MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN .7
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người
tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân . 7
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án
nhân dân. 7
1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân . 9
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng
hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân . 11
1.2. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng hình trong cơ
quan Tòa án nhân dân . 19
1.2.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. 19
1.2.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án . 20
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng
các vụ án hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân từ năm 1945
đến nay. 23
1.3.1. Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân trong giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 . 24
1.3.2. Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân theo quy
định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và năm 2003. 26
1.4. Người tiến hành tố tụng hình sự trong luật tố tụng hình sự một
số nước trên thế giới. 28
Kết luận chương 1 . 39
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN
DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK LẮK . 40
2.1. Những quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng trong cơ
quan Toà án nhân dân . 40
2.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. 442
2.2.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. 44
2.2.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm. 49
2.3. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
những người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án
nhân dân trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. 56
2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 59
2.4.1. Tình hình tổ chức, cán bộ ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 59
2.4.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng trong xét xử vụ án hình sự trong cơ quan
Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk . 63
2.4.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân trên
địa bàn tỉnh Đăk Lăk . 69
2.4.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến
hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án. 76
Kết luận chương 2 . 81
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN
NHÂN DÂN. 82
3.1. Những yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao chất lượng xét
xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Toà án nhân dân. 82
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình
sự của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án
nhân dân. 90
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự của những người tiến hành tố
tụng hình sự trong cơ quan Tòa án trong Bộ luật tố tụng hình sự. 90
3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự
của những người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân. 97
Kết luận chương 3 . 100
KẾT LUẬN . 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 103
26 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Người tiến hành tố tụng trong cơ quan tòa án nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trước Tòa án
Nguyên tắc này ghi nhận những người tham gia tố tụng được pháp luật
bảo đảm quyền bình đẳng với nhau và với Kiểm sát viên trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án nhằm
chứng minh cho quan điểm, ý kiến của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Thứ tư, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc này khẳng định chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội một con
người đó bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, không một người nào bị coi là có tội. Chỉ
có người đã bị Tòa án tuyên bố phạm tội mới bị áp dụng hình phạt và việc áp
dụng hình phạt phải do Tòa án thực hiện
Thứ năm, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
BLTTHS quy định các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi biện
pháp pháp luật quy định để tìm ra sự thật khách quan của vụ án một cách khách
quan, toàn diện, đầy đủ. Nguyên tắc này còn quy định trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Hiện nay trong
các nhà nghiên cứu pháp lý có ý kiến nên bỏ quy định trách nhiệm chứng minh
tội phạm của Tòa án trong BLTTHS.
Thứ sáu, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
hoặc người tham gia tố tụng
9
Nguyên tắc này đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải đảm bảo vô tư
khi làm nhiệm vụ. Nếu HĐXX không vô tư, khách quan có thể sự thật của vụ
án sẽ không được rõ ràng, việc áp dụng pháp luật sẽ không chính xác, ảnh
hưởng tới uy tín của nhà nước, sự nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân.
Ngoài các nguyên tắc trên HĐXX cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc
khác của BLTTHS.
1.2. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng hình trong cơ
quan Tòa án nhân dân
1.2.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
Chánh án là người tổ chức công tác xét xử của Tòa án, quyết định phân
công Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự, quyết định việc thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa. Khi Chánh án vắng mặt một
Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh
án. Mối quan hệ này mang tính đan xen giữa hành chính và tố tụng. Trong hoạt
động tố tụng, không có quy định nào buộc Thẩm phán hay Hội thẩm phải chịu sự
chỉ đạo của Chánh án hay Phó Chánh án khi xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế tại không ít
các Tòa án trước khi xét xử hoặc sau phần tranh luận, trước khi nghị án, Thẩm
phán phải báo cáo nội dung vụ án với Chánh án hoặc Ủy ban thẩm phán để xin
đường lối giải quyết vụ án, thậm chí là duyệt trước mức án. Việc làm này ảnh
hưởng đến tính độc lập của HĐXX.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký
Tòa án
Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Tòa án
được quy định khá rõ tại Điều 39, 40, 41 của BLTTHS và cũng có những quyền
hạn, trách nhiệm riêng của mình có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xét xử
vụ án hình sự.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa cũng có những quyền hạn, trách nhiệm riêng của mình có ảnh hưởng không
nhỏ đến việc giải quyết vụ án hình sự. Thẩm phán được phân công làm chủ tọa
phiên tòa có quyền ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định này là căn cứ
xác lập vị trí pháp lý của những người tiến hành tố tụng. Trên cơ sở đó, Thẩm
phán, Hội thẩm mới có những quyền hạn, trách nhiệm mà pháp luật quy định cho
các thành viên HĐXX. Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là thành viên
của HĐXX, phần lớn hoạt động của chủ tọa phiên tòa là thay mặt HĐXX thực
hiện các quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX. Chủ tọa phiên tòa thực hiện tốt các
hoạt động này cũng là HĐXX thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình.
Thư ký Tòa án là người làm thư ký tại phiên tòa. Tại phiên tòa Thư ký Tòa
án có trách nhiệm ghi biên bản phiên tòa, thực hiện các yêu cầu của HĐXX. Hoạt
động của Thư ký Tòa án góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án trong việc
thực hiện kế hoạch xét xử và ra bản án có căn cứ. Thư ký Tòa án cũng có sự độc
10
lập nhất định đối với HĐXX. Họ phải ghi biên bản phiên tòa trung thực, chính
xác, không thể phản ánh sai diễn biến phiên tòa để "hợp pháp hóa" chứng cứ hay
làm sai lệch nội dung vụ án. Tuy nhiên, hiện nay việc bố trí vị trí ngồi cho Thư ký
Tòa án tại các phiên tòa cũng chưa hợp lý dễ gây hiểu lầm Thư ký Tòa án cũng là
thành viên của HĐXX, cần phải nghiên cứu để bố trí lại vị trí ngồi của Thư ký Tòa
án cho phù hợp, qua đó cũng thể hiện rõ vị trí trung tâm của HĐXX.
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng
các vụ án hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân từ năm 1945 đến nay
Ra đời chính thức vào ngày 13/9/1946, hệ thống Toà án của nước ta đã
lần lượt trải qua những cải cách về tổ chức và hoạt động: theo quy định của
Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 1960, Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
1981, Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), các luật tổ
chức Toà án nhân dân năm 1992 và năm 2002. Trong quá trình xây dựng hệ
thống Tòa án, các quy định liên quan tới thẩm quyền, chức năng và nhiệm vụ
của những người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án cũng có nhiều thay đổi
qua thời gian. Trọng tâm của những thay đổi này nằm ở chức danh Thẩm phán
và các Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
1.3.1. Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án nhân dân trong
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Giai đoạn này chưa có BLTTHS nhưng các văn bản thời bấy giờ như các
văn bản: Sắc lệnh 33/C ngày 13/9/1945 của Chủ tịch nước thiết lập các Tòa án
quân sự; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch nước về tổ chức các
ngạch Thẩm phán; Hiến pháp năm 1946; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 của
Chủ tịch nước về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Hiến pháp năm 1959;
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960; Thông tư số 2421-TC ngày
29/12/1961 và Thông tư số 16-TATC ngày 29/7/1974 của TANDTC đều có
những nội dung ghi nhận việc xét xử phải được thực hiện bằng một tập thể.
Trong đó có những văn bản xác định HĐXX có nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề
về nội dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. HĐXX quyết định theo
đa số, trên nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm ngang quyền nhau.
1.3.2. Người tiến hành tố tụng theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988 và năm 2003
Hiến pháp năm 1980 và BLTTHS năm 1988 đều ghi nhận các nguyên tắc:
Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, khi xét xử Hội thẩm
nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. BLTTHS năm 2003 trên cơ sở kế thừa BLTTHS
năm 1988, đồng thời cũng có một số thay đổi, xác định rõ chức năng nhiệm vụ
của những người tiến hành tố tụng, quy định chặt chẽ, cụ thể hơn về quyền hạn,
trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Sửa đổi các trình tự, thủ tục tố
tụng cụ thể, rõ ràng, có tính khả thi hơn, đề cao tính tranh tụng hơn. Về thành
11
phần HĐXX và các nguyên tắc hoạt động của HĐXX cơ bản được giữ nguyên
theo quy định của BLTTHS năm 1988.
1.4. Người tiến hành tố tụng trong luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới
Thủ tục tố tụng của các nước trên thế giới hiện nay phân chia thành hai hệ
thống chủ yếu đó là: Hệ thống tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là hệ thống tố tụng
xét hỏi) và hệ thống tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên có quan điểm cho rằng có ba
hệ thống ngoài hai hệ thống trên còn có hệ thống tranh tụng pha trộn.
Mô hình tố tụng tranh tụng chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ
thống pháp luật án lệ, là một trong các mô hình tố tụng hình sự phổ biến hiện
nay trên thế giới; bảo đảm sự bình đẳng tuyệt đối giữa bên buộc tội và bên bào
chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật vụ án. Thể hiện tính công bằng cao, thể
hiện qua vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Mô hình tranh tụng
thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân. Vai trò của
luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Mô hình tố tụng thẩm vấn được phổ biến rộng rãi nhất trong thời đại chế
độ chuyên chế. Với bản chất không đặt nặng hình thức như tố tụng tranh tụng,
tố tụng thẩm vấn coi sự thật sau cùng của vụ án là mục đích được mong chờ, do
đó, những sai phạm không đáng kể trong thủ tục có thể được bỏ qua nếu mục
đích chứng minh tội phạm vẫn được giải quyết.
Ngoài hai mô hình tố tụng nêu trên còn tồn tại mô hình tố tụng pha trộn.
Mô hình tố tụng pha trộn là mô hình tố tụng có sự đan xen, kết hợp của cả hai
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nêu trên.
Mỗi mô hình tố tụng hình sự đều có những ưu thế và những hạn chế của nó.
Cho đến nay, các quốc gia đều có sự thay đổi hệ thống tố tụng của mình cho phù
hợp với sự phát triển xã hội. Tìm mọi cách phát huy những điểm mạnh, hạn chế
những nhược điểm trong mô hình tố tụng mà mình đã lựa chọn.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
HÌNH SỰ TRONG CƠ QUAN TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Những quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng trong cơ
quan Toà án nhân dân
Ngày 24-11-2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Đây là
một trong những đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội
thông qua theo tinh thần Hiến pháp mới. Điều 3 Luật Tổ chức Toà án nhân dân
năm 2014 quy định theo hướng chuyên môn hoá nhưng linh hoạt, tránh cồng
12
kềnh, gây tốn kém, lãng phí. Thẩm phán được Nhà nước trao cho nhiều quyền hạn
và trách nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ của mình Thẩm phán có thể có nhiều quyết định hoặc hành động có liên quan
đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và công dân. Do vậy Nhà
nước quy định tiêu chuẩn của một Thẩm phán rất chặt chẽ theo khoản 1 Điều 67
Luật Tổ chức TAND năm 2014. Về nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng được kéo dài
hơn theo định hướng đã được xác định trong các văn kiện của Đảng; cụ thể:
“Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc
được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.”
Bên cạnh các nội dung nêu trên, Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định
chỉ thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo
đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm
làm Thẩm phán; quy định thành lập Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp,
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp để tổ chức các kỳ thi tuyển chọn
Thẩm phán, kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán.
Các quy định về Hội thẩm cũng có những bổ sung quan trọng nhằm khắc
phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm
Tòa án nhân dân; bảo đảm việc tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử là
phương thức để nhân dân thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, thực hiện quyền
giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử. Theo đó, khoản 1 Điều Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 không quy định việc Tòa án quản lý Hội thẩm
mà Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm hoạt động
theo quy chế do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành.
Ngoài các nội dung nêu trên, trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 còn có các quy định cụ thể về các chức danh Thư ký Tòa án, Thẩm tra
viên; quy định về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân và hiệu lực thi hành
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Tại khoản 1 Điều 92 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014.
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng đã quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của những người tiến hành tố tụng
nói chung và trong cơ quan Tòa án rất chi tiết tại Điều 38, 39, 40, 41 Bộ luật tố
tụng hình sự.
2.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm
2.2.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Tòa án xét xử theo hai cấp,
đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. BLTTHS đã dành Chương
XVII gồm có 8 điều (từ Điều 176 đến Điều 183) quy định về giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm.
13
Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết hồ sơ vụ án làm Chủ tọa
phiên tòa, có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ và tiến hành chuẩn
bị xét xử. Trong giai đoạn này Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để đảm
bảo mọi quyết định của mình có căn cứ, hợp pháp và phù hợp với quy luật khách
quan. Trong đó thẩm phán được phân công nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, đánh giá
toàn bộ các tài liệu đã được cơ quan điều tra, VKS thu thập. Đồng thời cũng
trong giai đoạn này đã có sự hiện diện của bên bào chữa: bị cáo, luật sư, người
bào chữa khác. Ở giai đoạn này, mặc dù chưa chính thức có sự đấu tranh công
khai của các bên đối lập, HĐXX chưa được thành lập nhưng giai đoạn này vẫn
có sự hiện diện và thực hiện chức năng của bên buộc tội, bào chữa. Nghiên cứu
hồ sơ là bước rất quan trọng đối với xét xử theo trình tự sơ thẩm, Thẩm phán
phải nghiên cứu toàn bộ, toàn diện hồ sơ để hoàn thiện hồ sơ, giải quyết vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự đã ấn định thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với
các tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng khác nhau. Đối với vụ án phức tạp Chánh án Tòa án có thể gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử. Chính vì vậy, người tiến hành tố tụng khi nghiên cứu hồ sơ
phải nắm chắc về thời hạn chuẩn bị xét xử để chủ động nghiên cứu hồ sơ vụ án
tránh trường hợp "để quên" hồ sơ hoặc để quá hạn luật định. Trong thời hạn quy
định tại Điều 151 BLTTHS Thẩm phán phải ra một trong số các quyết định
như: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Quyết định đình chỉ vụ án, Quyết
định tạm đình chỉ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Các quy định về chuẩn bị xét xử giúp cho người tiến hành tố tụng trong
cơ quan Toà án có cách nhìn nhận, sự đánh giá nhất định có tính bao quát về vụ
án, các vấn đề cần phải làm sáng tỏ; giúp Hội đồng xét xử nói chung, Thẩm
phán riêng khi ra phiên tòa có tính chủ động hơn để điều khiển phiên tòa theo
đúng trình tự thủ tục, bám sát nội dung vụ án. Nâng cao hiệu quả tranh tụng tại
phiên tòa. Chính vì vậy, luật tố tụng hình sự đã quy định khá cụ thể về nhiệm
vụ, quyền hạn của từng người tiếng hành tố tụng trong cơ quan Tòa án giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tạo ra hành lang pháp lý để giải quyết vụ án
chính điều đó đã hạn chế rất nhiều án hủy về lỗi nghiên cứu hồ sơ vụ án.
2.2.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân trong phiên
tòa xét xử sơ thẩm
Đây là giai đoạn trung tâm nhất thể hiện rõ nét nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án. Theo quy định của BLTTHS hiện
hành thì phiên toà xét xử sơ thẩm chia thành các phần sau đây: phần thủ tục,
phần xét hỏi; phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng, nghị án và tuyên án.
BLTTHS quy định thủ tục bắt đầu phiên tòa do chủ tọa phiên tòa thực
hiện. Trong phần này chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm kiểm tra căn cước của
những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng đối tượng tham gia phiên tòa như
đúng bị cáo, người bị hại, người làm chứng trong vụ án. Giải thích cho những
người tham gia tố tụng biết rõ về những quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.
14
Giải quyết các yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch nhằm đảm bảo sự vô tư, khách quan của những người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Đảm bảo mọi chứng cứ, tài
liệu, vật chứng sẽ được xem xét đầy đủ.
Quy định của pháp luật trong phần này cũng thể hiện vị trí, vai trò của
HĐXX là người "trọng tài", là người quyết định khi xem xét, giải quyết yêu cầu
của các bên. Đây cũng là quyền hạn, trách nhiệm rất quan trọng của HĐXX tại
phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Tại phần xét hỏi: Được quy định tại chương XX của BLTTHS. Kết quả
xét hỏi là một trong những căn cứ quan trọng nhất để HĐXX ra bản án, quyết
định. HĐXX có vị trí đặc biệt quan trọng trong phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
và có rất nhiều quyền hạn, trách nhiệm trong phần này. HĐXX nổi lên là người
hỏi chính và hỏi toàn bộ các vấn đề của vụ án. Về trình tự xét hỏi luật quy định,
chủ tọa phiên tòa là người hỏi trước, sau đó các Hội thẩm hỏi rồi mới tới các người
khác có quyền hỏi. HĐXX có thể nghe kết luận giám định, đánh giá của người
giám định tại phiên tòa. HĐXX cũng có thể xem xét vật chứng, công bố các tài
liệu có trong hồ sơ, xem xét tại chỗ nơi xảy ra vụ án hoặc các nơi có liên quan.
HĐXX cũng phải tạo điều kiện cho những người có quyền hỏi khác như Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự xét hỏi những người
tham gia tố tụng về vụ án. Việc xét hỏi phải bảo đảm khách quan, toàn diện, đầy
đủ làm căn cứ cho việc ra bản án của Tòa án chính xác, đúng pháp luật.
Kết thúc phần xét hỏi khi kiểm tra các tình tiết của vụ án đã được xét hỏi
đầy đủ rồi, không ai đề nghị xét hỏi về vấn đề gì thêm thì chủ tọa tuyên bố kết
thúc phần xét hỏi chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Phần tranh luận tại
phiên tòa là phần rất quan trọng, ở đó các bên căn cứ vào những chứng cứ đã
được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa để đưa ra lý lẽ, lập luận nhằm chứng minh
cho quan điểm của mình là đúng, có căn cứ pháp luật. HĐXX có trách nhiệm
nghe ý kiến của các bên tham gia tranh luận và hướng cho các bên tranh luận
đúng nội dung vụ án và đối đáp các ý kiến. Việc tranh luận của các bên sẽ giúp
cho HĐXX có đánh giá đúng về vụ án.
Nghị án là việc HĐXX thảo luận tại phòng nghị án, thông qua bản án
hoặc quyết định giải quyết vụ án. Chỉ có thành viên của HĐXX mới có quyền nghị
án, HĐXX phải thảo luận và biểu quyết khi ra bản án, quyết định.Khi nghị án,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, biểu quyết theo đa số,
Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng.
Tuyên án là việc HĐXX nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết đối với
một vụ án, do vậy hoạt động này thể hiện tính quyền lực cao. Bản án được
tuyên đọc cho tất cả những người tham gia phiên tòa nghe. Khi HĐXX tuyên án
thể hiện sự tính uy nghiêm nên pháp luật quy định. Trách nhiệm của HĐXX khi
tuyên án là phải tuyên đọc bản án to, rõ ràng, chính xác, thể hiện sự uy nghiêm.
Sau khi tuyên án HĐXX có thể giải thích thêm về các quyết định của bản án và
quyền kháng cáo bản án.
15
2.3. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
những người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Toà án nhân dân
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại Ðiều 244 BLTTHS năm 2003 thì HÐXX phúc thẩm chỉ
gồm có ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội
thẩm. Việc quy định thành phần HÐXXPT như vậy cũng xuất phát tính chất của
các cấp xét xử, vì cấp xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án nhằm khắc phục
những sai sót của Toà án cấp sơ thẩm. Thành phần HĐXXPT khi xét xử bắt
buộc phải có các Thẩm phán. Trong trường hợp cần thiết HĐXXPT có thể thêm
hai Hội thẩm.
Đối với bất kỳ HĐXX nào Chủ tọa phiên tòa phải là Thẩm phán, pháp luật
không quy định Hội thẩm được làm chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa là người
điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và duy trì kỷ luật tại phiên tòa. Ngoài các
thành viên chính thức của HĐXX, HĐXX còn có thể có các thành viên dự
khuyết. Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại phiên tòa từ đầu mới
được tham gia xét xử.
BLTTHS hiện nay không quy định về thủ tục thành lập, hình thức thành
lập HĐXXPT. Trong khi đó tại điểm b khoản 1 Điều 38 BLTTHS quy định cụ
thể về trách nhiệm, quyền hạn của Chánh án Tòa án trong việc phân công Thẩm
phán, Hội thẩm tham gia giải quyết, xét xử vụ án hình sự. Thực tiễn xét xử phúc
thẩm tại một số TAND cấp phúc thẩm cho thấy, Chánh án Tòa án cũng không
có thông báo bằng văn bản hướng dẫn trên mà chỉ gửi lịch xét xử cho Viện
kiểm sát, còn đối với người tham gia tố tụng được triệu tập bằng giấy triệu tập.
Việc làm này là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của những người tham gia tố tụng.
2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2.4.1. Tình hình tổ chức, cán bộ ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Tính đến ngày 30/12/2014, biên chế hệ thống Tòa án trên địa bàn tỉnh Đăk
Lăk có 326 cán bộ. Trong đó, có 01 Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, 03 Phó
chánh án Tòa án nhân dân tỉnh và 08 Chánh tòa, Phó Chánh tòa các Tòa chuyên
trách. Ở cơ quan cấp huyện, hiện có 15 Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện và
21 phó chánh án huyện. Số liệu từ Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk cho thấy số
lượng biên chế trong hệ thống Tòa án của tỉnh cũng như các tòa cấp huyện chiếm
đa số và đã được phân bổ gần như đầy đủ, lực lượng cán bộ trẻ dưới 30 tuổi
chiếm từ 60% tạo điều kiện cho công tác bồi dưỡng lực lượng cán bộ nòng cốt
cho cơ quan xét xử của tỉnh. Bên cạnh đó, số lượng cán bộ công chức bị xử lý kỷ
luật có chiều hướng tăng dần cụ thể riêng từ năm 2008 đến năm 2014 đã có 12
trường hợp bị vi phạm.
2.4.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
người tiến hành tố tụng trong xét xử vụ án hình sự trong cơ quan Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
16
Theo báo cáo tham luận về công tác xét xử các vụ án hình sự của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk thì nhìn chung chất lượng xét xử các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nhiều tiến bộ rõ nét so với các năm trước;
hoạt động xét xử đảm bảo đúng thời hạn, dân chủ, công bằng; việc ra bản án
thật sự căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và có chất lượng tốt
hơn; trách nhiệm của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử được
nâng cao hơn trước. Đặc biệt trên địa bàn trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2014
không xảy ra tình trạng kết án oan người không có tội. Báo cáo tổng kết của từ
năm 2009 đến nay đều khẳng định Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã triển khai
sâu rộng việc nâng cao tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, đảm bảo cho những
người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Đặc
biệt, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
đã nghiên cứu hồ sơ một cách kĩ lưỡng, nghiêm túc nên kết quả trả hồ sơ Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trả lại cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk để
điều tra bổ sung năm sau cao hơn năm trước và được Viện kiểm sát chấp nhận
gần như toàn bộ các vụ án Tòa án tỉnh Đắk Lắk trả lại. Bên cạnh đó, đối với
việc xét xử phục vụ các đợt cao điểm đấu tranh phòng chống tội phạm về ma
túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em, tham nhũng và xét xử các phiên tòa lưu động tại
nơi xảy ra tội phạm có tác dụng tốt trong việc phổ biến tuyên truyền pháp luật,
góp phần tích cực trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở địa phương.
2.4.3. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về
người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án nhân dân trên địa bàn
tỉnh Đăk Lăk
Bên cạnh các kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy việc thực hiện các quy
định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng hình sự
trong cơ quan Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn nhiều hạn chế
cụ thể là:
* Chất lượng xét xử các vụ án hình sự vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
trong tình hình hiện nay
Trong các năm từ 2009 đến năm 2014 số vụ án bị hủy do nguyên nhân
chủ quan có chiều hướng giảm đáng kể nhưng vẫn còn nhiều. Một số trường
hợp do Thẩm phán nghiên cứu không kỹ hồ sơ vụ án, xem xét, đánh giá không
đầy đủ, toàn diện các tình tiết, chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên dẫn
đến việc tại phiên tòa HĐXX phải ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ
sung hoặc ra bản án thiếu căn cứ, kém thuyết phục, đặc biệt có trường hợp dẫn
đến bỏ lọt tội phạm hoặc kết án oan người không thực hiện hành vi phạm tội.
Ngoài ra, có các trường hợp Tòa án mở rộng phạm vi áp dụng các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách vô căn cứ, nhất là việc cho
bị cáo hưởng án treo hoặc áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo
không đúng. Việc thực hiện các trình tự, thủ tục ở một số phiên tòa không đúng
và không đầy đủ theo quy định của pháp luật.
17
Chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa sơ thẩm hình sự hiện nay c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lhs_ta_thi_ngoc_diep_nguoi_tien_hanh_to_tung_trong_co_quan_toa_an_nhan_dan_284_1946751.pdf