu cơ sinh học (HCSH) hoặc hữu cơ sinh học kết 
hợp với phân hóa học cũng đang được khuyến khích. Nếu bón theo hướng HCSH thì 
bón 4.000 kg/ha chia bón 3 lần: Lần 1 sau khi thu họach xong vụ trước bón 1.300 kg 
HCSH; Lần 2 trước cắt cành 10-12 ngày bón 1.200 kg HCSH; Lần 3 sau khi đậu trái 
xong 10-15ngày bón 1.500 kg HCSH. 
Bón bằng cách rải đều trên mặt luống sau đó dùng cuốc xới nhẹ chôn vùi phân 
vào đất, không phơi phân dưới ánh sáng mặt trời, nếu đất khô thì theo nước ngay. Đối 
với giống nho dài ngày thời gian giữa các lần bón có thể kéo dài thêm khoảng 5 ngày 
và lượng phân hóa học có thể tăng thêm 10-20%. Trường hợp nho phát triển kém hoặc 
bộ rễ bị thương tổn, có thể sử dụng thêm phân bón lá như: Agrostim, K-humat, . Có 
thể sử dụng một số loại phân bón lá có hàm lượng Canxi cao như CanxiBore vào các 
giai đoạn trước khi trổ hoa, sau đậu trái và lần cuối cùng là khi trái lớn. 
Đối với táo: (tính bình quân cho 1ha/1 vụ táo) 
Lượng phân bón cho 1 ha như sau: 10-15 tấn phân chuồng ủ hoai hoặc 3.000 kg 
phân hữu cơ vi sinh + 450 kg Lân Super + 450 kg Urê + 250 kg Kali Clorua + 2 kg 
phân bón qua lá. 
 83 
- Bón lót: Toàn bộ phân chuồng hoai mục hoặc phân hữu cơ vi sinh + Lân 
Super, trước giai đoạn đốn táo khoảng 7-10 ngày, kết hợp xới xáo và lắp phân. 
- Bón thúc: Chia làm 3 lần bón chính: lần 1 là sau khi đốn táo, bón 1/3 Ure + 
1/3 Kali Clorua; lần 2 là trước khi cây ra hoa rộ, bón 1/3 Ure + 1/3 Kali Clorua; lần 3 
là sau khi cây đậu quả xong, bón hết lượng phân hóa học còn lại. 
Chú ý: 
- Tùy và tình hình sinh trưởng của cây, tuổi cây và điều kiện thổ nhưỡng của 
từng vùng, có thể tăng số lần bón thúc và lượng phân bón cho phù hợp. Không nên đào 
rãnh xung quanh tán để bón phân vì dễ bị đứt rễ cây. 
- Nếu sử dụng phân bón hỗn hợp NPK, DAP thì phải tính toán lượng phân bón 
sao cho tương đương với lượng phân như trên. 
* Sử dụng phân bón qua lá để bổ sung các chất cho cây đặc biệt là các nguyên 
tố vi lượng và một số chất kích thích sinh trưởng thông qua các loại chế phẩm kích 
phát tố. Các chất này bổ sung kịp thời sự thiếu hụt các chất trên cây nên có tác dụng rõ 
rệt. Các loại phân bón lá thường bổ sung vi lượng như magie (Mg), kẽm (Zn), bo (B), 
đồng (Cu),... khi cây bắt đầu hình thành nụ hoa, phun định kỳ 10-15 ngày 1 lần, và 
ngưng phun phân trước khi thu hoạch 10-15 ngày 
3.2.3.4. Đầu tư của nông hộ cho ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong 
nông nghiệp 
Nông hộ không có nhiều vốn để đầu tư cho khoa học công nghệ, chủ yếu nhận 
công nghệ được hỗ trợ từ nhà nước nghiên cứu đặc biệt là giống mới và quy trình kỹ 
thuật mới. Nông hộ chỉ tiến hành đầu tư khu tạo và xử lý phân vi sinh như khu vực ủ 
hoai, khu vực chứa,... để phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp. Đây là một trong 
những lĩnh vực còn nhiều hạn chế trong đầu tư của nông hộ. 
3.2.4. Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của nông 
hộ theo GAP ở Ninh Thuận 
3.2.4.1. Kết quả đạt được 
Tổng vốn đầu tư thực hiện của nhóm sản xuất theo GAP bình quân 100,4 triệu 
đồng/sào trong đó vốn đầu tư dài hạn cho cơ sở hạ tầng và đầu tư kiến thiết cơ bản là 
79,9 triệu đồng /sào (tài sản cố định bình quân/sào là 33 triệu đồng), vốn lưu động 
dùng chi cho chi phí sản xuất hằng năm là 20,5 triệu đồng /sào/năm (chi phí sản xuất 
bình quân hằng năm là 42,5 triệu đồng); trong khi đầu tư của nhóm không theo GAP 
lần lượt là 81,5 triệu đồng, 63 triệu đồng và 18,5 triệu đồng. 
 84 
Bảng 3.8: Thống kê mô tả kết quả đầu tư theo GAP của các nông hộ khảo sát trên địa 
bàn tỉnh Ninh Thuận năm 2016 
Đơn vị tính: triệu đồng/sào 
Không sản xuất theo GAP Sản xuất theo GAP 
Mean Maximum Minimum Mean Maximum Minimum 
Tổng vốn 81,5 89,1 78,2 100,4 137,3 69,5 
Trong đó 
+ VDH 63,0 68,9 60,4 79,9 116,7 48,7 
+ VLĐ 18,5 20,2 17,8 20,5 36,8 5,2 
CPSX 36,4 39,8 35,0 42,5 57,8 21,0 
TSCĐ 14,6 15,9 14,0 33,0 48,3 20,1 
NSBQ 4,1 4,4 3,5 4,7 5,2 4,1 
DTh 68,7 78,0 55,1 89,2 97,9 76,9 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Năng suất bình quân hằng năm của nhóm nông hộ sản xuất theo GAP cao hơn 
khoảng 4,7 tấn/sào/năm, trong khi nhóm còn lại chỉ đạt khoảng 4,1 tấn/sào/năm. Năng 
suất này cao hay thấp còn phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố thời tiết, do sản phẩm nho, 
táo chịu ảnh hưởng rất nhiều từ yếu tố thời tiết. 
Bảng 3.9: Lợi nhuận bình quân của hai nhóm nông hộ sản xuất theo GAP 
 và không theo GAP năm 2016 
STT Chỉ tiêu 
Nhóm hộ sản xuất 
không theo GAP 
(TrĐ/sào) 
Nhóm hộ sản 
xuất theo GAP 
(TrĐ/sào) 
Lợi nhuận bình quân 1 năm 32,1 47,5 
1 Lợi nhuận bình quân vụ Đông Xuân 22,614 33,802 
2 Lợi nhuận bình quân vụ 2 -1,945 0,804 
3 Lợi nhuận bình quân vụ 3 11,431 12,866 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Bảng trên cho thấy đầu tư sản xuất nông nghiệp theo GAP đạt được lợi nhuận cao 
hơn hẳn so với đầu tư sản xuất không theo GAP. Cụ thể, lợi nhuận bình quân hàng năm 
của nhóm hộ sản xuất theo GAP đạt 47,5 triệu đồng/sào, cao hơn nhóm không theo GAP 
 85 
khoảng 15,4 triệu đồng/sào. Lợi nhuận này được tạo ra chủ yếu ở vụ đông xuân chiếm 
71,2%. Vụ 2 do thời tiết không thuận lợi, mưa nhiều, lắm sâu bệnh do đó việc đầu tư chủ 
yếu giữ giàn lá để chờ vụ sau, ở vụ này đa số người nông dân xác định trước sẽ chịu lỗ. 
Vụ 3 mặc dù năng suất không đạt cao, tuy nhiên lại được giá do sản phẩm thu hoạch ở dịp 
gần tết và lễ nên lợi nhuận các hộ sản xuất theo GAP cũng ở mức trung bình khoảng 
12,866 triệu đồng/sào, cao hơn nhóm sản xuất không theo GAP 1,435 triệu đồng/sào. 
Để ước lượng DID, NCS giả định có sự thay đổi như nhau giữa hai nhóm sản xuất 
về các nhân tố liên quan đến nhân tố chung về đầu tư nếu như cả hai nhóm cùng không 
sản xuất theo GAP. Với giả định này, NCS có được ước lượng DID theo bảng dưới đây. 
Bảng 3.10: So sánh khác biệt trong khác biệt của kết quả đầu tư theo GAP của các 
nông hộ khảo sát trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận năm 2016 
Đơn vị tính: triệu đồng/sào 
STT Chỉ tiêu 
Khác biệt Khác biệt trong khác biệt 
Xi(s)-Xi(t) Sig. ∆Xi(GAP=1)-∆Xi(GAP=0) Sig. 
1 
VDT (GAP=1) 54,2560 0,000 
16,0710 
0,000 VDT (GAP=0) 38,1850 0,000 
2 
VLĐ (GAP=1) 8,8640 0,000 
1,2450 
,071 VLĐ (GAP=0) 7,6190 0,000 
3 
VDH (GAP=1) 45,3920 0,000 
14,8260 
0,000 VDH (GAP=0) 30,5660 0,000 
4 
TSCD(GAP=1) 25,0680 0,000 
18,0030 
0,000 TSCD(GAP=0) 7,0650 0,000 
5 
NSBQ(GAP=1) 1,5440 0,000 
0,6150 
0,000 NSBQ(GAP=0) 0,9290 0,000 
6 
CPSX (GAP=1) 20,7710 0,000 
4,7670 
0,000 CPSX (GAP=0) 16,0040 0,000 
7 
DTh (GAP=1) 45,2830 0,000 
17,6730 
0,000 DTh (GAP=0) 27,6100 0,000 
8 
LNBQ(GAP=1) 24,9950 0,000 
13,5460 
0,000 LNBQ(GAP=0) 11,4490 0,000 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
 86 
Qua kết quả cho thấy so với nhóm sản xuất không theo GAP thì việc tham gia 
GAP đã làm tăng tổng vốn đầu tư 16,071 triệu đồng/sào trong vốn đầu tư dài hạn tăng 
14,826 triệu đồng/sào và vốn lưu động tăng 1,245 triệu đồng/sào (mức ý nghĩa 90%), chi 
phí đầu tư tài sản cố định là 18 triệu đồng/sào, chi phí sản xuất bình quân hằng năm là 
4,767 triệu đồng/sào/năm với mức ý nghĩa 99%. Với việc tham gia GAP cũng đã góp 
phần gia tăng năng suất bình quân 0,6150 tấn/sào/năm, tạo ra mức doanh thu tăng thêm 
17,673 triệu đồng/sào/năm và mức lợi nhuận tăng thêm 13,546 triệu đồng/sào/năm với 
mức ý nghĩa 99%. Như vậy có thể kết luận rằng, việc tham gia sản xuất theo GAP sẽ làm 
tăng lượng vốn đầu tư ban đầu và vốn đầu tư hằng năm nhưng bù lại sẽ đạt được năng 
suất và lợi nhuận cao hơn so với nhóm còn lại. Do đó, đứng ở góc độ đầu tư nếu hộ nông 
dân có điều kiện sản xuất thuận lợi và có thể huy động được nguồn vốn đầu tư bổ sung 
lượng vốn chênh lệch thì nên đầu tư sản xuất theo GAP vì sẽ tạo ra được mức lợi nhuận 
cao hơn hẳn so với sản xuất không theo GAP. 
Bảng 3.11: Thống kê mô tả kết quả đầu tư theo GAP của các nông hộ khảo sát trên 
địa bàn tỉnh Ninh Thuận phân theo sản phẩm năm 2016 
Đơn vị tính: triệu đồng/ha 
Nho Táo Cả nho và táo 
Mean Sum Mean Sum Mean Sum 
Diện tích (ha) GAP = 0 0,215 13,1 0,211 7,6 0,367 1,1 
GAP = 1 0,296 22,227 0,231 2,54 0,389 5,45 
Vốn dài hạn GAP = 0 629,74 38414 630,58 22701 626,67 1880 
GAP = 1 820,92 61569 721 7931 743,36 10407 
Vốn lưu động GAP = 0 185,25 11300 185,33 6672 184,33 553 
GAP = 1 206,35 15476 177,73 1955 217,43 3044 
Chi phí sản 
xuất 
GAP = 0 364,08 22209 364,56 13124 362 1086 
GAP = 1 431,83 32387 375,09 4126 428,21 5995 
Lợi nhuận bình 
quân 
GAP = 0 321,26 19597 321,39 11570 311 933 
GAP = 1 478,28 35871 461,91 5081 465,71 6520 
Số hộ sản xuất 
(hộ) 
GAP = 0 61 36 3 
GAP = 1 75 11 14 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
 87 
Qua bảng số liệu cho thấy, sự khác biệt giữa chi phí sản xuất, vốn đầu tư và lợi 
nhuận bình quân của hai sản phẩm nho và táo là không chênh lệch nhiều. Việc đầu tư theo 
GAP của mỗi loại sản phẩm đều cần lượng vốn đầu tư cao hơn và đạt được lợi nhuận lớn 
hơn nhóm còn lại. 
3.2.4.2. Hiệu quả đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo GAP 
- Lợi nhuận bình quân/ tổng vốn đầu tư 
Bảng 3.12: Bảng hiệu quả lợi nhuận bình quân trên tổng vốn đầu tư năm 2016 
STT Chỉ tiêu 
Nhóm hộ sản xuất 
không theo GAP 
Nhóm hộ sản xuất 
theo GAP 
1 
Lợi nhuận bình quân 1 
năm/ tổng vốn đầu tư 
0,375 0,473 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Mặc chỉ tiêu này không thể hiện đầy đủ bản chất của hiệu quả đầu tư nhưng 
đứng ở góc độ đầu tư của nông hộ thì đây là một chỉ tiêu đơn giản được dùng để đánh 
giá hiệu quả đầu tư. Qua bảng trên cho thấy đầu tư theo GAP có tỷ suất lợi nhuận bình 
quân trên một đồng vốn đầu tư cao hơn so với nhóm còn lại 0,097. Như vậy, đầu tư 
theo GAP có hiệu quả hơn so với đầu tư không theo GAP. Cho nên đầu tư theo GAP 
có xu hướng ngày càng tăng cả về diện tích và quy mô vốn đầu tư (tổng diện tích 100 
hộ sản xuất theo GAP tăng từ 29,06 ha năm 2013 tăng lên 30,22 ha 2016 và tổng vốn 
đầu tư tăng từ 11.858 triệu đồng năm 2013 tăng lên 13.684,5 triệu đồng năm 2016 (Số 
liệu khảo sát 200 hộ tại Ninh Thuận) 
- Chỉ tiêu hiệu quả theo mô hình phân tích màng bao dữ liệu DEA 
Theo hàm sản xuất Cobb-Douglass thì đầu ra phụ thuộc vào bốn yếu tố là vốn, 
lao động, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ. NCS tiến hành phân tích hiệu 
quả dựa trên mô hình màng bao dữ liệu DEA với bốn nguồn lực đầu vào là lao động của 
chủ hộ, diện tích, chi phí sản xuất bình quân/sào/năm, vốn đầu tư ban đầu/sào (bao gồm 
vốn ngắn hạn và dài hạn) và ba kết quả đầu ra là năng suất bình quân/sào/năm, lợi nhuận 
bình quân/sào/năm và doanh thu bình quân/sào/năm với tiêu chí phân tích là tối đa hóa 
đầu ra dựa trên phân tích hai mô hình sử dụng một màng bao dữ liệu cho hai nhóm. Kết 
quả thu được như sau: 
 88 
Bảng 3.13: Bảng hiệu quả kinh tế tổng hợp TE theo kết quả mô hình DEA năm 2016 
Nhóm không GAP Nhóm GAP 
Mean Max Min σ Mean Max Min σ 
TE 0,8704 1 0,7205 0,644 0,861 1 0,6775 0,881 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm DEA 
Theo Phân tích màng bao dữ liệu DEA của hai nhóm GAP và không GAP dựa 
trên 1 màng bao dữ liệu cho cả hai nhóm hộ sản xuất, đối với tiêu chí tối đa hóa đầu ra 
trong trường hợp thay đổi theo quy mô (VRS) cho thấy cả hai nhóm đều đạt được tính 
hiệu quả trong đầu tư ở mức tương đối cao, cụ thể nhóm không theo GAP đạt hiệu quả 
kinh tế tổng hợp bình quân TE khoảng 0,8704 trong khi nhóm sản xuất theo GAP đạt 
giá trị kém hơn, đạt khoảng 0,861. Điều này cho thấy rằng, do gánh nặng về nguồn lực 
đầu vào khá lớn của nhóm GAP trong khi đầu ra chưa tăng tương xứng dẫn đến hiệu 
quả kinh tế tổng hợp kém hơn nhóm còn lại. Bên cạnh đó, độ lệch chuẩn (σ) của nhóm 
theo GAP cao hơn so với nhóm không theo GAP, điều này cho thấy mức độ phân tán 
giá trị hiệu quả của nhóm đầu tư theo GAP là khá cao. Điều này thể hiện cụ thể qua sơ 
đồ sau: 
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ tháp hiệu quả kinh tế tổng hợp của hai nhóm hộ đầu tư sản xuất 
theo GAP và không theo GAP năm 2016 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm DEA 
Qua sơ đồ trên cho thấy độ phân tán số hộ đạt các mức hiệu quả của các hộ đối 
với nhóm đầu tư theo GAP cao hơn nhóm không theo GAP tuy nhiên cả hai nhóm đều 
phần lớn đạt mức hiệu quả từ 0,8 đến dưới 0,9. Mặc dù mức bình quân hiệu quả nhóm 
 89 
đầu tư theo GAP có thấp hơn, điều này là do nhóm nông hộ đầu tư theo GAP có nhiều 
hộ đạt mức hiệu quả thấp lớn hơn, tuy nhiên số hộ đạt hiệu quả cao cũng lớn hơn nhóm 
còn lại. điều này cho thấy đầu tư theo GAP có thể giúp tạo ra hiệu quả cao nhưng đồng 
thời khi rủi ro xảy ra cũng bị thiệt hại nặng hơn so với sản xuất không theo GAP. 
Cũng trên cơ sở mô hình DEA với nguồn lực đầu vào và kết quả đầu ra tương 
tự như trên, NCS tiến hành ước lượng năng suất tổng hợp bằng chỉ số Malmquist với 
hai thời điểm trước khi tham gia GAP (trước 2013) và sau khi tham gia GAP (hiện 
nay). Kết quả ước lượng được thể hiện dưới bảng sau: 
Bảng 3.14: Bảng mức thay đổi của năng suất tổng hợp bằng chỉ số Malmquist năm 2016 
Nhóm không GAP Nhóm GAP 
Mean Maximum Minimum Mean Maximum Minimum 
TFPCH 0,8576 1,2037 0,6472 0,9771 1,4493 0,7449 
EFCH 0,926 1,1206 0,7425 0,9791 1,2553 0,7799 
TECHCH 0,9234 1,1206 0,8204 0,9959 1,3333 0,8563 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm DEA 
Tất cả các phân tích đều cho thấy cả hai nhóm đều không có sự gia tăng về năng 
suất tổng hợp tại thời điểm hiện nay so với thời điểm trước khi tham gia GAP. Cụ thể 
theo phương pháp VRS với một màng bao dữ liệu cho kết quả về mức thay đổi của năng 
suất tổng hợp TFPCH là 0,9771 với nhóm đầu tư theo GAP chứng tỏ rằng năng suất 
tổng hợp hiện nay so với thời điểm trước khi tham gia GAP giảm 2,29% nhưng vẫn 
giảm ít hơn so với nhóm không đầu tư theo GAP (nhóm này giảm tới 14,24%). 
Bảng 3.15: Bảng so sánh sự khác biệt của hai nhóm nông hộ về mức thay đổi của năng 
suất tổng hợp bằng chỉ số Malmquist năm 2016 
Stt Chỉ tiêu 
Khác biệt 
Xi (GAP=1) - Xi (GAP=0) Sig. 
1 TFPCH 0,1195 ,000 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm DEA và 
phần mềm SPSS22.0 
Theo kết quả so sánh giữa hai nhóm nông hộ đầu tư theo GAP và không theo 
GAP cho thấy nhóm đầu tư theo GAP tạo ra mức gia tăng năng suất tổng hợp so với 
trước khi tham gia GAP cao hơn nhóm còn lại với mức ý nghĩa 99% đối với phương 
 90 
pháp VRS dùng một màng bao dữ liệu là 11,95%. Điều này cho thấy, GAP đã tác động 
tích cực tới cải thiện năng suất tổng hợp của các nông hộ đầu tư sản xuất nho và táo tại 
Ninh Thuận. 
Sơ đồ 3.2: Sơ đồ tháp mức thay đổi của năng suất tổng hợp của hai nhóm hộ đầu 
tư sản xuất theo GAP và không theo GAP năm 2016 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm DEA 
Sơ đồ trên cũng cho kết luận tương tự về sự chênh lệch giữa hai nhóm đầu tư 
theo GAP và không theo GAP. Trong đó, nhóm đầu tư theo GAP có mức thay đổi 
năng suất tổng hợp lớn hơn hẳn nhóm còn lại ở mức thay đổi của năng suất tổng hợp 
cao và ít hơn ở mức thay đổi của năng suất tổng hợp thấp. 
3.2.4.3. Hạn chế và nguyên nhân 
Bên cạnh những kết quả đạt được về ĐTPT SXNN theo GAP của nông hộ thì 
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: 
Thứ nhất, tỷ lệ nông hộ tham gia đầu tư sản xuất theo GAP còn hạn chế. Ở Ninh 
Thuận trong tổng số 6360 hộ sản xuất nho và táo mới có 1272 hộ đầu tư theo GAP. 
Thứ hai, trong các hộ đầu tư theo GAP thì quy mô và diện tích đầu tư tuy có 
tăng nhưng không đáng kể. Điều đó chứng tỏ ở Ninh Thuận đầu tư sản xuất nông 
nghiệp theo GAP chưa thật sự hấp dẫn đối với hộ nông dân. 
Mặc dù Ninh Thuận là nơi có điều kiện phát triển sản xuất nho và táo, hơn thế 
nữa phát triển sản xuất nông nghiệp theo GAP là một xu hướng tất yếu của Việt Nam 
 91 
cũng như trên thế giới, nhưng vì sao các nông hộ chưa thật sự quan tâm ĐTPT SXNN 
theo GAP? Điều đó là do nhiều nguyên nhân: 
Một là, sản xuất ở Ninh Thuận còn mang tính tự phát, tuy địa phương đã có quy 
hoạch phát triển nhưng chưa chú ý khâu tổ chức thực hiện quy hoạch, điều đó ảnh 
hưởng đến thu hút nông hộ đầu tư phát triển theo GAP. 
Hai là, sự hiểu biết của các nông hộ về GAP còn hạn chế, nên họ chưa hiểu được 
lợi ích về sản xuất theo GAP do đó chưa chú ý đầu tư phát triển sản xuất theo GAP. 
Ba là, thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng mang tính tự phát, manh mún nên chưa 
gây dựng được lòng tin của khách hàng nên người nông dân chưa thấy rõ hiệu quả 
kinh tế vì vậy không kích thích đầu tư theo GAP 
Bốn là, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước, nhà nông, doanh nghiệp và 
nhà khoa học. vì vậy chưa phát huy được hiệu quả của đầu tư sản xuất theo GAP nên 
người nông dân chưa thật sự yên tâm đầu tư theo GAP. 
3.3. Phân tích nhân tố tác động đến đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp 
của nông hộ theo GAP 
3.3.1. Nhóm nhân tố điều kiện sản xuất 
Phân tích định tính cho kết luận là thời tiết ảnh hưởng tới đầu tư nông nghiệp 
theo GAP (C11, phụ lục 2). 
Bảng 3.16: Thống kê mô tả nhóm nhân tố điều kiện sản xuất 
Không sản xuất theo GAP Sản xuất theo GAP 
Mean Maximum Minimum Mean Maximum Minimum 
TT 3,7 5,0 2,0 3,9 5,0 2,0 
CSHT 4,0 5,0 2,0 4,4 5,0 3,0 
Diện tích 2016 2,2 7,0 ,4 3,0 10,0 0,7 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Về cơ bản thì không có nhiều sự khác biệt về đánh giá thời tiết giữa hai nhóm 
nông hộ, bởi vì khoảng cách địa lý là khá gần nhau nên điều kiện thời tiết cơ bản là 
như nhau. Tuy nhiên bình quân đánh giá thời tiết thì hộ theo GAP có đánh giá cao hơn 
không nhiều do khả năng lựa chọn thời điểm đầu tư hợp lý hơn nên có thể hạn chế 
được một số ảnh hưởng xấu do thời tiết gây ra. Mức bình quân đánh giá điều kiện thời 
 92 
tiết đạt 3,9 điểm/5 điểm. Điều kiện cơ sở hạ tầng của nhóm nông hộ sản xuất theo 
GAP là khá tốt đạt bình quân 4,4 điểm/5 điểm, cao hơn nhóm không sản xuất theo 
GAP, nhưng chênh lệch không đáng kể do cơ bản điều kiện về hạ tầng kỹ thuật xã hội 
là tương tự nhau giữa các khu vực sản xuất nho và táo trong tỉnh. Diện tích bình quân 
của nhóm hộ sản xuất theo GAP khoảng 3 sào/ hộ cao hơn hộ không sản xuất theo 
GAP khoảng 0,8 sào/hộ, với mức diện tích khả nhỏ sẽ gây ra nhiều khó khăn trong sản 
xuất nông nghiệp vì không tận dụng được lợi thế theo quy mô, hạn chế trong việc tiếp 
cận phương thức sản xuất hiện đại nhờ quy mô, việc đầu tư theo GAP cũng gặp không 
ít khó khăn với diện tích bình quân khá nhỏ như thế này. 
Khoảng biến thiên đánh giá về thời tiết và cơ sở hạ tầng là khá cao 3điểm/5 
điểm; về diện tích khoảng 6,6 sào đối với nhóm hộ không theo GAP và 9,3 sào với 
nhóm hộ theo GAP. Điều này có thể cho thấy điều kiện sản xuất giữa các hộ có sự 
chênh lệch khá lớn, tạo ra những khó khăn không nhỏ cho việc liên kết các hộ với 
nhau do gặp phải rào cản lớn về chênh lệch điều kiện sản xuất, giảm hiệu quả liên kết 
do tạo ra hiệu quả sản xuất không đồng đều. 
Sử dụng phương pháp so sánh khác biệt trong khác biệt (DID) đối với biến cơ 
sở hạ tầng giữa hai nhóm nông hộ sản xuất theo GAP và không theo GAP. Cụ thể, do 
khoảng cách giữa các khu vực sản xuất không cách xa nhau nên ta có thể giả định rằng 
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất của các hộ sản xuất theo GAP và không theo GAP là 
tương tự nhau nếu tất cả các nhóm này đều không sản xuất theo GAP. Với giả định 
này, ta có được ước lượng DID theo bảng dưới đây. 
Bảng 3.17: So sánh khác biệt trong khác biệt của nhân tố cơ sở hạ tầng 
Stt Chỉ tiêu 
Khác biệt Khác biệt trong khác biệt 
Xi(s)-Xi(t) Sig. ∆Xi(GAP=1)-∆Xi(GAP=0) Sig. 
1 
CSHT(GAP=1) 1,910 0,000 
0,59 0,000 
CSHT(GAP=0) 1,320 0,000 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Như vậy có thể thấy rằng, khi so với nhóm không sản xuất theo GAP thì nhóm 
sản xuất theo GAP có sự cải thiện về cơ sở hạ tầng tốt hơn 0,59 điểm/5 điểm với mức 
ý nghĩa 99% (Sig. = 0,000 <0,01). Điều này có nghĩa là việc sản xuất theo GAP đã tác 
động đến việc thúc đẩy cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và tạo ra mức khác 
biệt 0,59 điểm. 
 93 
Bảng 3.18: So sánh khác biệt của nhóm nhân tố điều kiện sản xuất 
Stt Chỉ tiêu 
Khác biệt 
Xi (GAP=1) - Xi (GAP=0) Sig. 
1 Diện tích 2016 ,8417 0,000 
2 Thời tiết (TT) ,230 ,039 
Nguồn: Kết quả tính toán từ số liệu khảo sát với sự trợ giúp của phần mềm SPSS22.0 
Khi sử dụng phương pháp so sánh trung bình giữa hai nhóm nông hộ sản xuất 
theo GAP và không theo GAP ta nhận thấy rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
mức ý nghĩa 99% về diện tích với chênh lệch là 0,8417 sào (Sig. =0,000<0,01). Điều 
này cho thấy các hộ sản xuất theo GAP thường có quy mô diện tích lớn hơn các hộ 
không theo GAP, thông qua số liệu có thể kết luận rằng khi diện tích càng lớn thì càng 
thuận lợi cho sản xuất theo GAP. Tương tự như với yếu t
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
la_daoquyetthang_8282_2045636.pdf