Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Định nghĩa, tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ 3
1.2. Tình hình nhiễm khuẩn vết mổ trên Thế giới. 4
1.3. Tình hình nghiên cứu nhiễm khuẩn vết mổ ở Việt Nam 5
1.4. Tác nhân gây nhiễm khuẩn vết mổ 6
1.5. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 8
1.5.1. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 8
1.5.2. Phân loại đề kháng kháng sinh 11
1.5.3. Cơ chế đề kháng kháng sinh của vi khuẩn 12
1.6. Tình hình vi khuẩn kháng kháng sinh 13
1.6.1. Tình hình nghiên cứu tỷ lệ vi khuẩn sinh ESBL và mức độ đề kháng
kháng sinh 19
1.7. Phòng chống vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết mổ và kháng kháng sinh 25
43 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 739 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tình trạng kháng kháng sinh của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết mổ ở bệnh nhân điều trị tại bệnh viện trung ương quân đội 108, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u vàng (32,2%), tụ cầu da (14,8%)
P.aeruginosa (12%), E.coli (8,9%),Acinetobacter sp (5,8%), Klebsiaella (4,7%)
Enterococuus sp(2,3%), liên cầu A tan máu β (1,9%). Tỷ lệ nuôi cấy mủ dương
tính trong nghiên cứu này là 72%, đây là một kết quả tương đối cao [27].
1.5. Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
1.5.1. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
Trước sự tấn công của vi khuẩn, loài người cũng đã thành công trong
việc tìm ra vũ khí chống lại chúng. Antibiotic (tiếng Hy Lạp) cấu tạo từ "anti"
có nghĩa là "đối lại" và "biotic" có nghĩa là "sống, cuộc sống". Antibiotic có
thể được coi là những chất ngay ở nồng độ thấp đã có khả năng ức chế hoặc
tiêu diệt vi khuẩn một cách đặc hiệu bằng cách gây rối loạn phản ứng sinh học
ở tầm phân tử. Trong tự nhiên, nhiều loại kháng sinh do các loài vi khuẩn và
nấm tạo ra. Kháng sinh được phân loại theo các cách khác nhau như dựa vào
cấu tạo hóa học, dựa vào cơ chế tác động, dựa vào phổ tác dụng đối với vi
khuẩn... Nhờ sự ra đời của kháng sinh mỗi năm trên thế giới có hàng chục
triệu người mắc các bệnh nhiễm khuẩn đã được chữa khỏi và cứu sống.
Kháng sinh được coi như một vũ khí vĩ đại trong cuộc chiến của loài người
nhằm chống lại vi khuẩn và các nhiễm khuẩn do chúng gây ra.
9
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mặc dù dùng kháng sinh điều trị
nhưng tình trạng nhiễm khuẩn vẫn không được cải thiện, vi khuẩn vẫn tồn tại
và phát triển, người ta gọi đó là đề kháng kháng sinh. Có những trường hợp vi
khuẩn đề kháng nhưng đó là đề kháng giả (chỉ là biểu hiện bên ngoài chứ
không phải do bản chất của vi khuẩn). Ví dụ, khi vi khuẩn gây bệnh nằm
trong các ổ áp xe, ổ mủ... có các tổ chức hoại tử, tổ chức viêm bao bọc khiến
cho kháng sinh không thể thấm tới vị trí tổn thương được hoặc chỉ một lượng
nhỏ kháng sinh có thể tới vị trí đó. Trường hợp khác có thể gặp như khi vi
khuẩn ở trạng thái không phát triển, do vậy nó không chịu tác động của kháng
sinh... Nhiều loại vi khuẩn đề kháng tự nhiên với một số kháng sinh (tức là vi
khuẩn không chịu tác dụng của một số kháng sinh nào đó do có những tính
chất về mặt cấu trúc hay sinh lý đặc biệt khiến kháng sinh đó không thể phát
huy tác dụng với vi khuẩn). Một số trường hợp đề kháng tự nhiên. Nhiều loại
vi khuẩn có khả năng đề kháng kháng sinh thông qua các thay đổi về mặt di
truyền (đột biến, nhận được gen qui định sự đề kháng...) người ta gọi là đề
kháng thu được. Các gen kháng kháng sinh có thể lan truyền từ vi khuẩn này
sang vi khuẩn khác. Các gen kháng kháng sinh tạo cho vi khuẩn đề kháng
bằng nhiều cách: làm giảm tính thấm của tế bào vi khuẩn ngăn cản kháng sinh
thấm vào trong tế bào hay làm rối loạn hoặc ngăn cản việc vận chuyển kháng
sinh vào trong tế bào (với một số kháng sinh như tetracyclin, oxacillin...); làm
thay đổi đích tác động của kháng sinh làm cho kháng sinh không bám được
vào các cấu trúc của vi khuẩn và do vậy, kháng sinh không phát huy được tác
dụng (streptocmycin, erythromycin...); vi khuẩn tạo ra các enzym (các men)
làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc hóa học của kháng sinh, do vậy, kháng
sinh bị mất tác dụng (như enzyme β-lactamase làm mất tác dụng của kháng
sinh nhóm β-lactam...).
Sự đề kháng kháng sinh của vi khuẩn thường xuất hiện sau một thời gian
kháng sinh được đưa vào sử dụng. Trải qua hơn 70 năm, từ khi kháng sinh đầu
10
tiên được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng, vi khuẩn đã xuất hiện đề
kháng hết lớp kháng sinh này đến lớp kháng sinh khác và trong cuộc chạy đua
giữa việc tìm ra một kháng sinh mới với tốc độ gia tăng sự đề kháng kháng sinh
của vi khuẩn thì dường như lúc nào vi khuẩn cũng ở thế chủ động. Áp lực chọn
lọc tự nhiên và sự đấu tranh sinh tồn ở các loài vi khuẩn đã giúp chúng nảy sinh
nhiều khả năng chống lại tác dụng của kháng sinh. Một điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển các đột biến đó là do có một số lượng vi khuẩn vô cùng lớn tồn tại
trong tự nhiên trong khi thời gian mỗi thế hệ lại rất ngắn. Mặt khác, nhờ có các
plasmid và transposon mà vi khuẩn có thể truyền được các gen đề kháng từ vi
khuẩn này sang vi khuẩn khác, cùng loài hoặc khác loài.
Bảng 1.2. Sự phát triển đề kháng kháng sinh của vi khuẩn [15]
Kháng sinh Năm sử dụng Năm phát hiện đề kháng
Sulfonamid 1930 1940
Penicillin 1943 1946
Streptomycin 1943 1959
Chloramphenicol 1947 1959
Tetracyclin 1948 1953
Erythromycin 1952 1988
Vancomycin 1956 1988
Methicillin 1960 1961
Ampicillin 1961 1973
Cephalosporin 1960 Cuối những năm 1960
Tính kháng thuốc được phát triển rất nhanh ngay sau thời điểm một loại
kháng sinh mới được đưa vào sử dụng. Chỉ trong 3 năm, sau khi đưa
trimethoprim (TMP) và gentamicin (GEN) vào sử dụng, năm 1972 plasmid
kháng thuốc có chứa gen đề kháng các kháng sinh này đã được phát hiện.
Điều kỳ lạ là tại sao plasmid của vi khuẩn lại có chứa gen kháng thuốc, ví dụ
11
với TMP, một loại kháng sinh được tổng hợp nhân tạo, mà trong tự nhiên
chưa có bao giờ.
1.5.2. Phân loại đề kháng kháng sinh
Kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn, nhưng nếu trong môi
trường có thuốc kháng sinh ở nồng độ thông dụng mà vi khuẩn vẫn không bị
ức chế hoặc vẫn phát triển được, thì được coi là đề kháng. Quan điểm của các
nhà lâm sàng có hai loại đề kháng: đề kháng giả và đề kháng thật [15].
* Đề kháng giả: Có biểu hiện là đề kháng nhưng không phải là bản
chất, tức là không do nguồn gốc di truyền. Ví dụ: hiện tượng đề kháng của vi
khuẩn khi nằm trong các ổ áp xe nung mủ lớn hoặc có tổ chức hoại tử bao
bọc, kháng sinh không thấm tới được ổ viêm có vi khuẩn gây bệnh nên không
phát huy được tác dụng, tương tự là trường hợp có vật cản làm tuần hoàn ứ
trệ. Hoặc khi vi khuẩn ở trạng thái nghỉ (không nhân lên, không chuyển hoá)
thì không chịu tác dụng của những thuốc ức chế quá trình sinh tổng hợp chất,
ví dụ vi khuẩn lao nằm trong hang lao. Ngoài ra, khi hệ thống miễn dịch của
cơ thể bị suy giảm hay chức năng của đại thực bào bị hạn chế thì cơ thể không
đủ khả năng loại trừ được những vi khuẩn đã bị ức chế ra khỏi cơ thể; vì thế
khi không còn thuốc kháng sinh chúng hồi phục và phát triển lại.
* Đề kháng thật: Đề kháng thật được chia thành hai nhóm là đề kháng
tự nhiên và đề kháng thu được:
- Đề kháng tự nhiên: là do cấu trúc di truyền của một số vi khuẩn khi
sinh ra đã có khả năng không chịu sự tác động của một số kháng sinh nhất
định, ví dụ:Pseudomonas không chịu tác dụng của penicillin hoặc
Staphylococcus không chịu tác dụng của colistin. Các vi khuẩn không có vách
như Mycoplasma sẽ không chịu tác dụng của kháng sinh ức chế sinh tổng hợp
vách, ví dụ β-lactam.
- Đề kháng thu được: do một biến cố di truyền là đột biến hoặc nhận
được gen đề kháng làm cho một vi khuẩn đang từ không trở nên có gen đề
12
kháng. Các gen đề kháng nằm trên nhiễm sắc thể hoặc/và plasmid của vi
khuẩn hoặc/và trên transposon. Chúng có thể lan truyền được từ vi khuẩn nọ
sang vi khuẩn kia thông qua các hình thức vận chuyển di truyền khác nhau
như biến nạp, tải nạp, tiếp hợp và chuyển vị trí (transposition).
1.5.3. Cơ chế đề kháng kháng sinh của vi khuẩn
Có 4 cơ chế chính:
- Làm thay đổi đích tác động của vi khuẩn.
- Tạo ra các enzym (làm cho kháng sinh mất hoạt tính).
- Làm giảm tính thấm của màng nguyên sinh chất (ngăn cản kháng sinh
xâm nhập vào vi khuẩn), gọi là tính không thấm.
-Tạo ra các isoenzym (thay đổi đường chuyển hoá).
Hình 1.2. Sơ đồ bốn cơ chế chính của sự đề kháng kháng sinh ở vi khuẩn
Nguồn: Hawkey P.M. (1998) [43]
Tạo ra các isoenzym
Tạo ra các enzym
Ngăn cản sự xâm nhập
Thay đổi đích tác
động
Kháng sinh
Bơm đẩy (Efflux)
13
Một vi khuẩn kháng kháng sinh thường do phối hợp các cơ chế riêng rẽ
kể trên, ví dụ vi khuẩn Gram (-) kháng -lactam là do -lactamase cộng với
giảm khả năng gắn PBP (Protein binding penicillin - Protein gắn penicillin) và
giảm tính thấm của màng nguyên sinh chất.
Sự đề kháng ngay trong một họ kháng sinh có thể do những cơ chế khác
nhau, do những quyết định (determinants) di truyền khác nhau. Những -
lactamase là điển hình về sự đa dạng di truyền và chức năng.Sự đề kháng với -
lactam có thể là do sinh enzym gây bất hoạt kháng sinh (tiết -lactamase), sự
thay đổi đích tác động (thay đổi PBP), hay tính không thấm [47].
1.6. Tình hình vi khuẩn kháng kháng sinh
Khoảng một thập kỷ trở lại đây vấn đề kháng thuốc kháng sinh của vi
khuẩn đã được thông báo nhiều và dày đặc hơn trên các tạp chí chuyên ngành
vi sinh, truyền nhiễm. Khác với trước đó, đa phần các bác sỹ rất coi nhẹ đến
cụm từ “Vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh” bởi vì lúc đó các kháng sinh được
kê theo kinh nghiệm có vẻ vẫn có tác dụng tốt trên hầu hết các chủng vi
khuẩn gây bệnh. Thực trạng kháng kháng sinh đã mang tính toàn cầu, đặc biệt
là ở các nước đang phát triển với các bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao
trong cơ cấu bệnh tật như: Nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, đường hô hấp, các
bệnh lây truyền qua đường tình dục và nhiễm khuẩn bệnh viện đang là
gánh nặng thực sự vì sự gia tăng chi phi do phải bắt buộc thay thế các kháng
sinh cũ bằng các kháng sinh mới đắt tiền. Việc kiểm soát các loại bệnh này đã
và đang chịu sự tác động bất lợi của sự phát triển và lan truyền tình trạng
kháng kháng sinh của vi khuẩn. Xu hướng kháng lại các thuốc kháng sinh
thường dùng, làm cho thuốc đó không còn tác dụng trên lâm sàng, không còn
tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Khi đó thuốc kháng sinh đang dùng điều
trị cho người bệnh không tiêu diệt được vi khuẩn gây bệnh. Việc kháng thuốc
kháng sinh là một mối hiểm hoạ to lớn bởi lẽ vi khuẩn gây bệnh sẽ thoải mái
14
lộng hành, phát triển mà không còn sợ hãi trước các vũ khí của con người.
Những vi khuẩn kháng thuốc sẽ nhân lên nhanh chóng, lây lan, gây bệnh
trước sự bất lực của các bác sỹ.
Methicillin được coi là kháng sinh hàng đầu được dùng cho điều trị các
nhiễm trùng do S. aureus kháng penicillin. Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu
của thập niên 60, S. aureus kháng methicillin đã được ghi nhận, và tình trạng
đề kháng này bắt đầu ngày càng nặng nề từ giữa thập niên 80. Vancomycin là
kháng sinh chọn lựa hàng đầu để điều trị S.aureus kháng methicillin (MRSA),
nhưng việc chỉ và sử dụng rộng rãi vancomycin có thể sẽ làm xuất hiện vi
khuẩn kháng vancomycin do sự gia tăng áp lực chọn lọc đề kháng. Cho đến
nay tại Hoa Kỳ đã có 3 trường hợp S.aureus kháng vancomycin (Vancomycin
Resistant S.aureus: VRSA) và 24 trường hợp rải rác trên thế giới xuất hiện S.
aureus giảm nhạy cảm với vancomycin (Vancomycin Intermediate S. aureus:
VISA)[68].
Kết quả điều trị các bệnh nhiễm khuẩn do S.aureus kháng methicillin
(MRSA) là khó khăn hơn nhiều so với những kết quả từ các chủng
methicillin-nhạy cảm. Sự khác biệt là ở chỗ bệnh nhân nhiễm MRSA thường
nặng hơn so với những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn khác. Báo cáo đầu tiên
trong một bệnh viện Anh, tụ cầu vàng kháng MRSA nhanh chóng lây lan
sang các nước khác và chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng lên của nhiễm khuẩn
bệnh viện. Cũng giống như các chủng kháng penicillin, MRSA được phân
lập cũng thường xuyên tạo lên các gen kháng với các kháng sinh khác. Sự lan
truyền của các dòng kháng methicillin gợi nhớ đến sự xuất hiện của vi khuẩn
kháng penicillin trong năm 1940. Kháng methicillin hiện nay ngày càng được
công nhận trong cộng đồng và một điều đáng lo ngại là tỷ lệ tử vong ngày
càng cao.
15
Fluoroquinolones ban đầu đã được giới thiệu để điều trị các bệnh
nhiễm trùng do vi khuẩn Gram (-), trong những năm 1980. Tuy nhiên, do phổ
vi khuẩn Gram (+), nó cũng đã được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn do phế
cầu và tụ cầu. Kháng quinolone trong S.aureus xuất hiện một cách nhanh
chóng, nổi bật hơn trong số các chủng kháng methicillin. Kết quả là, khả năng
sử dụng fluoroquinolones để điều trị Staphylococcusđã giảm đáng kể.
Vancomycin được sử dụng như một lựa chọn thay thếtrong điều trị
nhiễm khuẩn những chủng tụ cầu kháng methicillin. Kháng vancomycin lần
đầu tiên được báo cáo là một chủng thuộc loài Staphylococcus
haemolyticus.Năm 1997, báo cáo đầu tiên S.aureus kháng vancomycin
(VISA) đến từ Nhật Bản sau đó đã được báo cáo từ các nước khác với nhiều
trường hợp khác[40].
Theo báo cáo của Trung tâm Phòng chống Bệnh tật Châu Âu (ECDC),
hằng năm ở Châu Âu có trên 25.000 bệnh nhân chết vì nhiễm phải vi khuẩn
đa kháng thuốc. Các vi khuẩn kháng thuốc như MRSA, vi khuẩn tiết ESBL
tăng lên rõ rệt hằng năm. Cũng theo ECDC, vi khuẩn tiết ESBL đã tăng 6 lần
trong vòng 4 năm từ 2005 đến 2009.
Các vi khuẩn gây bệnh thường gặp trong bệnh viện ở Việt Nam theo báo
cáo của ASTS (Chương trình theo dõi kháng kháng sinh) của nước ta năm 2006
bao gồm các vi khuẩn: E.coli, trực khuẩn mủ xanh, Klebsiella, A.baumannii, tụ
cầu vàng Cho tới nay, sau gần 10 năm cơ cấu vi khuẩn trên vẫn không thay
đổi. Tuy nhiên, tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Bạch mai, Bệnh viện Chợ
Rẫy, Bệnh viện TWQĐ 108, Bệnh viện TW Huế các vi khuẩn nêu trên đã có
tỷ lệ kháng rất cao với các kháng sinh thường dùng, cụ thể là với E.coli các
kháng sinh hay sử dụng để điều trị là gentamicin và cefotaxim đã bị kháng lần
lượt là 51% và 50,3%. Tụ cầu vàng kháng methiciline là 41,7%, đây chính là
các chủng MRSA [11]. Đặc biệt với A.baumannii, một căn nguyên nhiễm trùng
16
bệnh viện hàng đầu hiện nay thì tỷ lệ kháng kháng sinh đã ở mức báo động đỏ
cụ thể là với hơn 3.000 chủng A. baumannii phân lập được tại 7 bệnh viện lớn,
đại diện cho 3 miền Bắc, Trung, Nam trong năm 2012-2013. Kết quả cho thấy
vi khuẩn này đã có tỷ lệ kháng cao với hầu hết các kháng sinh thông thường
dùng trong bệnh viện (tỷ lệ kháng trên 70% ở 13 trên tổng số 15 loại kháng
sinh được thử nghiệm). Trong đó tỷ lệ kháng với nhóm carbapenem với 2 đại
diện imipenem và meropenem lần lượt là: 76,5% và 81,3%. Nhóm
cephalosporin kháng trên 80%, trong đó kháng 83,9% với cefepim, 86,7% với
ceftazidin, 88% với cefotaxim, 93,1% với ceftriaxone [14].
Một nghiên cứu của Phạm Hùng Vân và cộng sự tại 7 phòng thí nghiệm
vi sinh của 7 bệnh viện tham gia nghiên cứu: Bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng,
Bệnh viện Đa Khoa Cần Thơ, Bệnh viện An Bình, Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Bệnh viện Nhi Đồng 1, và Bệnh viện
Chấn thương chỉnh hình Trần Hưng Đạo cho thấy:trên 235 chủng S.aureus
phân lập được, trong đó có 110 chủng kháng methicillin (MRSA) và 125 chủng
nhạy methicillin (MSSA). Như vậy tỷ lệ MRSA trong các chủng vi khuẩn
S.aureusnghiên cứu là 47%[24].
Các vi khuẩn gây bệnh cơ hội hiện đang được biết đến như
P.aeruginosa đã được biết tới trong suốt lịch sử của nó dựa trên màu xanh lá
cây. Sédillot năm 1850 là người đầu tiên quan sát thấy sự đổi màu của băng
vết thương phẫu thuật. Các sắc tốtạo màu xanh được chiết xuất bởi Fordos
vào năm 1860 và vào năm 1862 Lucke là người đầu tiên biết được sắc tố này
do các sinh vật hình que tạo ra. P.aeruginosa đã không được phân lập thành
công cho tới năm 1882, khi Carle Gessard báo cáo trong một ấn phẩm mang
tên "On the Blue and Green - Màu sắc của Băng" sự phát triển của sinh vật từ
các vết thương ở da của hai bệnh nhân có mủ màu xanh lá cây. Trong một số
báo cáo bổ sung giữa năm 1889 và 1894, P.aeruginosa (Bacillus pyocyaneus)
17
được mô tả như là tác nhân gây tình trạng có mủ màu xanh lá cây trong vết
thương của bệnh nhân. Một nghiên cứu của Freemannăm 1916 đã cho thấy rõ
hơn về các đường lây nhiễm phổ biến của P.aeruginosa dẫn đến nhiễm trùng
cấp tính hoặc mãn tính.
P.aeruginosa là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây
nhiễmkhuẩn bệnh viện.Chúng gây nên những bệnh lý với nhiều mức độ khác
nhau như viêm phổi, nhiễm khuẩn vết thương, nhiễm khuẩn huyết nặng với tỷ
lệ tử vong khá cao. Ở Mỹ, theo báo cáo của hệ thống giám sát nhiễm khuẩn
bệnh viện quốc gia, P.aeruginosađứng thứ hai trong số tất cả các tác nhân gây
nhiễm trùng bệnh viện liên quan đến bệnhviêm phổi. Tỷ lệ P.aeruginosa gây
nhiễm khuẩn bệnh viện đã tăng dần trong những năm gần đây trên thế giới và
cả Việt Nam. Cùng với sự gia tăng về tỷ lệ nhiễm khuẩn là sự gia tăng về khả
năng kháng kháng sinh, đặc biệt là kháng với carbapenem. Theo báo cáo mới
nhất của CDC ước tính ở Hoa Kỳ, hơn hai triệu người bị bệnh mỗi năm, trong
đó có ít nhất 23.000 người chết do vi khuẩn kháng kháng sinh và có khoảng
51.000 ca nhiễm bệnh liên quan đến P.aeruginosa. Trong đó có hơn 6.000
(13%) là đa kháng thuốc, với khoảng 400 ca tử vong do nhiễm trùng [29].
Theo một kết quả nghiên cứu tại Vương quốc Anhcủa Pitt TL (2003),
50% số chủng P. aeruginosa kháng gentamicin, 39% kháng ceftazidime, 32%
khángpiperacillin và 30% kháng ciprofloxacin [64].
P.aeruginosa là một vi khuẩn có mặt ở khắp mọi nơi, trong nhiều môi
trường khác nhau, có thể được phân lập từ các nguồn sống khác nhau, bao
gồm cả thực vật, động vật và con người.Khả năng của P.aeruginosa tồn tại
trên nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và chịu đựng một loạt các điều kiện vật lý
đã cho phép sinh vật này tồn tại trong cả hai môi trường cộng đồng và bệnh
viện. Trong bệnh viện, P.aeruginosa có thể được phân lập từ các thiết bị hô
hấp trị liệu, thuốc sát trùng, xà phòng, chậu rửa, giẻ lau sàn, thuốc men, và vật
18
lý trị liệu và các hồ thủy liệu pháp... nơi mà vi khuẩn này phát triển trên cả bể
bơi, bồn tắm, đất, rau quả
P.aeruginosacó tỷ lệ đề kháng cao nhấtđối với các fluoroquinolones, tỷ
lệ đề kháng với ciprofloxacin và levofloxacin từ 20 đến 35%.Tỷ lệ cao nhất
được báo cáo cho các chủng phân lập được từ những bệnh nhân điều trị trong
ICU.P.aeruginosa phân lập từ bệnh nhân ICU cũng có xu hướng tỷ lệ kháng
β-lactamcao hơn đối với các bệnh nhân mới nhập viện.Trong số các
aminoglycosid, hầu hết các nghiên cứu đã tập trung vào gentamicin, với tỷ lệ
kháng từ 12 đến 22%.Tỷ lệ kháng thấp hơn đối với tobramycin và amikacin
trong hầu hết các nghiên cứu[62].
Nghiên cứu từ năm 2001 đến 2006 củaBrooklyn N.Y cho thấy, tỷ lệ
không nhạy cảmcủaP.aeruginosa phân lập được dao động trong khoảng 27-
29% đối với cefepime, 30-31% đối với imipenem, 23% đối với meropenem
và 41-44% cho ciprofloxacin.
Không chỉ là tỷ lệ kháng thuốc cá nhân hoặc nhóm thuốc một mối quan
tâm, nhưng sự phổ biến của các chủng đa kháng thuốc (kháng với ba hoặc
nhiều nhóm thuốc) là một thách thức nghiêm trọng hơn điều trị. Một giám sát
quốc gia của 13.999 chủng P.aeruginosa phân lập từ bệnh nhân ICU cho thấy
kháng đa thuốc tăng đáng kể, từ 4% năm 1993 lên 14% vào năm 2002. Để so
sánh, một nghiên cứu giám sát ICU đánh giá trên 37.000 chủng P.aeruginosa
phân lập 1997-2002 và báo cáo tỷ lệ nhiễm của các chủng đa kháng từ 13%
đến 21%. Báo cáo của Flamm và cộng sự đánh giá tỷ lệ đa kháng của
P. aeruginosalà khác nhau, 23-26% trong số 52.000 chủng thuộc loài
P.aeruginosaphân lập tại Hoa Kỳ từ 1999 đến 2002. Tỷ lệ cao nhất của các
chủng đa kháng thuốc đã được quan sát giữa các phân lập từ bệnh nhiễm
trùng đường hô hấp dưới, trong khi đó tỷ lệ thấp nhất được quan sát giữa các
phân lập từ bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên[67].
19
Các tác giả Hoàng Doãn Cảnh, Vũ Lê Ngọc Lan và cộng sự đã tiến hành
khảo sát tỷ lệ kháng kháng sinh và xác định khả năng sản xuất carbapenemase
từ 28 chủng P.aeruginosa phân lập được từ các mẫu bệnh phẩm tạiViện
Pasteur TP Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy có48,2% bệnh
nhânnhiễmP.aeruginosalà những bệnh nhân lớn tuổi, chủ yếu từ 50 tuổi trở
lên.
P.aeruginosa kháng lại tất cả các loại kháng sinh với tỷ lệ khá cao (trên
40%),đặc biệt một tỷ lệ kháng khá cao với IPM (46,2%). Chỉ một tỷ lệ nhỏ
kháng lại CS(10,7%) và 17,9% số chủng P.aeruginosa có khả năng sản xuất
carbapenemase kháng lại cáckháng sinh thuộc nhóm carbapenem[2].
Thuốc kháng sinh được coi là một giải pháp cho loài người trong điều trị
các bệnh do nhiễm vi khuẩn. Nhờ có thuốc kháng sinh mà chúng ta có thể
kiểm soát được nhiều dịch bệnh. Tuy nhiên, hiện nay con người đang sử dụng
kháng sinh chưa thật hợp lý, chính điều này đang dẫn nhanh tới tình trạng
kháng thuốc của vi khuẩn.
1.6.1. Tình hình nghiên cứu tỷ lệ vi khuẩn sinh ESBL và mức độ đề
kháng kháng sinh
1.6.1.1. Tình hình nhiễm vi khuẩn sinh ESBL trên thế giới
ESBL là một vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Hiện tượng ESBL
bắt đầu xuất hiện ở Tây Âu nơi các kháng sinh β-lactam phổ rộng được sử
dụng đầu tiên trên lâm sàng. Sau đó không lâu ESBL đã được phát hiện ở Mỹ
và Châu Á.
Vi khuẩn sinh ESBL lần đầu tiên phát hiện ở Châu Âu vào năm 1983 ở
Đức và Anh [50, 54]. Vụ dịch lớn đầu tiên xảy ra ở Pháp vào năm 1986 trên
54 bệnh nhân tại 3 khoa Hồi sức cấp cứu và lây truyền sang khoa khác [60].
Vào những năm 1990, 25 - 35% trường hợp nhiễm trùng bệnh viện do
K. pneumoniae phân lập tại Pháp có sinh ESBL. Tại miền Bắc nước Pháp, tỷ lệ
K.pneumoniae có sinh ESBL giảm từ 19,7% vào năm 1996 xuống còn 7,9%
20
vào năm 2000. Cũng vào năm 2000 có 30,2% Enterobacter aerogenes được
phân lập có sinh ESBL.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ lệ vi khuẩn K.pneumoniae được
phân lập có sinh ESBL có thể thấp hơn một số vùng thuộc Tây Âu, nhưng lại
tăng ở Đông Âu. Có những thay đổi về địa lý trong sự xuất hiện của ESBL tại
các nước thuộc Châu Âu. Trong một quốc gia, sự xuất hiện cũng thay đổi từ
bệnh viện này sang bệnh viện khác [60]. Theo một nghiên cứu được tiến hành
ở 24 đơn vị săn sóc đặc biệt ở phía vùng Tây và Bắc Âu cho thấy, trong tổng
số 433 chủng vi khuẩn phân lập được, có 25% chủng Klebsiella sppcó mang
ESBL [30]. Một nghiên cứu khác, thực hiện ở hơn 100 đơn vị chăm sóc đặc
biệt tìm thấy tỷ lệ hiện mắc của Klebsiella spp. có mang ESBL thay đổi từ 3%
(Thụy Điển) đến 34% (Bồ Đào Nha). Còn ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong 193 chủng
Klebsiella spp phân lập được, tỷ lệ vi khuẩn sinh ESBL là 58% [60].
Ở Hà Lan, một nghiên cứu thực hiện tại 11 phòng thí nghiệm cho thấy tỷ
lệ chủngE.colivà K. pneumoniaecó ESBL thấp hơn 1% [54].
Ở Mỹ, theo NNISS (National Nosocomial Infections Surveillance
System), so sánh năm 2003 với giai đoạn 1998 - 2002 cho thấy tỷ lệ kháng
thuốc của P.aeruginosa tăng 9% với quinolon, tăng 20% với các
cephalosporin thế hệ 3 và tăng 15% với imipenem; tỷ lệ kháng thuốc của
K.pneumoniae tăng 47% với các cephalosporin thế hệ 3 [57]. Theo một
nghiên cứu tại một đơn vị chăm sóc đặc biệt ở Bắc Mỹ, tỷ lệ K.pneumoniae
giảm nhạy cảm với cephalosporin thế hệ 3 khoảng 13%. Năm 1989, chủng
K.pneumoniae sinh TEM-10 phát hiện được ở Mỹ, sau đó xuất hiện các chủng
sinh TEM-12, TEM-26, SHV. Mới đây CTX-M cũng gặp ở Mỹ, Canada .
Còn tại các nước khu vực Mỹ Latin, 45% K.pneumoniae và 8,5%
E.coli sinh ESBL [30, 54].
Ở các Bệnh viện của Nam Phi, năm 1998-1999 có 36,1% chủng
21
K. pneumoniae sinh ESBL. ESBL xuất hiện ở Nam Phi chủ yếu là loại TEM
và SHV, còn nhiễm trùng bệnh viện do P.aeruginosabiểu lộ GES-2 [45].
Ở Australia khoảng 5% K.pneumoniae có sản xuất ESBL phân lập được
ở các bệnh viện.
Tại Châu Á, cũng có sự thay đổi về tỷ lệ K.pneumoniae vàE.coli có sản
xuất ESBL giữa các nước. Cụ thể là 4,8% ở Hàn Quốc, đến 8,5% ở Đài Loan,
12% ở Hồng Kôngvà 23,3% ở Indonesia [35,58].
Tại Trung Quốc, năm 1988 phân lập được K.pneumoniae sinh SHV-2,
đến năm 1994 các vi khuẩn khác sinh SH-2 cũng đã được báo cáo. Năm
1997-1998 tại Bệnh viện Bắc Kinh, trong số các mẫu cấy máu phân lập được
có 27%E.coli và K.pneumoniaesinh ESBL.
Nghiên cứu quốc tế của Girlich D và cộng sự năm 2005 cho thấy,có
khoảng 5-8% E.coli sinh ESBL ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Singapore. Tỷ
lệ 12-24% E.coli sinh ESBL ở Thái Lan, Đài Loan, Philippine, Indonesia. Tại
Nhật Bản, K.pneumoniae sinh ESBL chiếm tỷ lệ 5%, còn tỷ lệ chung của Châu
Á thay đổi từ20-50% tùy theo hoàn cảnh mỗi nước[41, 60]. Theo kết quả nghiên
cứu MYSTIC về vấn đề sử dụng kháng sinh ở Ấn Độ năm 2000 - 2001, có gần
60% trực khuẩn Gram (-) sinh ESBL [48].
Theo chương trình giám sát xu hướng đề kháng kháng sinh trên toàn thế
giới (SMART) năm 2003, tình hình vi khuẩn tiết ESBL có tỷ lệ phân bố theo
khu vực như sau: K.pneumoniae ở Châu Á - Thái Bình dương (18%),
Châu Âu (11%), Trung Đông (20%), Mỹ (7%). E. coli tiết ESBL ở vùng Châu
Á - Thái Bình dương (17%), Châu Âu (5%), Trung Đông (13%), Châu Mỹ
Latin (10%) và Mỹ (3%) [25], [26], [59].
Nghiên cứu SMART từ năm 2002 đến năm 2006 đã cho thấy E.coli và
K.pneumoniae phân lập từ các nhiễm khuẩn ổ bụng vùng Châu Á - Thái Bình
dương có tỷ lệ sinh ESBL ngày càng gia tăng [35].
22
Hình 1.3. Tỷ lệ sinh ESBL theo SMART 2002 - 2006
Nguồn: Chen WY, Jang TN, Huang CH, Hsueh PR (2009)[35].
1.6.1.2. Tình hình nhiễm ESBL tại Việt Nam
Tại Việt Nam theo số liệu của chương trình quốc gia giám sát độ nhạy
cảm với kháng sinh (Antibiotic Susceptibility Testing Surveillance - ASTS),
cùng Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai (2005) và dữ liệu từ các bệnh
viện nhiều nơi gửi về. Báo cáo tại Hội thảo khoa học lần thứ I GARP-Việt
Nam cũng nêu rõ: qua chương trì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01050003278_8985_2006237.pdf