Danh mục các từ viết tắt.
Danh mục hình vẽ .
Danh mục bảng .
MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN TÀI LIỆU. 3
1.1. Thực trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm trong ao nuôi thủy sản nước lợ ở
Việt Nam . 3
1.1.1. Thực trạng ngành nuôi trồng thủy sản nước lợ ở nước ta hiện nay. 3
1.1.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm trong ao nuôi thủy sản ở Việt Nam hiện nay. 5
1.2. Một số chỉ số cơ bản để đánh giá ô nhiễm hữu cơ trong ao nuôi thủy sản . 6
1.2.1. Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) và và nhu cầu oxy hóa học (COD) . 6
1.2.2. Nitơ tổng số (TN) và ammonium (NH4+). 7
1.3. Các giải pháp xử lí ô nhiễm trong ao nuôi thủy sản nước lợ . 10
1.3.1. Bể kị khí kiểu đệm bùn dòng chảy ngược (UASB) . 10
1.3.2. Hệ thống “đất ngập nước kiến tạo” (contructed wetlands) . 11
1.3.3. Sử dụng ô - zôn (O3). 13
1.3.4. Hệ thống sục khí nhân tạo trong ao nuôi. 13
1.3.5. Ứng dụng mô hình sinh điện hóa . 14
1.3.6. Tình hình nghiên cứu các giải pháp xử lý ô nhiễm ao nuôi thủy sản ở
Việt Nam. 15
1.4. Các mô hình sinh điện hóa. 15
1.4.1. Giới thiệu tổng quát về các mô hình sinh điện hóa . 15
1.4.2. Mô hình sinh điện hóa với điện cực ở đáy (sediment
bioelectrochemical system). 18
1.4.3. Vi sinh vật ở điện cực đáy: Tính đa dạng và sự biến đổi của quần xã. 19
1.5. Ứng dụng mô hình sinh điện hóa với điện cực ở đáy (SBES) trong xử lý ô
nhiễm ao nuôi thủy sản . 23
1.5.1 Tình hình nghiên cứu ứng dụng SBES . 23
1.5.2. Tiềm năng sử dụng SBES để xử lý ô nhiễm ao nuôi thủy sản nước lợ . 25
CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 26
2.1. Vật liệu nghiên cứu . 26
44 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 589 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu phát triển mô hình hệ thống sinh điện hóa nhằm xử lý ô nhiễm hữu cơ trong ao nuôi thủy sản nước lợ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thường quan tâm đến các chỉ số
quan trắc: oxi sinh hóa BOD5, oxi hóa học (COD), tổng lượng chất rắn lơ lửng
(TSS), nitơ tổng (TN), tổng ammonia (TAN), H2S, NH3, phospho tổng Trong
đó, các chỉ số quan trọng nhất chỉ thị mức độ ô nhiễm hữu cơ và nguy cơ với động
vật thủy sản là COD, BOD, nitơ tổng (TN), và nitơ-NH4+.
1.2.1. Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) và và nhu cầu oxy hóa học (COD)
Tỉ lệ oxy tiêu thụ bởi phiêu sinh vật và vi khuẩn trong mẫu nước ao được đo
để xác định nhu cầu oxy hóa sinh học (BOD). Ao nuôi thủy sản điển hình có giá
trị BOD từ 5 -20 mg/l, BOD càng cao khi mức độ giàu vật chất hữu cơ càng lớn.
Mặc dù BOD thường được đo trong nước ao nhưng khoảng thích hợp thì không
xác định rõ. Oxy giảm đến mức nguy hiểm trong ao không sục khí khi BOD
quá 20 mg/l [18].
Nhu cầu oxy hóa học (COD) được hiểu là lượng oxy cần thiết để oxy hóa
hoàn toàn các chất hóa học trong nước. Theo Boyd, giá trị COD trong ao nuôi có
thể biến động từ 10 – 200 mg/l, thông thường là từ 40-80 mg/l [27, 28].
BOD và COD được dùng trong việc đánh giá mức độ ô nhiễm của thủy vực.
Chính vì vậy khảo sát thông số BOD và COD sẽ giúp chúng tôi đánh giá được hiệu
quả hoạt động của điện cực trong mô hình sinh điện hóa với điện cực ở đáy.
7
1.2.2. Nitơ tổng số (TN) và ammonium (NH4+)
Trong môi trường nước, nitơ có thể tồn tại dưới dạng N2, hay dưới dạng hợp
chất vô cơ, hữu cơ, hòa tan hay không hòa tan. Các hợp chất vô cơ hòa tan quan
trọng của nitơ là NO2-, NO3-, NH4+, NH3 [27].
Dạng N2 có được chủ yếu là do khuếch tán từ không khí vào hay do quá trình
phản nitrat hóa trong thủy vực gây ra. Các dạng hợp chất nitơ hòa tan có được là
do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ, nitơ lắng đọng dưới dạng albumine, dưới
tác động của vi sinh vật, albumine sẽ được chuyển hóa thành dạng ammonia (NH3)
và ammonia sẽ hòa vào nước và hình thành nên ammonium (NH4+) (Hình 1.2).
NH3 và muối của nó sẽ được chuyển hóa thành nitrite (NO2-) và nitrate
(NO3-) nhờ hoạt động của vi khuẩn nitrite và nitrate hóa. Thực vật thủy sinh và
vi sinh vật có thể hấp thu cả 4 dạng hợp chất nitơ nói trên nhưng hấp thu NO3-
và NH4+ là tốt nhất. Tuy nhiên một số vi khuẩn và tảo cũng có khả năng đồng
hóa nitơ phân tử [3].
Hình 1.2: Chu trình Nitơ trong ao cá [27].
Ammonia (NH3) và ammonium (NH4+)
Tổng hàm lượng ammonia (NH3) và ammonium (NH4+) được gọi là tổng đạm
amôn (TAN). Ammonia trong các thủy vực được hình thành từ việc phân hủy bình
thường các protein, xác bã động thực vật phù du, sản phẩm bài tiết của động vật
hay từ phân bón vô cơ, hữu cơ, trong đó nguồn NH3 chủ yếu từ sự bài tiết trực tiếp
của động vật thủy sinh [24].
8
NH3 là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ sống và sinh trưởng với
thủy sinh vật. Theo Boyd (1900), tác dụng độc của NH3 với thủy sinh vật là do
hàm lượng chất này cao làm thủy sinh vật khó bài tiết NH3 từ máu ra môi trường
ngoài. NH3 trong máu và các mô tăng làm pH máu tăng dẫn đến rối loạn những
phản ứng xúc tác bởi enzym và độ bền của màng tế bào, làm thay đổi áp suất thẩm
thấu của tế bào, sinh vật chết vì không điều khiển được quá trình trao đổi muối với
môi trường ngoài. NH3 cao cũng làm tăng tiêu hao oxi của mô, giảm vận chuyển
oxy của máu [18]. Quá trình hình thành NH3 nhiều hay ít còn phụ thuộc vào pH và
nhiệt độ của môi trường ao nuôi. Vì vậy quản lý pH ao nuôi tốt là gián tiếp hạn
chế được lượng NH3 gây độc cho tôm [27].
Bảng 1.2: Hàm lượng cho phép của một số chỉ số cần quan tâm trong ao
nuôi tôm
Chỉ số Đơn vị Hàm lượng
cho phép
Tài liệu tham khảo
COD mg/l ≤ 150 (QCVN 02 - 19 : 2014/BNNPTNT)
NH3 mg/l ≤ 0,3 [19, 98]
NH4+ mg/l 0,2 – 2,0 [20, 22]
NO2- mg/l 1,0 [20]
NO3- mg/l 0,2 – 0,3 [20]
Theo Boyd (1998) nước dùng cho nuôi trồng thủy sản thì hàm lượng TAN
tốt nhất là không được vượt quá 2 mg/L, và hàm lượng NH3 thích hợp phải thấp
hơn 0,02 mg/L. Đối với ao nuôi tôm, Boyd (1998) cũng cho rằng hàm lượng NH3
nên được ổn định ở mức từ 0,1 – 0,3 mg/L là tốt nhất (Bảng 1.2).
Ammonium (NH4+) không độc và là nguồn thức ăn quan trọng cho các thủy
sinh vật. Tuy nhiên, nếu hàm lượng NH4+ lớn hơn 2,0 mg/L ao sẽ giàu dinh dưỡng
9
và tảo trong ao sẽ phát triển rất mạnh, không có lợi cho thủy sinh vật (do thiếu oxy,
pH dao động ).
Theo Boyd (1998) và Chanratchakool (2003) thì hàm lượng NH4+ thích hợp
hợp cho ao nuôi tôm dao động trong khoảng 0,2 – 2,0 mg/L[20, 22] . Môi trường
nước không ô nhiễm thường có hàm lượng NH4+ nhỏ hơn 0,1 mg/L và trong nước
mặt tự nhiên NH4+ thường hiện diện ở mức <0,2 mg/L [23].
Nitrit (NO2-)
Nitrite trong nước có thể do các nguồn ô nhiễm xâm nhập vào hoặc là hợp
chất trung gian của quá trình phân hủy sinh ra từ ammoniac thành nitrat. Nó cũng
là tác nhân gây độc đối với động vật thủy sinh. Trong thuỷ vực tự nhiên tính độc
của nitrite trong ao sẽ giảm xuống nếu có mặt ion Ca2+ và Cl- [27].
Hàm lượng NO2- được hình thành chủ yếu bởi quá trình nitrite hoá từ TAN.
Do đó khi hàm lượng NH4+ trong ao thấp thì hàm lượng NO2- sẽ thấp. Theo
Timmons et al. (2002) và Boyd et al. (2000) đã chỉ ra rằng hàm lượng NO2- trong
ao nuôi thuỷ sản phải nhỏ hơn 1,0 mg/L (Bảng 1.2).
Nitrat (NO3 -)
Nitrat trong thủy vực là sản phẩm của quả trình nitrat hóa nhờ hoạt động của
vi khuẩn hóa tự dưỡng như Nitrobacter (nước ngọt) hay Nitrospina, Nitrosococus
(nước lợ,mặn):
NO2- + ½ O2 NO3- + 24 kcal
Nitrat còn được cung cấp từ nước mưa khi có sấm chớp, phản ứng tạo thành
nitrat như sau:
N2 + 2O2 2NO2
2 NO2 + H2O HNO2 + HNO2
Theo Boyd (1998), nitrate không độc nhưng với hàm lượng quá cao cũng
không có lợi cho tôm cá, khi hàm lượng nitrate trong nước cao sẽ làm tảo phát
10
triển quá mức. Theo nhận định của ông thì hàm lượng NO3- thích hợp trong ao nuôi
thuỷ sản từ 0,2 - 3,0 mg/L (Bảng 1.2).
Như vậy, trong ao nuôi một lượng lớn nitơ đi vào ao qua thức ăn và một
lượng lớn ammonia đi vào nước từ sinh vật nuôi và từ quá trình phân hủy thức ăn
thừa và phân (động vật) [27]. Vì vậy mối quan tâm lớn trong các ao nuôi chính là
hàm lượng ammonia dư thừa. Một số nghiên cứu cũng đã báo cáo loại bỏ nitơ hiệu
quả trong SMFC khi xử lý nước thải [44, 87, 88, 94]. Vì những lí do trên, TN và
Ammonium là hai chỉ số quan trọng để đánh giá chính xác chất lượng nước và bùn
đáy trong các mô hình thí nghiệm.
1.3. Các giải pháp xử lí ô nhiễm trong ao nuôi thủy sản nước lợ
Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các giải pháp xử lí ô
nhiễm môi trường ao nuôi thủy sản tuy nhiên đối với các ao nuôi thủy sản nước lợ
thì các công trình nghiên cứu còn hạn chế [33]. Các giải pháp hóa lí, cơ học và
sinh học được sử dụng trong xử lí nước thải thông thường cũng được áp dụng trong
các hệ thống nuôi trồng thủy sản [13]. Về cơ bản, các giải pháp có thể được chia
thành hai nhóm: (i) xử lý nước ao nuôi ở một hệ thống riêng biệt (ví dụ bể kị khí
kiểu đệm bùn dòng chảy ngược, bể xử lý nước thải thông thường với chi phí cao
hoặc đầm lầy kiến tạo ); (ii) xử lý tại chỗ nước ao nuôi (ví dụ sử dụng ô-zôn
hoặc sục khí nhân tạo ).
1.3.1. Bể kị khí kiểu đệm bùn dòng chảy ngược (UASB)
Bể kị khí kiểu đệm bùn dòng chảy ngược (UASB) là một trong những công
nghệ xử lý nước thải phổ biến nhất theo kiểu kị khí (Hình 1.3). Theo công nghệ
này, nước thải được đưa từ ao nuôi sang bể xử lý. Khi đi vào bể xử lý, nước thải
được phân phối từ dưới lên, qua lớp bùn kỵ khí, tại đây sẽ diễn ra quá trình phân
hủy chất hữu cơ bởi các vi sinh vật kị khí. Hệ thống tách pha phía trên bể làm
nhiệm vụ tách các pha rắn - lỏng - khí, các chất khí sẽ bay lên và được thu hồi, bùn
sẽ rơi xuống đáy bể và nước sau xử lý sẽ được đưa ra ngoài. Một trong những lợi
thế của công nghệ này đó là đơn giản và chi phí vận hành thấp [5].
11
Hình 1.3: Bể kị khí kiểu đệm bùn dòng chảy ngược (UASB) [105]
Nghiên cứu của Mirzoyan và các cộng sự năm 2010 về việc xử lý nước thải
nuôi trồng thủy sản nước lợ với bể UASB cho kết quả khả quan, cụ thể là hiệu quả
loại bỏ các chất dễ bay hơi là hơn 92%, đối với COD là 99% và TSS là 81% [61].
Dù vậy, công nghệ này cũng còn nhiều hạn chế như khó khăn để duy trì các điều
kiện thủy lực thích hợp (dòng chảy ngược và tỉ lệ lắp ráp phải cân bằng), thời gian
khởi động dài, khả năng xử lí có thế không ổn định với sự biến đổi thủy lực và tải
trọng hữu cơ, cần duy trì nguồn điện liên tục, các vật liệu cấu tạo thường không
sẵn có và đặc biệt là luôn cần có chuyên gia giám sát thiết kế và thi công [97].
Với những hạn chế như vậy, công nghệ bể kị khí kiểu đệm bùn dòng chảy
ngược (UASB) sẽ rất khó để áp dụng với các hộ nuôi trồng thủy sản qui mô vừa
và nhỏ phổ biến ở Việt Nam.
1.3.2. Hệ thống “đất ngập nước kiến tạo” (contructed wetlands)
Hệ thống “đất ngập nước kiến tạo” (contructed wetlands) do Lin và cộng sự
đề xuất tỏ ra là một hệ thống đơn giản hơn với chi phí khá hợp lý [46].
Vùng đất ngập nước là hệ thống xử lý tự nhiên dựa trên sự cộng sinh giữa vi
sinh vật và thực vật, xử lý nước thải qua các quá trình phân hủy hiếu khí, kỵ khí
12
của vi sinh vật, quang hợp của thực vật dưới nước. Phương pháp sử dụng hệ thống
này có nhiều cải tiến trong khoảng 20 năm gần đây và thu được nhiều kết quả tốt.
Có 2 kiểu phân loại đất ngập nước kiến tạo cơ bản theo hình thức chảy: loại chảy
tự do trên mặt đất (free surface slow) và loại chạy ngầm trong đất (subsurface
slow). Loại chảy tự do thì ít tốn kém và tạo sự điều hòa nhiệt độ khu vực cao hơn
loại chảy ngầm, nhưng hiệu quả xử lý kém hơn, tốn diện tích đất nhiều hơn và có
thể phải giải quyết thêm vấn đề muỗi và côn trùng phát triển [6]. Loại chảy ngầm
phân ra làm hai loại: chảy ngang (Hình 1.4 A) và chảy đứng (Hình 1.4 B)
Hình 1.4: Sơ đồ đất ngập nước kiến tạo chảy ngầm
Ghi chú: A. Sơ đồ đất ngập nước kiến tạo chảy ngầm theo chiều ngang
(theo Vymaza 1997); B. Sơ đồ đất ngập nước kiến tạo chảy ngầm theo chiều
đứng (theo Cooper, 1996).
A
B
13
Về cơ bản hệ thống này cũng sẽ không phù hợp với các hộ nuôi trồng vừa và
nhỏ do không kinh tế vì luôn cần chi phí cho năng lượng để bơm nước từ ao vào
hệ thống và chi phí vận hành hệ thống [88].
1.3.3. Sử dụng ô - zôn (O3)
Phương pháp sử dụng khí ô-zôn để lọc nước và nước thải đã được áp dụng
từ cách đây hơn 100 năm (lần đầu tiên là vào năm 1893 ở Oudshoorn, Hà Lan).
Trong nuôi trồng thủy sản, ô-zôn là chất oxy hóa cực mạnh, được đưa trực tiếp vào
ao nuôi để làm sạch nước, oxy hóa nitrit và các hợp chất hữu cơ hòa tan khó phân
hủy, cũng như loại bỏ các chất rắn. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu không đánh
giá cao việc áp dụng ô-zôn để xử lý nước thải nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn, vì khi
ở trong môi trường này, ô-zôn sẽ sinh ra các hợp chất độc hại, gây rủi ro đối với các
giống nuôi [5].
1.3.4. Hệ thống sục khí nhân tạo trong ao nuôi
Từ những năm 1980, các hệ thống sục khí nhân tạo đã được đề xuất để tăng
hiệu suất loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ và nitơ trong các ao nuôi thủy sản thâm
canh [20]. Thông thường, ôxy nhanh chóng bị cạn kiệt gần đáy ao (nơi các vi khuẩn
đang sử dụng ôxy để phân hủy các chất hữu cơ). Do đó, hệ thống sục khí không
chỉ đơn giản là bổ sung Oxi hòa tan cho mọi hoạt động của tôm trong ao, mọi hoạt
động của các sinh vật khác trong thủy vực (vi khuẩn, tảo, ) mà còn xáo trộn các
tầng nước, đồng nhất chất lượng nước nhằm ổn định sức khỏe và nâng cao năng
suất – hiệu quả nuôi trồng thủy sản.
Các hệ thống sục khí này so với các hệ thống UASB, đất ngập nước và xử lí
ozon có ưu điểm là: không chỉ xử lí tại chỗ nước ao nuôi mà còn xử lí được cả
phần bùn đáy ao, làm thúc đẩy quá trình phân giải các chất hữu cơ tồn đọng bên
dưới đáy ao. Theo các kết quả nghiên cứu, việc sục khí có thể làm tăng sản lượng
thủy sản, tuy nhiên lại đòi hỏi sự tiêu tốn thêm năng lượng (để quay các cánh sục,
hình 1.5), vốn đầu tư và chi phí bảo trì [13].
14
Hình 1.5: Một số hệ thống sục khí cho ao nuôi tôm (Nguồn: Internet)
A: quạt nước, B: máy thổi khí, C: đĩa phân phối khí, D: Máy sục khí, E: đĩa
quay sinh học, F: màng lọc sinh học
1.3.5. Ứng dụng mô hình sinh điện hóa
Hệ thống sinh điện hóa (bioelectrochemical systems - BESs) là những hệ
thống có đặc tính độc đáo là chuyển đổi hóa năng của các hợp chất hữu cơ trong
nước thải hoặc trầm tích thành điện năng hay sản xuất các sản phấm sinh học hoặc
sản phẩm khác ( khí hyđro ) nhờ hoạt động của vi sinh vật ở anode của hệ [92].
Gần đây, với việc các hệ thống sinh điện hóa được tập trung nghiên cứu sâu, một
công nghệ mới tiềm năng để cải tạo tại chỗ chất lượng nước ao nuôi thủy sản đã được
đề xuất dựa trên sự sử dụng hệ thống sinh điện hóa với điện cực ở đáy (sediment
bioelectrochemical system (SBES) hoặc benthic bioelectrochemical system).
Sajana và cs. (2013) đã xây dựng một hệ thống SBES thử nghiệm trong phòng
thí nghiệm và khảo sát kỹ lưỡng hiệu quả xử lý ô nhiễm nước ao nuôi thủy sản
nước ngọt của hệ thống [88]. Công nghệ này cho phép cải tạo tại chỗ chất lượng
nước ao nuôi và việc vận hành hệ thống cũng hết sức đơn giản với chi phí thấp.
Rất nhiều cơ sở nuôi trồng thủy sản trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam lại đang
vận hành các ao nuôi nước lợ. Điều kiện môi trường có độ mặn cao sẽ rất khác và
đỏi hỏi việc làm giàu thành công ở điện cực đáy ao các vi khuẩn điện hóa (tác nhân
15
xúc tác chính trong các hệ thống sinh điện hóa) hoạt động được ở nồng độ muối
cao. Hiện nay, chưa có nghiên cứu nào ứng dụng công nghệ sinh điện hóa để cải
tạo nước ao nuôi thủy sản nước lợ được công bố.
1.3.6. Tình hình nghiên cứu các giải pháp xử lý ô nhiễm ao nuôi thủy
sản ở Việt Nam
Ở nước ta, các nghiên cứu nhằm xử lý nước và đáy ao nuôi thủy sản còn chưa
nhiều. Đã có những nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Bách khoa TP
Hồ Chí Minh về việc ứng dụng công nghệ “đất ngập nước kiến tạo” (như trình bày
ở trên) để xử lý nước ao nuôi có mức độ ô nhiễm cao và dư lượng kháng sinh lớn
[5]. Công nghệ này cũng được triển khai thực nghiệm và thực địa khá thành công
ở Cần Thơ [10]. Một số nghiên cứu khác đã thử nghiệm việc áp dụng các công
nghệ khác như bể lọc sinh học hiếu khí có lớp đệm ngập nước [6] v.v Như vậy,
nhìn chung, số lượng nghiên cứu về chủ đề này còn khá ít. Xét về vấn đề xử lý đáy
ao, hiện nay trên thị trường có hàng trăm chế phẩm vi sinh vật khác nhau với nguồn
gốc, chất lượng không rõ ràng.
Với tình hình nghiên cứu trong nước như trên, có thể thấy cũng chưa có
nghiên cứu nào theo hướng ứng dụng một công nghệ mới như công nghệ sinh điện
hóa trong xử lý nước và bùn đáy ao nuôi thủy sản nước lợ.
1.4. Các mô hình sinh điện hóa
1.4.1. Giới thiệu tổng quát về các mô hình sinh điện hóa
Các mô hình sinh điện hóa (bioelectrochemical systems - BESs ) sử dụng vi
sinh vật để điều khiển các phản ứng oxi hóa – khử ở các điện cực. Trong một BES,
vi sinh vật hoạt động như một chất xúc tác cho các phản ứng oxi hóa – khử ở các
điện cực rắn, chúng chuyển đổi hóa năng trong các hợp chất hữu cơ có trong nước
thải thành điện năng. Ngoài ứng dụng dùng để sản xuất điện, thì BES còn được sử
dụng cho quá trình khử nitơ, tạo các sản phẩm từ năng lượng điện hoặc sử dụng
làm cảm biến sinh học [65].
16
BES thông thường được phân loại thành pin nhiên liệu vi sinh vật (microbial
fuel cells - MFCs) dùng để sản xuất điện năng hoặc tế bào điện phân vi sinh
(microbial electrolysis cells - MECs) – tiêu thụ điện năng để cung cấp hidro hoặc
methane từ chất thải hữu cơ (Hình 1.6) [84, 89] hoặc các phiên bản khác của MFC
với những cải biến trong thiết kế và mục đích như MRCS hoặc MSC ..... Thông
tin về cơ chế hoạt động của các dạng BES cũng đã được mô tả chi tiết bởi Logan
và cs., 2006; Rabaey và cs., 2007; Rozendal và cs., 2008b; Hamelers và cs., 2009;
Lefebvre và cs.,(2011); Pant và cs., 2012 [ 34, 43, 66, 76, 84].
Hình 1.6: Ví dụ minh họa về BESs (i) MFCs tạo ra điện năng và (ii) MECs
tiêu thụ điện năng tạo ra Hiđro.
Ghi chú: E’ đại điện cho tiềm năng khử của phản ứng ở pH = 7 và chất hữu
cơ sử dụng là acetat. Về lí thuyết, điện áp tối đa của MFCs tạo ra là 1.09 V và
điện áp tối thiểu MECs tiêu thụ là 0.13V [65].
Pin nhiên liệu vi sinh vật (MFC) được xem như là một công nghệ quan trọng
trong lĩnh vực tái tạo năng lượng và xử lí chất thải. MC. Potter là người đầu tiên
thực hiện những nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, ông đã có ý tưởng sản
xuất điện từ vi khuẩn E.coli nhưng không nhận được nhiều sự chú ý trong lĩnh vực
khoa học[52]. Sau năm 1931, Barnet Cohen đã tạo ra một loạt các pin nhiên liệu
vi sinh vật có dòng điện 2 miliampe bằng cách sử dụng vi sinh vật hoặc enzym để
oxy hóa cơ chất [75].
17
Tiếp theo đó, những nghiên cứu về MFC tiếp tục được phát triển bởi các nhà
khoa học Kim và cs. (1999), Gorby và cs. (2006) cho thấy khả năng truyền điện
tử trực tiếp cho điện cực của vi khuẩn Shewanella oneidensis [15, 103] . Nhóm
nghiên cứu ở Đại học Ghent (Bỉ) thì phát hiện ra rằng một số vi khuẩn trong cực
âm (anode), ví dụ như các Pseudomonas, có khả năng tự sản sinh các chất truyền
điện tử trung gian để thực hiện phản ứng truyền điện tử tới điện cực [41] Hiện
nay các nhà nghiên cứu vẫn đang trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện cấu trúc
của MFC, cũng như việc làm thế nào để phát huy tiềm năng thực sự của nó. Thông
thường, một hệ thống sinh điện hóa sẽ hoạt động theo nguyên lí của một Pin nhiên
liệu vi sinh vật (MFC) như sau:
Một MFC điển hình bao gồm hai điện cực: 1. Anode : diễn ra quá trình oxi
hóa cơ chất tạo e và H+ và 2. Cathode: diễn ra quá trình khử oxi, và chúng
thường được ngăn cách bởi một màng bán thấm - chỉ cho phép ion H+ đi qua
mà ngăn không cho điện tử và ion âm đi qua. Trong điều kiện kị khí, các vi
khuẩn oxi hóa chất hữu cơ tạo thành electron và proton. Sau đó electron và
proton khuếch tán theo một mạch ngoài lên cathode và phản ứng với O2 để tạo
thành nước (Hình 1.7) [79].
Hình 1.7: Nguyên lý hoạt động của một MFC (Rabaey & Verstraete 2005) [79]
Ghi chú: Bacterium: vi khuẩn; Anode: cực âm; Cathode: cực dương;
MED: chất truyền điện tử trung gian; e-: điện tử
18
1.4.2. Mô hình sinh điện hóa với điện cực ở đáy (sediment
bioelectrochemical system)
Mô hình sinh điện hóa với điện cực ở đáy (sediment bioelectrochemical
system (SBES) hoặc benthic bioelectrochemical system, được đề xuất bởi Reimers
và cs. (2001) và Sajana và cs. (2013)[80, 88], thực chất là một dạng ứng dụng của
MFC được triển khai trong một hệ thống tự nhiên hoặc hệ thống “vùng đất ngập
nước kiến tạo” [46]. Không giống như MFC, có một màng bán thấm hoặc tấm ngăn
cách giữa Anode và Cathode (Hình 1.8A), SBES dựa vào một thế oxi hóa tự nhiên
để ngăn cách Anode và Cathode (Hình 1.8B).
Hình 1.8: Sơ đồ các phản ứng ở điện cực của MFC (A) và SBES (B)[16]
Ghi chú: Anode: cực âm; Cathode: cực dương; Water: nước; sediment: bùn đáy
Trong mô hình SBES, các vi khuẩn điện hóa được làm giàu ở anode (điện
cực đáy). Tại anode các vi khuẩn sẽ phân giải các chất hữu cơ trong bùn đáy và
nước, tạo ra electron và proton. Electron sẽ được chuyển từ anode sang cathode
thông qua một mạch ngoài và proton sẽ chuyển từ bùn đáy tới cathode và kết hợp
với oxi trên cathode để tạo ra nước [51]. Một hệ thống sinh điện hóa như vậy
cho phép các chất hữu cơ ở đáy bị ôxi hóa, nhờ sự xúc tác của vi khuẩn điện
19
hóa, theo một chênh lệch thế ôxi hóa khử lớn với chất nhận điện tử cuối cùng
là ôxi, mà không cần phải đưa ôxi xuống đáy (Hình 1.9).
Hình 1.9: Mô hình vận hành của một hệ thống sinh điện hóa với điện cực
ở đáy [51].
Ghi chú: Water: nước; sediment: bùn đáy; organic matter: chất hữu cơ;
fermentation: lên men; reaction: phản ứng.
1.4.3. Vi sinh vật ở điện cực đáy: Tính đa dạng và sự biến đổi của quần xã
Hoạt động của một SBES dựa trên nguyên tắc là quá trình trao đổi chất của
vi sinh vật nên quần xã vi sinh vật của anode là một yếu tố rất quan trọng ảnh
hưởng đến hoạt động của SBES. Hiện nay, nhiều vi sinh vật có khả năng truyền
điện tử tới anode thông qua sự chuyển hóa chất hữu cơ và vô cơ trong trầm tích
biển, đất, nước thải, bùn nước ngọt và bùn hoạt tính [63]. Một số những nghiên
cứu gần đây cũng đã thảo luận về việc sàng lọc, định danh những vi sinh vật trong
SBES có khả năng tạo dòng điện dựa trên việc làm giảm các chất hữu cơ [50]. Mối
quan hệ giữa các thành phần của quần xã trong khoang anode và hiệu quả của nó
cũng đã được nghiên cứu [70, 71].
Các vi khuẩn có hoạt tính điện hóa (EBA) hoạt động ở điện cực là tác nhân chuyển
đổi năng lượng hóa học có trong các hợp chất hữu cơ thành năng lượng điện [73].
Bảng 1.3 dưới đây thống kê một số vi khuẩn phổ biến ở anode qua các nghiên
cứu trước đó.
20
Bảng 1.3: Các vi khuẩn được sử dụng trong MFC [104]
Vi khuẩn Cơ chất Các nghiên cứu
Aeromonas
hydrophila
Glucose
Acetate
Neutral red hoặc thionin đóng vai trò
làm chất truyền điện tử trung gian[68].
MFC không có chất truyền điện tử
trung gian [69].
Clostridium
butyricum
Starch, glucose,
lactate, molasses
Sulphate/sulphide đóng vai trò làm
chất truyền điện tử trung gian [64].
Escherichia
coli
Glucose,
sucrose
Chất truyền điện tử cần thiết như xanh
methylen [90].
Geobacter
metallireducens
Acetate MFC không có chất truyền điện tử
trung gian [55].
Geobacter
sulfurreducens
Acetate MFC không có chất truyền điện tử
trung gian [17].
Klebsiella
pneumoniae
Glucose HNQ đóng vai trò chất nhận điện tử làm
chất truyền trung gian cho chu trình
Man – gan [55].
Lactobacillus
plantarum
Glucose Sắt chelate đóng vai trò làm chất truyền điện
tử trung gian [100].
Proteus
mirabilis
Glucose Thionin đóng vai trò làm chất truyền
điện tử trung gian [26].
Pseudomonas
aeruginosa
Glucose Pyocyanin và phenazine-1- carboxamide đóng
vai trò làm chất truyền điện tử trung [77].
21
Rhodoferax
ferrireducens
Glucose, xylose,
sucrose, altose
MFC không có chất truyền điện tử trung
gian [47].
Shewanella
oneidensis
Lactate Anthraquinone-2,6-disulfonate (AQDS)
đóng vai trò làm chất truyền điện tử
trung gian [81].
Shewanella
putrefaciens
Lactate,
pyruvate,
acetate, glucose
MFC không có chất truyền điện tử trung
gian nhưng kết hợp một chất truyền
điện tử trung gian như Mn (IV) hoặc
NR trong anode để tăng cường sản
xuất điện [68].
Streptococcus
lactis
Glucose Ferric chelate complex đóng vai trò làm
chất truyền điện tử trung gian [100].
Như vậy, việc nghiên cứu thành phần và hoạt động của quần xã vi khuẩn
dưới điện cực đáy của SBES sẽ giúp có cái nhìn chính xác hơn về hiệu quả hoạt
động của hệ thống (khả năng sinh điện, khả năng phân hủy chất hữu cơ, xử lí COD,
TN hay TAN ) đồng thời là cơ sở để tối ưu hóa hoạt động của hệ thống.
Để nghiên cứu các quần xã vi sinh vật, các phương pháp nghiên cứu truyền
thống hoặc các phương pháp sinh học phân tử có thể được sử dụng .
Các phương pháp truyền thống
Các phương pháp truyền thống để nghiên cứu một hệ vi sinh vật như lấy mẫu,
phân lập, nuôi cấy làm giàu, đếm trực tiếp (qua kính hiển vi), đếm khuẩn lạc (phương
pháp CFU), đếm bằng phương pháp giá trị xác suất cực đại (phương pháp MPN) .
Khi tính số lượng vi sinh vật còn phải chú ý đến số lượng các vi sinh vật
không nuôi cấy được, mà đa số vi sinh vật trong thiên nhiên hiện nay thực ra vẫn
chưa có thể nuôi cấy được trong phòng thí nghiệm (Pace, 1996). Số lượng các vi
sinh vật nuôi cấy được chưa tới 1% tổng số vi sinh vật [60]. Đối với việc phân bố
22
và tính đa dạng của các vi sinh vật không nuôi cấy được cần sử dụng những
phương pháp khác, bao gồm các phương pháp sinh học phân tử: phương pháp
phân tích đa hình ADN sử dụng PCR và các enzyme giới hạn, phương pháp điện
di gel gradient biến tính (DGGE), phương pháp lai huỳnh quang tại chỗ (FISH),
... Trong số các kỹ thuật này, phương pháp DGGE là phương pháp được sử dụng
phổ biến hơn cả vì không quá phức tạp và cho phép phân tích thành phần các
quần xã vi sinh vật tương đối hiệu quả.
Phương pháp DGGE
Kỹ thuật điện di biến tính gradient trên gel (denaturing gradient gel
electrophoresis, DGGE) một dạng kỹ thuật ”dấu vân tay” (fingerprinting) phân
tử cho phép phân biệt các trình tự DNA khác nhau dựa trên sự khác nhau về tỷ
lệ (G+C)/(A+T) giữa các trình tự, được Myuzer sử dụng tiên phong trong nghiên
cứu sinh thái học vi sinh vật. Ưu điểm của phương pháp này là có thể xác định
được sự có mặt của các nhóm, loài vi sinh vật không thể nuôi cấy được trong
mẫu cần phân tích [59].
Khi được điện di trên một gel có gradient chất biến tính, tùy theo thành
phần nucleotit mà một phân tử DNA sẽ dừng lại ở một vị trí nhất định đặc trưng:
trong phân tử càng nhiều G và C thì phân tử càng lâu bị biến tính và do đó càng
lâu dừng lại trên gel điện di. Vì vậy, vị trí khác nhau trên điện di đồ DGGE
phản ánh sự khác nhau về trình tự của các đoạn DNA được phân tích. Trong
từng trư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003312_1_2414_2002980.pdf