Luận văn Nhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên ở nông thôn

Trang bìa chính

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Danh mục từ viết tắt

Mục lục

Danh mục bảng, biểu

MỞ ĐẦU . 5

1. Lý do chọn đề tài. 5

2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu . 7

3. Phạm vi nghiên cứu. 7

4. Mục tiêu nghiên cứu. 7

5. Câu hỏi nghiên cứu . 7

6. Giả thuyết nghiên cứu . 8

7. Phương pháp nghiên cứu. 8

8. Ý nghĩa của nghiên cứu. 9

9. Cấu trúc luận văn . 10

NỘI DUNG. 11

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU . 11

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu . 11

1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới . 11

1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam. 13

1.2. Các khái niệm công cụ . 18

1.2.1. Khái niệm nhu cầu . 18

1.2.2. Khái niệm “sức khoẻ sinh sản” . 20

1.2.3. Khái niệm vị thành niên . 21

1.2.4. Khái niệm “Sức khoẻ sinh sản vị thành niên” . 21

pdf35 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 692 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên ở nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các em là gia đình, thầy cô, các phương tiện thông tin đại chúng. - Vị thành niên xã Lam Điền có nhu cầu tìm hiểu về những kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản và có nhu cầu tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. - Gia đình, nhà trường, các cơ quan quản lý cần tăng cường việc giáo dục nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp phân tích tài liệu Trong nghiên cứu này tác giả tìm hiểu những nghiên cứu và số liệu sẵn có từ các bài báo khoa học, các luận văn, luận án, các trang web của các tổ chức, các viện nghiên cứu và các trường đại học. Qua đó, làm nổi bật các vấn đề có liên quan đến đề tài: khái niệm công cụ, đặc điểm, nguyên nhân, các chính sách của Đảng, của nhà nước trong việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Từ những tài liệu đã có để có cái nhìn tổng quan về những vấn đề của chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên trong cả nước như mang thai trong tuổi vị thành niên, kết hôn sớm, bệnh lây truyền qua đường tình dục Tác giả cũng dựa trên các nghiên cứu, các báo cáo có sẵn tại địa phương để nắm bắt được đặc điểm tình hình tại xã Lam Điền cũng như đánh giá được thực trạng kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên tại xã Lam Điền. Đặc biệt, luận văn có sử dụng các số liệu từ báo cáo điều tra tình hình hiểu biết về kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên do ban 9 dân số kế hoạch hóa gia đình xã Lam Điền thực hiện năm 2015. 7.2. Phương pháp phỏng vấn sâu Tiến hành phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu 1 cán bộ trong Ban Chấp hành Đoàn thanh niên xã, 1 cán bộ cán bộ chuyên trách dân số, 1 cán bộ cán bộ y tế xã để nắm bắt các hoạt động về chăm sóc sức khỏe sinh sản địa phương tổ chức cho thanh thiếu niên, tình hình chung về thanh thiếu niên ở xã. Phỏng vấn 1 giáo viên dạy sinh học của trường THCS, 1 giáo viên sinh học của trường THPT để biết được hoạt động cung cấp kiến thức cho các em trong trường học được diễn ra như thế nào? Với nội dung, hình thức nào? Từ đó đánh giá mức độ hiệu quả của việc trang bị kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Phỏng vấn sâu với 06 em thanh thiếu niên ở địa phương để biết thêm về những nhu cầu được trang bị kiến thức liên quan đến SKSS VTN và những đánh giá sơ bộ của các em về vấn đề này. Phỏng vấn sâu 01 phụ huynh có con em đang ở độ tuổi VTN nhằm xem xét mức độ trao đổi thông tin giữa các bậc phụ huynh với các em để tìm hiểu thêm nhu cầu của các bậc phụ huynh về việc dậy con em mình kiến thức sâu cho vấn đề SKSS. 8. Ý nghĩa của nghiên cứu Từ góc nhìn công tác xã hội, nghiên cứu góp phần mở rộng sự hiểu biết đối với thực trạng kiến thức sức khỏe sinh sản của nhóm vị thành niên ở một địa phương cụ thể. Nghiên cứu cũng đánh giá được nhu cầu của nhóm trẻ vị thành niên đối với hoạt động công tác xã hội trong việc nâng cao kiến thức sức khỏe sinh sản cho họ. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu này cung cấp dữ liện làm cơ sở cho hoạt động nâng cao kiến thức sức khỏe sinh sản của vị thành niên. Thêm nữa, cần nhấn mạnh rằng trên cơ sở hiểu biết về thực trạng kiến thức và nhu cầu của vị thành niên về kiến thức cho nhóm xã hội này. 10 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khuyến nghị, Luận văn gồm có 03 chương chính: Chƣơng 1: của luận văn bao gồm các khái niệm công cụ, các lý thuyết vận dụng trong quá trình nghiên cứu, các quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước có liên quan đến chăm sóc SKSS vị thành niên. Nêu sơ lược đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội xã Lam Điền - huyện Chương Mỹ - thành phố Hà Nội. Chƣơng 2: của luận văn tác giải đi sâu vào nghiên cứu thực trạng kiến thức chăm sóc SKSS vị thành niên của vị thành niên xã Lam Điền bao gồm các kiến thức về tuổi dậy thì, tình bạn khác giới, tình yêu; kiến thức về tình dục an toàn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục; kiến thức về các biện pháp phòng tránh thai Thêm vào đó, tác giả phân tích các nguồn trang bị kiến thức về chăm sóc SKSS cho vị thành niên xã Lam Điền như gia đình, bạn bè, thầy cô, các phương thiện thông tin đại chúng Chƣơng 3: của luận văn đi sâu vào đánh giá nhu cầu của vị thành niên xã Lam Điền trong việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản và nhu cầu tiếp cận các dịch vụ có liên quan đến chăm sóc SKSS vị thành niên. 11 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới Ở trên thế giới, nghiên cứu về SKSS vị thành niên xuất hiện rất sớm và thường được gọi với cái tên giáo dục giới tính. Giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục, giải phẫu sinh học, sinh sản, quan hệ tình dục sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách nhiệm, tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục loài người. Nghiên cứu của Primary Care về Can thiệp giảm mang thai ngoài ý muốn trong thanh thiếu niên: tổng quan hệ thống các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát (Interventions to reduce unintended pregnancies among adolescents: systematic review of randomised controlled trials) đã đánh giá chương trình phòng ngừa mang thai bao gồm các lớp học tình dục học, trạm y tế có trụ sở trường học, phòng khám kế hoạch hóa gia đình, và các chương trình dựa vào cộng đồng. Nghiên cứu cũng đánh giá sự chậm trễ trong đầu quan hệ tình dục, sử dụng bao ngừa thai, hoặc tránh mang thai ngoài ý muốn. Tất cả các nghiên cứu đã diễn ra ở Bắc Mỹ, Úc, New Zealand, hay Châu Âu (trừ Đông Âu)[40]. Nghiên cứu đánh giá chương trình phòng ngừa được cung cấp trong các trường cao đẳng hoặc trường đại học, những người đánh giá các can thiệp được thiết kế để ngăn chặn mang thai thứ hai, và những đánh giá chỉ kiến thức và thái độ; đồng thời loại trừ các nghiên cứu đo chỉ sử dụng bao cao su vì người tham gia nghiên cứu có thể đã được sử dụng các phương pháp khác về kiểm soát sinh và nghiên cứu đo chỉ sinh vì họ bỏ qua việc phá thai. Qua 12 nghiên cứu kết quả cho thấy các hoạt động ngừa thai không hiệu quả, người sử dụng không chủ động sử dụng biện pháp ngừ thai trong mỗi lần quan hệ. Do vậy, phân tích số liệu cho thấy không giảm trong vấn đề thai ở các phụ nữ trẻ và người nghèo thường có chất lượng tránh thai thấp. Nghiên cứu cũng chỉ ra ít chương trình can thiệp sức khoẻ tình dục được thiết kế với mục tiêu dành cho thanh niên. Thanh niên đã cho thấy giáo dục giới tính cần phải trở nên nhạy cảm hơn và ít nhấn mạnh vào giải phẫu và những sự e ngại; nó cần tập trung trên các kỹ năng đàm phán trong quan hệ tình dục và trao đổi; và các chi tiết về các bệnh viện chăm sóc sức khoẻ sinh sản phải được quảng cáo tại các nơi thanh niên thường lui tới [40]. Đồng thời, có một số bằng chứng rằng các chương trình ngăn chặn có thể gần bắt đầu sớm hơn nhiều so với hiện tại. Trong một cuộc xem xét tổng quan có hệ thống về tám cuộc thử nghiệm chăm sóc ban ngày cho trẻ em thiệt thòi dưới 5 tuổi, quá trình theo dõi lâu dài cho thấy tỷ lệ mang thai thấp hơn trong số thanh niên. Từ đó cho thấy cần điều tra các yếu tố quyết định xã hội về mang thai ngoài ý muốn ở thanh niên thông qua những cuộc nghiên cứu rộng theo chiều dọc bắt đầu từ đầu đời và sử dụng các kết quả phân tích đa dạng để hướng dẫn việc thiết kế biện pháp ngăn chặn can thiệp. Cần phải xem xét thận trọng các quốc gia có tỷ lệ mang thai thanh niên thấp. Ví dụ, Hà Lan là một trong những nước có tỷ lệ thấp nhất thế giới (8.1 trên 1000 phụ nữ trẻ trong độ tuổi 15 tới 19)[41]. Nghiên cứu của Kirby, Douglas về "Kết quả nghiên cứu về chương trình để Giảm trẻ vị thành niên mang thai" (Emerging Answers: Research Findings on Programs to Reduce Teen Pregnancy) nằm trong Chiến dịch Quốc gia để ngăn chặn vị thành niên mang thai đã tóm tắt ba cơ quan nghiên cứu về mang thai và các chương trình thiếu niên để giảm nguy cơ mang thai tuổi vị thành niên. Nghiên cứu đã sử dụng một thiết kế thí nghiệm hoặc bán 13 thực nghiệm, đã có một kích thước mẫu của ít nhất 100 trong nhóm điều trị và kiểm soát kết hợp, và đo tác động đến tình dục hoặc tránh thai hành vi, mang thai, hoặc sinh đẻ. Sáu chương của nghiên cứu tập trung vào việc đưa ra luận cứ cho các nỗ lực phòng chống: Hành vi nguy cơ vị thành niên và hậu quả của nó; Các tiền đề của hành vi tình dục vị thành niên; Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ảnh hưởng mạnh của kết quả nghiên cứu; Các hành vi tác động của các chương trình để giảm vị thành niên tình dục rủi ro; rút ra kết luận về Nhà nước nghiên cứu và tính hiệu quả của chương trình; cuối cùng là áp dụng những kết quả nghiên cứu trong cộng đồng [46]. 1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, những nội dung giáo dục SKSS đã được nhiều cấp, nhiều ngành quan tâm chỉ đạo và tổ chức triển khai các hoạt động cụ thể. SKSS đã từng bước trở thành nội dung quan trọng của hầu hết các hoạt động dân số; các mục tiêu SKSS cũng là những mục tiêu cần đạt được của kế hoạch hoá gia đình. Theo Tổng quan các nội dung nghiên cứu về sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản vị thành niên ở Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2003, đã có tổng số 146 tài liệu nghiên cứu, khảo sát về chủ đề này. Trong đó có 82/146 (56,1%) tài liệu nghiên cứu về thực trạng tình hình sức khoẻ, SKSSVTN Việt Nam; 18/146 (12,4%) tài liệu nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng đến sức khoẻ, SKSSVTN Việt Nam; 46/146 (31,5%) tài liệu đề cập đến các yếu tố, giải pháp, biện pháp tác động nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, SKSSVTN. Các kết quả này cho thấy, những nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến SKSSVTN đã được khá nhiều các nhà khoa học xã hội và khoa học tự nhiên quan tâm tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau. Mảng nghiên cứu về nhu cầu giáo dục giới tính - SKSSVTN của học sinh THPT đã được một số tác giả tìm tòi với những phát hiện mới mẻ và thú vị, mặc dù những khảo cứu về vấn đề này còn chưa nhiều [1,tr.11]. Trong khuôn khổ nghiên cứu 14 của đề tài tác giả xin trình bày một số đề tài nghiên cứu tiêu biểu. Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thuỷ, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản. Đặc biệt từ năm 1988, một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục đời sống gia đình và giới tính cho học sinh (gọi tắt là Giáo dục đời sống gia đình) có kí hiệu VIE/88/P09 (gọi tắt là đề án P09) đã được Hội cán bộnh phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện với sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thuỷ và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân; nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp12. Từ khoảng năm 1990 đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khoẻ sinh sản; Giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; Giáo dục đời sống gia đình; Giáo dục giới tính cho học sinh Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh [7,tr.7-34]. Đầu năm 1998, dự án "Hỗ trợ tăng cường sức khoẻ sinh sản vị thành niên - VIE/97/P12" do Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh chủ trì đã được triển khai. Các đợt truyền thông rộng rãi được tổ chức nhằm 15 tuyên truyền cho VTN về SKSSVTN, về các biện pháp tránh thai và quan hệ tình dục lành mạnh, an toàn, phòng chống bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS, giúp cho VTN có nhận thức đúng và tự điều chỉnh hành vi của mình, góp phần hạ thấp tỷ lệ nạo phá thai và có con ngoài ý muốn trước 18 tuổi. Năm 2002, nhóm tác giả Đoàn Kim Thắng, Nguyễn Thị Văn, Phan Quốc Thắng (Viện Xã hội học) đã thực hiện nghiên cứu “Nhu cầu giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản của học sinh phổ thông trung học: nghiên cứu tại 4 trường phổ thông trong nội thành Hà Nội”. Nghiên cứu này đã khẳng định việc tìm hiểu nhu cầu của học sinh THPT về giáo dục giới tính và SKSS là việc làm có ý nghĩa để tìm ra đuợc một điều kiện thích hợp nhất cho việc đáp ứng nhu cầu tiếp thu các kiến thức về giáo dục giới tính và SKSS của VTN nói chung, học sinh THPT nói riêng. Nhóm tác giả đã chỉ ra những nhu cầu của học sinh THPT nội thành Hà Nội về kiến thức và sự hỗ trợ của xã hội chủ yếu thông qua các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm học sinh. Tuy nhiên, số liệu định lượng trong nghiên cứu này mới tập trung vào đánh giá thực trạng nhận thức của học sinh THPT về mội số nội dung liên quan đến SKSS. Những sự khác biệt về giới tính, độ tuổi, khu vực theo học và thực trạng yêu của học sinh THPTchưa được khai thác nhiều trong nghiên cứu nhu cầu. Ngoài ra, một số nội dung liên quan tới nhu cầu giáo dục SKSSVTN của học sinh từ phía nhà trường chưa được nghiên cứu làm rõ [31,tr59 – 70]. Mặc dù vậy, đây có thể coi là một tài liệu quan trọng đối với đề tài trong quá trình nghiên cứu, phân tích. Nghiên cứu của nhóm tác giả Đoàn Kim Thắng, Dương Chí Thiện về “Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên” đăng trên Tạp chí Khoa học Phụ nữ số 3 (46), tháng 5/2001 cho thấy, các kiến thức về giáo dục giới tính và SKSS mà các em lứa tuổi VTN đã có được khá đa dạng phong phú, nó có nhiều hơn những gì mà người lớn chúng ta thường hay đánh giá 16 quá nặng nề hoặc quá xem nhẹ. Song những kiến thức này chưa thể nói là đầy đủ và hệ thống được. Sự hiểu biết ở các em mới chỉ dừng lại phần lớn trên lý thuyết và sách vở, còn trên thực tế của cuộc sống hàng ngày, những kiến thức đó chưa đủ để các em có thể tự tin mà có những ứng xử và hành động đúng trong tất cả các trường hợp cụ thể. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, bản thân các em đã thể hiện sự quan tâm và mong muốn được học tập, được hiểu biết nhiều hơn nữa những nội dung của lĩnh vực SKSSVTN. Điều này hết sức cần thiết và bổ ích rất nhiều cho các em trong cuộc sống hiện tại và tương lai [30,tr.46]. Tình hình thực hiện chiến lược dân số Việt Nam và chiến lược Quốc gia về sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001- 2010 nêu rõ: “Tạo sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, SKSS, kế hoạch hóa gia đình trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng vùng, từng khu vực và từng nhóm đối tượng. Chú trọng hình thức tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và những người chưa thành niên”.Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Dự án VIE/97/P13 của Bộ giáo dục - đào tạo đã sản xuất tài liệu: Phương pháp giảng dạy các chủ đề nhạy cảm về “SKSS”(2000) và bộ tài liệu tự học dành cho giáo viên “giáo dục SKSSVTN”(2001). Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em triển khai đề án:“Mô hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/ kế hoạc hóa gia đình cho VTN và thanh niên” tại 10 tỉnh thành phố. Năm 2006 mở rộng ra 28 tỉnh thành phố. Mục tiêu chính của đề án nhằm nâng cao nhận thức về SKSS/ Kế hoạch hóa gia đình, bao gồm các vấn đề liên quan về giới, giới tính, tình dục an toàn, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS góp phần làm giảm các hành vi gây tác hại đến SKSSVTN [5,tr.6]. Sức khỏe sinh sản không chỉ dừng bởi các công trình nghiên cứu mà nó còn được xuất hiện rất nhiều trên tạp chí:“Tình bạn, tình yêu, tình dục tuổi vị 17 thành niên”-Nguyễn Linh Khiếu, tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 3/2000- Bài viết là kết quả nghiên cứu khía cạnh tình bạn, tình yêu trong một dự án về SKSS vị thành niên năm 1998.“Vị thành niên và các vấn đề Sức khỏe sinh sản”- Nguyễn Phương Thảo, tạp chí Khoa học về Phụ nữ số 3/2003: phân tích hiểu biết của VTN về những nội dung cơ bản: tuổi dậy thì, tình dục, mang thai ngoài ý muốn, các biện pháp tránh thai.“Giáo dục giới tính và SKSS VTN”- Đoàn Kim Thắng và Dương Chí Thiện, tạp chí Khoa học về Phụ nữ số 3/2001bài viết đã đưa ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi trẻ em VTN đối với giáo dục SKSS và giáo dục giới tính. Ngoài sự đóng góp của các công trình nghiên cứu và tạp chí nêu trên, chúng ta không thể không nhắc đến những đóng góp của các luận văn Thạc sĩ dưới góc độ xã hội học: “Giáo dục giới tính cho con cái trong gia đình hiện nay” (1997) của tác giả Phạm Thị Kim Xuyến đã chỉ ra được thực trạng nhận thức của các em học sinh THPT về giáo dục giới tính cũng như tình trạng dạy và học giáo dục giới tính hiện nay. “Tìm hiểu nhận thức và hành vi chăm sóc SKSS của VTN Việt Nam hiện nay” (2002) của tác giả Bùi Thu Hương. “Vai trò của cha mẹ trong việc Giáo dục SKSS VTN trong các gia đình công nhân viên chức ở thị xã Tam Điệp, Ninh Bình hiện nay” (2005) của tác giả Nguyễn Thanh Hương. “Nhu cầu SKSSVTN tại các trường trung học cơ sở trên địa bàn Quận Tây Hồ” (2007) của tác giả Trương Thị Kim Hoa. Trong luận văn của mình, thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Dung cũng đã đưa ra những nhận định rõ nét“Nhận thức về SKSS của học sinh” (2008) khi tiến hành nghiên cứu trường hợp Quận Hoàng Mai nhằm trả lời cho câu hỏi về kiến thức hiểu biết, tâm thế hành vi và xu hướng biến đổi nhận thức về SKSS của học sinh THPT quận Hoàng Mai. “Thực trạng nhận thức hành vi về tình dục và các biện pháp tránh thai của sinh viên các trường Đại học ở Việt Nam hiện nay”(2009) của tác giả Trương Thị Thúy Hạnh. Công trình này đã đóng góp một cái nhìn toàn 18 cảnh về thực trạng nhận thức của sinh viên các trường Đại học ở Việt Nam về hành vi tình dục và các biện pháp tránh thai[ 22,tr.7]. Nhìn chung các đề tài nghiên cứu thường tập trung đi sâu vào tìm hiểu thực trạng hiểu biết về SKSS và thái độ hành vi của thanh thiếu niên về các kiến thức sức khỏe sinh sản tại các Thành phố lớn, các trường học THCS, THPT. Những thống kê nêu trên cho thấy vấn đề giáo dục chăm sóc sức khỏe sinh sản đóng vai trò rất quan trong trong mục tiêu phát triển con người Việt Nam, mà tập trung vào thế hệ trẻ, tương lai của đất nước. Trên cơ sở những nền tảng của nghiên cứu đi trước, tác giả tiếp tục phát triển đề tài: “Nhu cầu đối với hoạt động công tác xã hội trong việc nâng cao kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên ở nông thôn. (Nghiên cứu trường hợp xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội)” để nghiên cứu. Điểm mới của luận văn so với các công trình nghiên cứu đi trước chính là nghiên cứu trên địa bàn nông thôn dưới góc nhìn công tác xã hội. Không dừng ở việc nghiên cứu thực trạng hiểu biết của VTN đối với vấn đề chăm sóc SKSS , nhận định về nhu cầu giáo dục kiến thức SKSS của vị thành niên, bên cạnh đó tác giả còn đưa ra một số khuyến nghị phù hợp để phát triển công tác nâng cao kiến thức chăm sóc SKSS VTN ở nông thôn Việt Nam nói chung và xã Lam Điền nói riêng. 1.2. Các khái niệm công cụ 1.2.1. Khái niệm nhu cầu Nhu cầu là khái niệm được nhiều ngành khoa học nghiên cứu và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Có nhiều công trình nghiên cứu về nhu cầu và cùng đi đến một nhận định: “Nhu cầu là một trong những nguồn gốc nội tại sinh ra tính tích cực của con người” [1,tr17]. A. Maslow cho rằng, ở con người, ngay từ khi mới ra đời đã có các lớp nhu cầu phân loại một cách nhất quán, tính lôgíc nhất quán chứng tỏ một trật 19 tự xuất hiện các nhu cầu trong quá trình phát triển cá thể. Tuy nhiên, hệ thống nhu cầu có tính chất thứ bậc này lại hết sức linh hoạt và biến động. Căn cứ vào các đặc trưng cơ bản của nhu cầu, A. Maslow đã phân chia nhu cầu từ cấp thấp đến cấp cao theo một hệ thống 5 bậc và sắp xếp nó theo thứ tự hình tháp được gọi là tháp nhu cầu [19,tr.54-56]. - Nhóm nhu cầu cấp thấp bao gồm: + Nhu cầu sinh lý: Nhu cầu tối thiểu cần thiết cho quá trình phát triển tự nhiên của con người: ăn, mặc, ngủ, nghỉ, chơi... + Nhu cầu an toàn: Nhu cầu được bảo vệ bản thân, bảo vệ tài sản, được sống yên ổn, ví dụ như bảo hiểm, uống nước sạch, không khí để tồn tại... - Nhóm nhu cầu cấp cao bao gồm: + Nhu cầu xã hội: Nhu cầu được yêu thương, nhu cầu lệ thuộc, mong muốn có quan hệ với người khác, sự quan tâm, sự phối hợp hoạt động... + Nhu cầu được kính trọng về các giá trị bản thân, sự độc lập, sự công nhận thành quả và tôn trọng từ người khác... + Nhu cầu tự khẳng định mình: phát triển nhân cách, tự hoàn thiện, phát huy những tiềm năng của mình... Theo A. Maslow, nhu cầu được sắp xếp theo thứ tự phân cấp các mức độ quan trọng với nguyên tắc nhu cầu ở cấp độ nào thấp hơn phải được thỏa mãn thì mới nảy sinh các nhu cầu cao hơn. Tuy nhiên, không nhất thiết phải thoả mãn hoàn toàn một nhu cầu nào đó như quan điểm của A. Maslow mà chỉ cần thoả mãn một phần nhu cầu cấp dưới nào đó con nguời đã muốn thực hiện nhu cầu cấp cao hơn. Tóm lại, việc sắp xếp thứ bậc các nhu cầu như trên chỉ mang tính tương đối. Tuy nhiên, việc vận dụng thang nhu cầu của A. Maslow vào việc nghiên cứu nhu cầu giáo dục SKSSVTN của vị thành niên hiện nay có một ý nghĩa đáng kể, bởi việc biết rõ vị thành niên đang ở bậc thang nhu cầu nào, các hoạt động chăm sóc SKSSVTN sẽ có thể hướng tới 20 việc thoả mãn nhu cầu đó. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhu cầu nâng cao kiến thức chăm sóc SKSSVTN của được giới hạn ở ba nội dung: nhu cầu được tiếp nhận các kênh thông tin có liên quan đến SKSSVTN, nhu cầu về các nội dung kiến thức SKSSVTN, nhu cầu về sự hỗ trợ của xã hội. 1.2.2. Khái niệm “sức khoẻ sinh sản” Sức khỏe sinh sản là trạng thái khỏe mạnh hoàn toàn hài hòa về mặt xã hội, tinh thần và thể chất trong tất cả những vấn đề có liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng và quá trình hoạt động của nó. Nó có nghĩa là con người có khả năng sinh sản và được tự do quyết định có hay không, khi nào, bao lâu và như thế nào trong việc này. Điều này cũng có ý nghĩa là quyền của phụ nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, dễ dàng và thích hợp nhằm điều hòa việc sinh đẻ không trái với pháp luật; quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp giúp cho người phụ nữ trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho những cặp vợ chồng những điều kiện tốt nhất để có đứa con khỏe mạnh. [4,tr.12]. Từ định nghĩa này có thể khẳng định rằng việc chăm sóc SKSS là một tổng thể các biện pháp kỹ thuật và dịch vụ góp phần nâng cao sức khỏe và hạnh phúc bằng cách phòng ngừa hậu quả và giải quyết các vấn đề về SKSS. Nó cũng bao gồm cả sức khỏe tình dục với mục đích là đề cao cuộc sống và các mối quan hệ riêng tư, chứ không chỉ là việc tư vấn và chăm sóc liên quan đến sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. SKSS không chỉ là trạng thái không có bệnh tật hoặc các vấn đề sức khỏe khác, mà SKSS phải được hiểu trong khuôn khổ của các mối quan hệ giữa sự thực hiện và rủi ro, cơ hội có đứa con mong muốn hoặc ngược lại, tránh mang thai ngoài ý muốn và không an toàn. SKSS góp phần rất lớn cho nguồn an ủi về thể chất và tâm sinh lý xã hội và sự gần gũi, sự trưởng thành cá nhân và xã hội. SKSS kém đi có thể gắn liền với bệnh tật, lạm dụng, mang thai ngoài ý muốn và tử vong 21 [4,tr12 – 13]. Ở Việt Nam có 7 nội dung SKSS ưu tiên gồm có: Quyền sinh sản; kế hoạch hóa gia đình; làm mẹ an toàn; phòng tránh phá thai, phá thai an toàn; phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có HIV/AIDS; chăm sóc SKSS vị thành niên. [4,tr.13]. 1.2.3. Khái niệm vị thành niên Theo tổ chức y tế thế giới, Vị thành niên là những em đang ở giai đoạn chuyển tiếp từ ấu thơ sang trưởng thành trong độ tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Tại Việt Nam vị thành niên là lứa tuổi từ 10 đến 19 tuổi. Thanh niên là từ 19 - 24 tuổi. Trẻ em được luật pháp bảo vệ chăm sóc giáo dục là dưới 16 tuổi. Về mặt luật pháp vị thành niên là dưới 18 tuổi. [4,tr.9]. Tuổi VTN là thời kì phát triển đặc biệt – thời kì xảy ra đồng thời hàng loạt những biến đổi nhanh chóng cả về cơ thể cũng như sự biến đổi tâm lí và các mối quan hệ xã hội, bước đầu hình thành nhân cách nên làm nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý nhất so với các lứa tuổi khác. Tuổi VTN được chia ra làm 3 giai đoạn : VTN sớm: từ 10-13 tuổi, VTN giữa: từ 14-16 tuổi, VTN muộn: từ 17-19 tuổi. Sự phân chia các nhóm như vậy là dựa trên sự phát triển thể chất, tâm lý, xã hội của từng thời ký, sự phân chia này chỉ có tính chấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004740_1_3387_2002825.pdf
Tài liệu liên quan