DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT. iii
DANH MỤC BẢNG. iv
DANH MỤC HÌNH .v
MỞ ĐẦU.1
Chương 1 – TỔNG QUAN .3
1.1. Ô nhiễm asen trong nước ngầm trên thế giới và Việt Nam .3
1.1.1. Ô nhiễm asen trên thế giới .4
1.1.2. Ô nhiễm asen tại Việt Nam .10
1.2. Asen trong đất, trầm tích và khoáng .13
1.3. Các giả thuyết về sự hình thành asen trong nước ngầm .17
1.3.1. Cơ chế giải phóng As từ các khoáng sắt oxit dưới điều kiện khử .18
1.3.2. Cơ chế cạnh tranh vị trí hấp phụ .20
1.3.3. Quá trình oxi hóa quặng pyrit .21
1.3.4. Các giả thuyết khác về cơ chế giải phóng asen vào tầng chứa nước .22
1.4. Phương pháp phân tích asen trên các pha rắn trong trầm tích .24
Chương 2 – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .31
2.1. Địa điểm nghiên cứu .31
2.2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu.32
2.3. Phương pháp nghiên cứu.34
2.3.1. Phương pháp lấy mẫu.34
2.3.2. Phương pháp phân tích.37
2.3.3. Phương pháp chiết trầm tích .39
2.4. Phương pháp xử lí số liệu.42
2.5. Thiết bị, dụng cụ và hóa chất nghiên cứu .42
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 46 trang
46 trang | 
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 745 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu sự phân bố hàm lượng asen trong nước ngầm và trầm tích tại khu vực tây bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng hơn miền nam. Trong đó, khu vực bị ô nhiễm As 
nghiêm trọng nhất là Hà Nam với mức độ ô nhiễm đạt giá trị cao tương tự Bangladesh 
với 62,1% số giếng có lượng As cao hơn 50 µg/l, tại Hà Tây (hiện nay thuộc Hà Nội) 
có số giếng bị ô nhiễm As vượt quá tiêu chuẩn nồng độ asen trong nước ngầm (50 
µg/l) là 24,7%. Ngoài ra, khu vực phía Nam Hà Nội, một phần của Hưng Yên, Nam 
Định, Ninh Bình, Thái Bình và Hải Dương cũng bị ô nhiễm bởi As với nồng độ cao. 
Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, cũng phát hiện thấy nhiều giếng khoan có nồng 
độ As cao nằm ở các tỉnh Đồng Tháp và An Giang [9]. Qua đó có thể thấy tình trạng 
ô nhiễm As nghiêm trọng ở khu vực đồng bằng sông Hồng. 
Trong thời gian từ năm 2005 – 2007, Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Môi 
trường và Phát triển Bền vững (CETASD), Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 
ĐHQG Hà Nội kết hợp cùng với các chuyên gia thuộc Viện Khoa học và Công nghệ 
 11 
Nước (Eawag), Thụy Sĩ đã tiến hành khảo sát mức độ ô nhiễm As trong tổng số 461 
mẫu nước giếng khoan nhà dân, trên địa bàn 15 tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Kết 
quả cho thấy hàm lượng As của 461 mẫu nước ngầm này nằm trong khoảng <1 µg/l 
đến >400 µg/l. Trong đó, 73% số mẫu có hàm lượng As nhỏ hơn 10µg/l đạt tiêu chuẩn 
về nồng độ As trong nước uống theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam. Trong số 27% 
mẫu còn lại có 16% số mẫu có nồng độ As trong khoảng 10-50 µg/l, đạt tiêu chuẩn 
hàm lượng As trong nước ngầm nhưng không đạt tiêu chuẩn hàm lượng As trong 
nước ăn uống. Còn lại 11% tổng số không đạt tiêu chuẩn hàm lượng As trong nước 
ngầm, trong đó, có 8% số mẫu có hàm lượng As trong khoảng 50-200 µg/l, và 3% số 
mẫu có hàm lượng As vượt quá 200 µg/l. Tuy nhiên, tổng số 11% số mẫu vượt quá 
tiêu chuẩn này lại tập trung chủ yếu ở các tỉnh đông dân cư như Hà Nam, Hà Nội, 
Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình (Hình 1.3) [6]. 
Hình 1.3. Bản đồ hiện trạng ô nhiễm As trong nước ngầm đang được người 
dân khai thác tại đồng bằng sông Hồng [52] 
Độ sâu của các giếng khảo sát nằm trong khoảng 5-135m. Hầu hết các giếng có 
độ sâu lớn hơn 80m không bị ô nhiễm As, chiếm khoảng 9% số giếng khảo sát. Các 
 12 
giếng sâu thường bắt gặp ở các xã ven biển của các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, 
Nam Định, Thái Bình. Tại các xã này, nước ngầm tầng nông thường bị nhiễm mặn 
nên nước ngầm ngọt thường được khai thác độ sâu gần 100m. Còn lại các giếng có 
độ sâu trong khoảng 15-60m thường bị ô nhiễm As với nồng độ >50µg/l. Tuy nhiên, 
ở cùng độ sâu này nhưng mức độ ô nhiễm cũng khác nhau ở các vùng khác nhau. 
Kết quả nghiên cứu tại tầng chứa nước thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông 
Hồng gần Hà Nội của tác giả Dieke Postma (2007) cho thấy các tầng chứa nước này 
có điều kiện yếm khí, đặc trưng bởi sự phân hủy cacbon hữu cơ cùng với quá trình 
khử Fe oxit và hình thành khí metan là chủ yếu. Nồng độ As ở khu vực này tăng dần 
theo độ sâu và đạt giá trị cao nhất là 550 µg/l. Sự giải phóng As trong toàn khu vực 
nghiên cứu là đồng nhất, không có hiện tượng phân tán như ở Bangladesh. Trong 
nước ngầm thấy sự có mặt của cả As(III) và As(V) nhưng As(III) chiếm chủ yếu, và 
nó có mối tương quan tốt với NH4+ – một bằng chứng chứng minh cho giả thuyết As 
xuất hiện trong tầng chứa nước do sự khử hòa tan các khoáng Fe hydr(oxit) dưới tác 
động của quá trình phân hủy các chất hữu cơ [39]. 
Một nghiên cứu khác của Elisabeth Eiche (2008) thực hiện tại xã Vạn Phúc, 
Thanh Trì thuộc vùng đồng bằng sông với hai địa điểm chỉ cách nhau 700m nhưng 
lại có sự khác biệt lớn về nồng độ As trong nước ngầm (điểm L <10 µg/l và điểm H 
170-600 µg/l). Ở khu vực này tầng chứa nước có độ sâu từ 20 đến 50 m thuộc tầng 
Holocene. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả này chỉ ra rằng không có sự khác 
biệt lớn nào về mặt khoáng học và địa hóa trầm tích ngoại trừ trạng thái oxi hóa khử 
của của Fe oxihydroxit. Ở điểm H (với nồng độ As trong nước cao), hầu hết As trong 
trầm tích được hấp phụ trên cát đen – chỉ thị cho sự có mặt của hỗn hợp Fe(II) và 
Fe(III), và môi trường khử. Trong khi đó, ở điểm L (nồng độ As trong nước thấp) tìm 
thấy As liên kết với trầm tích có Fe(III) màu vàng – chỉ thị cho điều kiện oxi hóa 
trong tầng chứa nước. Kết hợp với nồng độ Fe cao ở điểm H (14 mg/l) so với điểm L 
(1-2 mg/l) và nồng độ cao của các chỉ tiêu NH4+ (10 mg/l), HCO3- (500 mg/l) và DOC 
(3 mg/l) ở điểm H là phù hợp với cơ chế khử hòa tan các khoáng Fe kèm theo sự giải 
phóng As liên kết trên đó [20]. 
 13 
Tại vùng đồng bằng sông Mekong, tác giả Michael Berg (2007) đã tiến hành 
nghiên cứu hiện tượng ô nhiễm As trong nước ngầm ở hai tỉnh An Giang và Đồng 
Tháp – là hai tỉnh có sông Bassac và sông Mekong (hay còn gọi là sông Tiền Giang 
và Hậu Giang) chảy qua. Kết quả nghiên cứu cho thấy 112 mẫu nước thu được tại 
đây có nồng độ As trong khoảng <1-845µg/l (trung bình 39 µg/l). Kèm theo đó là 
nồng độ cao của một số chỉ tiêu như Fe 0,05-56 mg/l; NH4+ 0,1-35 mg/l; DOC 1,5-
56 mg/l, HCO3- 19-785 mg/l cho thấy tầng chứa nước ở hai khu vực này có tính khử 
và nồng độ As cao thường được tìm thấy trong các mẫu có giá trị pH > 7 [16]. 
Các kết quả nghiên cứu ở trên cho thấy, các vùng đồng bằng châu thổ trên thế 
giới và Việt Nam đều bị ô nhiễm bởi As với nồng độ cao và sự ô nhiễm này thường 
được tìm thấy trong các tầng chứa nước Holocene. Trong đó, tại Việt Nam, vấn đề ô 
nhiễm As trong các tầng chứa nước ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có mức 
độ nghiêm trọng hơn và cũng được tập trung nghiên cứu nhiều hơn so với vùng đồng 
bằng sông Mekong. 
1.2. Asen trong đất, trầm tích và khoáng 
Asen là nguyên tố hiếm, chiếm khoảng năm trăm phần nghìn của 1% (tức là 
0,00005%) trong vỏ trái đất, với hàm lượng trung bình trong đá magma và đá trầm 
tích là 2 mg/kg. As có thể đồng kết tủa với hydroxit Fe và sunfua trong trầm tích do 
đó mà As có thể được tìm thấy trong tự nhiên trong hơn 200 loại khoáng khác nhau, 
trong đó, nồng độ As lớn nhất được tìm thấy trong các loại khoáng như orpiment 
(As2S3), realgar (AsS), arsenopyrite (FeAsS), niccolite (NiAs)... Trong các khoáng 
này, As tồn tại ở dạng asenat chiếm khoảng 60%, 20% ở dạng sunfua và sulfosalt, 
20% còn lại bao gồm asenua, asenit, asen oxit, silicat và As nguyên tố. Trong hầu hết 
các loại đá nồng độ của As trong khoảng 0,5 đến 2,5 mg/kg. As tập trung ở một số 
trầm tích biển có môi trường khử, với hàm lượng có thể lên tới 3000 mg/kg. As trong 
trầm tích dao động trong khoảng 5 – 10 mg/kg. Hàm lượng cao hơn đã được tìm thấy 
trong trầm tích sét và phosphorite hạt mịn. Khoáng carbonat và silicat thường chứa 
 14 
As với hàm lượng nhỏ hơn 10 mg/kg. Hàm lượng As trong một số loại khoáng và vật 
liệu địa chất được liệt kê trong bảng 1.2 [30, 43]. 
Bảng 1.2. Hàm lượng As trong một số loại khoáng và vật liệu địa chất [30, 43] 
Khoáng/Vật liệu Khoảng nồng 
độ As (mg/kg) 
Khoáng/Vật liệu Khoảng nồng 
độ As (mg/kg) 
Đá magma 
Đá axit 
Rhyolite (phun trào) 
Granite (xâm nhập) 
Đá trung tính 
Latite, andesite, trachyte 
Diorite, granodiorite, syenite 
Đá bazơ 
Bazan 
Gabbro 
Đá siêu bazơ 
Peridotite, dunite, serpentinite 
Đá biến chất 
Quartzite 
Đá phiến/phyllite 
Đá phiến/gneiss 
Đá trầm tích 
Trầm tích biển 
Đá phiến sét/đá sét (gần bờ) 
Đá phiến sét/đá sét (xa bờ) 
Carbonat 
Phosphorite 
Sa thạch 
Trầm tích không phải từ biển 
Đá phiến sét 
Đá sét 
Trầm tích trẻ 
Bùn 
Sét 
Carbonat 
Suối/sông 
Hồ 
Đất 
3,2-5,4 
0,18-15 
0,5-5,8 
0,09-13,4 
0,18-113 
0,06-28 
0,3-15,8 
2,2-7,6 
0,5-143 
0,0-18,5 
4-25 
3,0-490 
0,1-20,1 
0,4-188 
0,6-9 
3,0-12 
3,0-10 
3,2-60 
4,0-20 
<1,0 
5-4000 
2,0-300 
<0,1-97 
Khoáng sunfua 
Pyrite 
Pyrrhotite 
Marcasite 
Galena 
Sphalerite 
Chalcopyrite 
Khoáng oxit 
Hematite 
Fe oxit 
Fe(III) 
oxyhydroxit 
Magnetite 
Ilmenite 
Khoáng silicat 
Quartz 
Felspar 
Biotite 
Amphibole 
Olivine 
Pyroxene 
Khoáng carbonat 
Calcite 
Dolomite 
Siderite 
Khoáng sulphat 
Gypsum/anhydrite 
Barite 
Jarosite 
Khoáng khác 
Apatite 
Halite 
Florite 
100-77000 
5-100 
20-126000 
5-10000 
5-17000 
10-5000 
Lên tới 160 
Lên tới 2000 
Lên tới 76000 
2,7-41 
<1 
0,4-1,3 
<0,1-2,1 
1,4 
1,1-2,3 
0,008-0,17 
0,05-0,8 
1-8 
<3 
<3 
<1-6 
<1-12 
34-1000 
<1-1000 
<3-30 
<2 
 15 
Do tính chất hóa học của As tương đối giống với S nên As thường xuất hiện với 
nồng độ lớn trong các quặng/khoáng có chứa lưu huỳnh, trong đó pyrit là phổ biến 
nhất. As thường thay thế S trong cấu trúc tinh thể của khoáng sunfua. As cũng có thể 
bị hấp phụ lên bề mặt của các khoáng Fe, calcite hay hấp phụ lên các lớp ngoài của 
cấu trúc sét. Hàm lượng lớn của As trong các khoáng thường tìm thấy ở vùng bị 
khoáng hóa và liên kết với một số kim loại chuyển tiếp như Cd, Pb, Ag, Au, Sb, P, 
W và Mo [43]. 
Hàm lượng của As trong đất ở một số quốc gia khác nhau được cho là nằm trong 
khoảng từ 1-40 mg/kg (trung bình 6 mg/kg); từ 1-50 mg/kg (trung bình 6 mg/kg); và 
trung bình 5 mg/kg, nhưng khoảng hàm lượng này biến đổi theo vùng địa lí. As có 
mặt trong đất nhìn chung cao hơn trong đá. Đất không bị ô nhiễm thường chứa khoảng 
1-40 mg/kg As, với hàm lượng thấp nhất trong đất pha cát có nguồn gốc từ granite, 
trong khi Hàm lượng lớn hơn của As được tìm thấy trong đất phù sa và đất giàu vật 
chất hữu cơ [30]. Hàm lượng As trong đất ở một số quốc gia khác nhau được trình 
bày trong bảng 1.3. 
Bảng 1.3. Hàm lượng As trong đất ở một số quốc gia khác nhau trên thế giới [30] 
Quốc gia Loại đất/trầm 
tích 
Khoảng nồng 
độ (mg/kg) 
Trung bình 
(mg/kg) 
Tây Bengal, Ấn Độ Trầm tích 10-196 
Bangladesh Trầm tích 9,0-28 22,1 
Argentina Tất cả các loại 0,8-22 5 
Trung Quốc Tất cả các loại 0,01-626 11,2 
Pháp Tất cả các loại 0,1-5 2 
Đức 2,5-4,6 3,5 
Ý Tất cả các loại 1,8-60 20 
Nhật Bản Tất cả các loại 
Đất nông nghiệp 
0,4-70 
1,2-38,2 
11 
9 
Mexico Tất cả các loại 2-40 14 
Nam Phi 3,2-3,7 3 
Switzerland 2-2,4 2,2 
Mỹ Nhiều bang 
Đất trồng 
1,0-20 
1,6-72 
7,5 
7,5 
 16 
Các nhân tố chính ảnh hưởng đến hàm lượng As trong đất là đá mẹ và các hoạt 
động của con người. Các yếu tố khác như khí hậu, các thành phần vô cơ, hữu cơ của 
đất, thế oxi hóa khử cũng ảnh hưởng đến nồng độ As trong đất. 
Trầm tích đặc trưng cho các vùng đồng bằng bồi tích và đồng bằng sông thổ ở 
Bangladesh có hàm lượng As trong khoảng 0,4-10 mg/kg (trung bình 4 mg/kg) [15]. 
Vùng Nội Mông, Trung Quốc, lượng As trong trầm tích biến đổi trong khoảng từ 7,3 
đến 73,3 mg/kg (trung bình 18,9 mg/kg) cao hơn nhiều so với trầm tích tại các khu 
vực khác [23]. Các trầm tích bở rời có lượng As khác nhau không đáng kể thường 
trong khoảng 3-10 mg/kg, thay đổi phụ thuộc vào kết cấu và nguồn gốc khoáng. Bùn 
và đất sét thường có nồng độ As cao hơn cát. Nồng độ As trong trầm tích ở một số 
vùng được liệt kê trong bảng 1.4. 
Bảng 1.4. Hàm lượng As trong trầm tích và đất ở một số vùng trên thế giới [43] 
Loại trầm tích 
Nồng độ trung bình 
và/hoặc khoảng (mg/kg) 
Trầm tích không bị ô nhiễm 
Cát phù sa, Bangladesh 
Bùn/sét phù sa, Bangladesh 
Trầm tích đáy sông, Bangladesh 
Trầm tích hồ Thượng (Lake Superior), Mỹ 
Trầm tích hồ, British Colombia 
Sét tảng do băng, British Colombia 
Bùn hồ và suối, Canada 
Bùn hoàng thổ, Argentina 
Trầm tích rìa lục địa 
2,9 (1,0-6,2) 
6,5 (2,7-14,7) 
1,2-5,9 
2,0 (0,5-8,0) 
5,5 (0,9-44) 
9,2 (1,9-170) 
6 (<1-72) 
5,4-18 
2,3-8,2 
Đất 
Đất than bùn và đầm lầy 
Đất phèn chua, Việt Nam 
Đất phèn chua, Canada 
Đất gần mỏ sunfua 
13 (2-36) 
6-41 
1,5-45 
126 (2-8000) 
Hàm lượng As trung bình trong trầm tích suối ở Anh và xứ Wales thường dao 
động trong khoảng 5-8 mg/kg. As trong trầm tích sông Gangers trung bình khoảng 2 
 17 
mg/kg, sông Brahmaputra trung bình khoảng 2,8 mg/kg. Hàm lượng As trong trầm 
tích hồ biến đổi trong khoảng 0,9-44 mg/kg [43] 
Như vậy, có thể thấy rằng sự phân bố của As trên các loại trầm tích, đất đá, 
khoáng khác nhau là khác nhau, sự phân bố này cũng khác nhau theo khu vực địa lí 
và nguồn gốc hình thành. Hàm lượng As trong trầm tích phụ thuộc vào kết cấu, khả 
năng lưu trữ As của các khoáng trong trầm tích, nguồn gốc trầm tích và môi trường 
mà nó tồn tại. Một câu hỏi được đặt ra đó là: vậy từ sự phân bố của As trong trầm 
tích và khoáng cùng nồng độ As cao trong nước ngầm trên thế giới và Việt Nam như 
đã được mô tả thì nguyên nhân gây ra sự ô nhiễm As trong các tầng chứa nước là do 
đâu? Các nguyên nhân thường được đề cập nhất sẽ được trình bày trong phần tiếp 
theo của luận văn. 
1.3. Các giả thuyết về sự hình thành asen trong nước ngầm 
Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện trong vài thập kỉ gần đây để tìm hiểu 
nguyên nhân gây ô nhiễm asen trong các tầng chứa nước, nhưng cho tới nay nó vẫn 
đang là vấn đề được bàn cãi và hiện chưa có một cơ chế nào phù hợp với tất cả các 
tầng chứa nước bị ô nhiễm asen. Tuy nhiên, có một nguyên nhân được chấp nhận 
rộng rãi nhất bởi các nhà nghiên cứu đó là asen được giải phóng ra từ trầm tích và đi 
vào nước ngầm [39]. Nghiên cứu tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, các nhà 
khoa học đã đưa ra một số giả thuyết về cơ chế giải phòng asen từ trầm tích ra nước 
ngầm, trong đó một số giả thuyết được đưa ra nhiều nhất là: 1) quá trình oxi hóa 
khoáng sunfua có chứa asen đặc biệt là khoáng pyrit, 2) do cạnh tranh vị trí hấp phụ 
trên bề mặt khoáng với các ion khác có mặt trong nước ngầm, 3) sự khử hòa tan các 
khoáng chứa asen dưới điều kiện khử. Ngoài cơ chế giải phóng asen từ trầm tích vào 
nước ngầm như đã nói ở trên, còn có hai yếu tố quan trọng liên quan đến sự ô nhiễm 
asen ở các tầng chứa nước là: 1) phải có các điều kiện địa hóa thuận lợi cho quá trình 
giải phóng asen từ pha rắn trong trầm tích; 2) asen sau khi đã giải phóng phải nằm lại 
trong nước ngầm và không bị rửa trôi đi xa [43]. 
 18 
1.3.1. Cơ chế giải phóng As từ các khoáng sắt oxit dưới điều kiện khử 
Ở nhiều tầng chứa nước được ghi nhận có hàm lượng As cao trên thế giới, sự 
hình thành điều kiện khử đóng một vai trò quan trọng trong việc khởi động quá trình 
giải phóng As vào nước ngầm. Sự có mặt của vật chất hữu cơ dẫn đến một loạt các 
phản ứng oxi hóa khử phức tạp, liên quan đến sự tiêu thụ oxi hòa tan, hình thành CO2 
từ quá trình oxi hóa carbon hữu cơ, khử nitrat, Mn(IV) và Fe(III) và sau đó là khử 
SO42- và có thể hình thành CH4 (Hình 1.4). Sự khử hòa tan của Fe-oxit trong quá trình 
này có thể chịu trách nhiệm cho việc giải phóng As vào nước. Một phần của phản 
ứng sau đó là khử As(V) về As(III), dạng ít bị hấp phụ lên bề mặt khoáng Fe-oxit 
[13]. Nguyên nhân phổ biến nhất cho hiện tượng này là sự tích tụ nhanh chóng và 
chôn vùi của trầm tích. Quá trình này thường diễn ra ở các lưu vực sông, đặc biệt các 
lưu vực rộng lớn với nhánh sông có khúc quanh rộng có tải lượng trầm tích lớn. Hay 
sự phát triển nhanh chóng của các vùng châu thổ cũng là một ví dụ điển hình cho quá 
trình này. Tốc độ hình thành điều kiện khử được quyết định bởi lượng C hữu cơ có 
trong trầm tích bị chôn vùi. Chất hữu cơ đất mới hình thành sẽ nhanh chóng bị phân 
hủy và sử dụng O2, NO3-, SO42- hòa tan trong nước và hình thành môi trường khử. 
Thứ tự dãy các phản ứng oxi hóa khử minh họa cho cơ chế này như sau [12]: 
1. Hô hấp hiếu khí: 
CH2O + O2 → H2O + CO2 
2. Denitrat hóa: 
5CH2O + 4NO3- → 2N2 + 4HCO3- + CO2 + 3H2O 
CH2O + H2O + N2 + H+ → NH4+ + CO2 
3. Khử Mn oxit: 
CH2O + 2MnO2 + 3CO2 + H2O → 2Mn2+ + 4HCO3- 
4. Khử Fe oxit: 
4FeOOH (As(V)) + CH2O + 7H2CO3 → 4Fe2+ + 8HCO3- + 6H2O + As(III) 
2Fe2O3.xH3AsO3 + CH2O +7H+ → 4Fe2+ + HCO3- + 4H2O + 2xH3AsO3 
 19 
5. Khử sulfat: 
2CH2O + SO42- → 2HCO3- + H2S 
Trong điều kiện môi trường có nhiều Fe2+ , quá trình diễn ra như sau: 
8Fe2+ + SO42- + 20H2O → 8Fe(OH)3 + HS- + 15H+ 
6. Lên men tạo CH4: 
2CH2O → CH4 + CO2 
Hình 1.4. Sơ đồ con đường phân hủy vật chất hữu cơ dưới điều kiện yếm khí [12] 
Một quá trình cũng khá quan trọng khác là sự hình thành Fe-oxit trong trầm tích. 
Quá trình này bao gồm sự thay đổi cấu trúc khoáng (kích thước và bề mặt) và trạng 
thái oxi hóa, chính sự thay đổi này có thể ảnh hưởng đến ái lực với As liên kết. 
Sau một loạt các phản ứng oxi hóa khử kể trên xảy ra làm cho tầng chứa nước 
ở điều kiện khử có hàm lượng O2, NO3-, SO42-, Eh rất thấp, kèm theo đó là nồng độ 
cao của Fe2+, Mn2+, có thể có NH4+, H2S và CH4. Có thể thấy các chỉ số trên như chỉ 
thị cho môi trường khử ở các tầng chứa nước [27]. Trên thế giới, các nhà khoa học 
đã phát hiện ra nhiều khu vực có tầng chứa nước ở môi trường khử giàu As như 
 20 
Bangladesh, Ấn Độ (Tây Bengal) với nồng độ As trong khoảng <0,5 đến 3200 µg/l, 
Đài Loan nồng độ As từ 10 đến 1820 µg/l, Việt Nam với khoảng nồng độ của As là 
1-3050 µg/l (chỉ riêng Đồng bằng sông Hồng), Hungary và Romania với khoảng nồng 
độ As nhỏ hơn các khu vực kể trên là <2-176 µg/l. Trong số các giả thuyết về sự hình 
thành As trong các tầng chứa nước được đưa ra thì giả thuyết này được chấp nhận 
rộng rãi hơn cả [13, 20, 27, 39, 41, 43]. 
1.3.2. Cơ chế cạnh tranh vị trí hấp phụ 
Như đã được báo cáo bởi nhiều nhà nghiên cứu, As có thể bị hấp phụ mạnh lên 
các khoáng như (oxyhydr)oxit sắt, khoáng sétdưới dạng ion asenat. Tuy nhiên, khi 
pH tăng lên tới >8,5 thì asen dễ dàng bị giải hấp phụ ra khỏi bề mặt các khoáng đó, 
và làm tăng nồng độ As trong nước ngầm. Quá trình tăng pH gây ra sự giải hấp phụ 
của mội số oxyanion như phosphat, vanadat, uranyl, và molybdat. Trong môi trường 
nước ngầm tự nhiên, những ion có khả năng cạnh tranh vị trí hấp phụ trên bề mặt 
khoáng và làm giảm tải lượng As bị hấp phụ như ion phosphat, bicarbonat, các hợp 
chất carbon hữu cơ hòa tan (các axit humic và axit fulvic) [13, 43]. 
Phosphat và asenat có cấu trúc tương tự nhau, nhưng phosphat có kích thước 
phân tử nhỏ hơn, mật độ điện tích lớn hơn, với khoảng nồng độ tương tự nhau trong 
nước ngầm phosphat có khả năng cạnh tranh hấp phụ lên bề mặt khoáng với asenat 
[42, 50]. Hơn nữa phosphat cũng hấp phụ mạnh lên bề mặt khoáng cho nên nó có thể 
làm cản trở quá trình hấp phụ của asen lên bề mặt khoáng. Tương tự phosphat, 
bicarbonat là anion chính trong nước ngầm, nồng độ của nó trong nước ngầm có chứa 
nhiều As thường vượt quá 300 mg/l. Và vì ion HCO3- và phosphat có khả năng cạnh 
tranh nên có thể giả định rằng HCO3- có khả năng cạnh tranh vị trí hấp phụ với As và 
có thể ảnh hưởng tới sự giải phóng asen, đẩy mạnh quá trình giải hấp của As. Tuy 
nhiên, khả năng cạnh tranh của HCO3- với asenat trên bề mặt các khoáng thường 
không lớn. Một số nghiên cứu cũng đã đưa ra các số liệu thực nghiệm chứng minh 
rằng ở khoảng nồng độ <100 mg HCO3-/L, với pH 6-9, HCO3- hầu như không ảnh 
hưởng gì đến quá trính hấp phụ của asen lên bề mặt khoáng sắt [43]. Mặc dù vậy, vai 
 21 
trò của ion HCO3- đối với sự giải hấp của As ra khỏi bề mặt khoáng chưa thực sự rõ 
ràng và không đủ bằng chứng để kết luận. Do đó, cần mở rộng các nghiên cứu về vấn 
đề này đề này hơn nữa. Vai trò của C hữu cơ hòa tan (axit humic và axit fulvic) cũng 
không chắc chắn và không đủ bằng chứng trực tiếp cho mối liên hệ giữa As và C hữu 
cơ hòa tan [13, 43]. 
1.3.3. Quá trình oxi hóa quặng pyrit 
Như đã được biết, As có mặt trong hơn 200 loại khoáng khác nhau. Quặng 
khoáng As phong phú nhất là arsenopyrit (FeAsS) và các khoáng sunfua của As như 
hùng hoàng (α-As4S4) và thư hoàng (As2S3). Ngoài ra, với tính chất hóa học tương tự 
như S, As thường liên kết trong các khoáng sunfua của các kim loại, như là sự thay 
thế S trong cấu trúc khoáng. Các loại khoáng sunfua thường chứa As như 
chalcopyrite, galena, marcasite, enargite, tennantite đặc biệt là pyrit [43]. 
Quá trình oxi hóa các quặng sunfua đặc biệt là pyrit cũng có thể là một nguồn 
giải phóng As trong điều kiện môi trường oxi hóa. Quá trình oxi hóa các khoáng pyrit 
chứa As trong trầm tích châu thổ có thể xảy ra khi có sự hạ thấp mực nước ngầm, tạo 
điều kiện thuận lợi cho oxy không khí khuếch tán vào các tầng chứa nước và xung 
quanh các khu vực khai thác mỏ, đập đuôi quặng, nước ngầm có tính axit và chứa 
hàm lượng cao của SO42-, Fe và các kim loại nặng khác. Quá trình oxi hóa quặng pyrit 
có thể xảy ra theo một vài phản ứng dưới đây [49]: 
Đầu tiên là bị oxi hóa bởi oxi không khí: 
2FeS2 + 7O2 + 2H2O → 2Fe2+ + 4SO42- + 4H+ 
Một con đường thứ hai là pyrit có thể bị oxi hóa bởi nitrat: 
5FeS2 + 14NO3- + 4H+ → 5Fe2+ + 10SO42- + 7N2 + 2H2O 
Pyrite cũng có thể bị oxi hóa bởi Fe3+: 
FeS2 + 14Fe3+ + 8H2O → 15Fe2+ + 2SO42- + 16H+ 
Fe2+ sinh ra từ các phản ứng trên tiếp tục bị oxi hóa thành Fe3+: 
4Fe2+ + O2 + 4H+ → 4Fe3+ + 2H2O 
 22 
Ở điều kiện thường, tốc độ của phản ứng oxi hóa Fe2+ thành Fe3+ thường xảy ra 
chậm, nhưng trong điều kiện tầng chứa nước với sự có mặt của các loại vi khuẩn oxi 
hóa sắt ưa axit (acidophilic iron-oxidizing), bao gồm Thiobacillus và Leptospirillum 
spp. phản ứng này có thể diễn ra nhanh hơn. Tuy nhiên, cơ chế này không được chấp 
nhận rộng rãi vì không phải loại trầm tích nào cũng chứa pyrit. Một số chỉ thị cần 
thiết trong tầng chứa nước cho thấy cơ chế giải phóng asen là do quá trình oxi hóa 
quặng pyrit gây ra là: mối tương quan thuận giữa asen, sulfat, sắt và các kim loại nặng 
khác có trong khoáng sunfua; giá trị TDS (tổng chất rắn hòa tan) tăng; mối tương 
quan nghịch giữa asen và giá trị pH; đặc biệt là phải có sự có mặt của các chất oxi 
hóa như oxi hòa tan, nitrat, hay sự có mặt của vi khuẩn ưa axit như Thiobacillus và 
Leptospirillum [13, 43, 49]. 
1.3.4. Các giả thuyết khác về cơ chế giải phóng asen vào tầng chứa nước 
 Sự giảm diện tích bề mặt khoáng oxit: sự hỗn độn và các hạt mịn Fe-oxit thường 
chứa HFO (hydrous ferric oxide) – FeOOH, lepidocrocite (γ-FeOOH), 
magnetite (Fe3O4), schwertmannite (Fe3+16O16(OH)12(SO4)2) và thường được 
hình thành trong giai đoạn đầu của quá trình phong hóa. HFO mới hình thành 
rất mịn, thường kết hợp thành từng cụm có đường kính 5 nm với diện tích bề 
mặt khoảng 600 m2/g. Trong quá trình phong hóa, HFO dần dần chuyển (kết 
tinh) thành dạng có trật tự hơn như goethite hoặc hematite, kèm theo đó là dẫn 
đến sự giảm diện tích bề mặt. Phản ứng “già hóa” này có thể diễn ra nhanh 
chóng trong trong phòng thí nghiệm nhưng tốc độ chuyển hóa dưới điều kiện tự 
nhiên của môi trường phần nào bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của các ion khác, 
đặc biệt là sự hấp phụ mạnh của các ion như Al3+, PO43-, SO42-, AsO43-, HCO3- 
và silicat. Hậu quả kèm theo của sự giảm diện tích bề mặt này là lượng As(V) 
hấp phụ có thể bị giảm và As(V) tiếp tục tồn tại trong môi trường nước do diện 
tích bề mặt khoáng giảm từ 600 m2/g của HFO xuống còn 150 m2/g của goethite. 
Một thí nghiệm chỉ ra rằng trong cùng một điều kiện, nồng độ As trong dung 
dịch tăng lên khi diện tích bề mặt khoáng giảm xuống dưới 300 m2/g khi cho 
 23 
HFO cân bằng với 1 µg/l As(V) và trầm tích với 25% độ xốp và hàm lượng 
HFO tương đương 1 g/kg Fe (Hình 1.5) [43]. 
Hình 1.5. Sự gia tăng nồng độ As(V) trong dung dịch khi diện tích bề mặt 
HFO giảm [43] 
 Sự biến đổi dòng chảy nước ngầm: các yếu tố địa hóa như đã đề cập ở trên có 
thể phát tán asen vào nước ngầm nhưng chỉ như vậy thì chưa đủ để giải thích 
cho sự phân bố của các tầng chứa nước có lượng As cao như đã được quan sát. 
Một yếu tố nữa liên quan đến sự hình thành As trong nước ngầm là As được 
giải phóng không bị rửa trôi hoặc pha loãng bởi các dòng chảy nước ngầm. Sự 
biến đổi của dòng chảy rất có thể là một yếu tố tạo nên sự thay đổi trong thành 
phần hóa học của nước ngầm. Từ đó làm ảnh hưởng đến quá trình vận động của 
asen từ trầm tích ra nước ngầm. Dựa vào tuổi tương đối của trầm tích tầng chứa 
nước và nước ngầm có thể dự đoán được có dòng chảy nước ngầm trong tầng 
chứa nước đó hay không. Các loại đá và trầm tích của hầu hết các tầng chứa 
nước dùng làm nước ăn uống có tuổi khoảng vài trăm triệu năm và nước ngầm 
trong các tầng chứa nước đó chỉ khoảng vài nghìn năm tuổi. Điều này ngụ ý 
rằng rất nhiều thể tích nước ngọt đã chảy qua tầng chứa nước trong lịch sử của 
nó. Các tầng chứa nước ở các vùng châu thổ và phù sa được đặc trưng bởi trầm 
 24 
tích tương đối trẻ và nước ngầm tương đối già. Do đó mà tuổi tương đối của các 
loại đá, trầm tích và nước ngầm của tầng chứa nước là quan trọng và lịch sử 
dòng chảy nước ngầm cũng cần được xem xét đến khi nghiên cứu cơ chế giải 
phóng asen từ trầm tích ra nước ngầm [13, 43]. 
Như vậy có thể thấy có khá nhiều cơ chế được đưa ra bởi các nhà khoa học để 
giải thích con đường hình thành asen trong các tầng chứa nước. Tuy nhiên, các cơ 
chế này vẫn chưa thực sự phù hợp với tất cả các trường hợp tầng chứa nước bị ô 
nhiễm bởi asen trên thế giới. Có thể thấy rằng asen xuất hiện trong các tầng chứa 
nước thường phụ thuộc vào các điều kiện địa chất thủy văn của từng khu vực. Như 
vậy, việc tìm hiểu cơ chế giải phóng asen vào tầng chứa nước đặc biệt là quá trình 
giải phóng asen 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 01050003402_1_8165_2002699.pdf 01050003402_1_8165_2002699.pdf