Luận văn Phân tích thực trạng tại các bệnh viện Việt Nam theo quan điểm lean

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT . i

DANH MỤC BẢNG BIỂU.ii

DANH MỤC HÌNH VẼ .iii

PHẦN MỞ ĐẦU. iv

i. Mô tả vấn đề nghiên cứu. . iv

ii. Động lực nghiên cứu . v

iii. Lựa chọn chủ đề nghiên cứu.vii

iv. Mục tiêu của luận văn.vii

v. Các tiêu chí đánh giá cần đạt được.vii

vi. Phương pháp nghiên cứu .viii

vii. Cấu trúc của luận văn.viii

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LEAN VÀ KHÁI NIỆM LEAN

BỆNH VIỆN . 1

1.1. Tổng quan về tư duy tinh gọn Lean . 1

1.1.1. Khái niệm Lean. 1

1.1.2. Lịch sử hình thành Lean . 1

1.2. Mục tiêu của tư duy Lean. 3

1.2.1. Gia tăng công việc tạo giá trị và loại bỏ lãng phí. 3

1.2.2. Rút ngắn chu kỳ sản xuất . 6

1.2.3. Giảm thiểu mức dự trữ. 6

1.2.4. Cải thiện năng suất và tăng sản lượng . 7

1.2.5. Tận dụng thiết bị và mặt bằng . 7

1.2.6. Nâng cao tính linh hoạt trong hệ thống. 8

1.3. Các nguyên tắc áp dụng tư duy Lean. 8

1.3.1. Nguyên tắc kéo từ khách hàng. 10

1.3.2. Nguyên tắc xác định chuỗi giá trị và loại bỏ lãng phí. 10

1.3.3. Nguyên tắc đúng thời điểm JIT. 11

1.3.4. Nguyên tắc hoạt động theo dòng chảy. 11

1.3.5. Nguyên tắc cải tiến liên tục. 11

pdf122 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 589 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích thực trạng tại các bệnh viện Việt Nam theo quan điểm lean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đang là vấn đề khiến người bệnh cảm thấy không hài lòng nhất. Khi được hỏi tại khoa khám bệnh, bệnh viện Bạch Mai, ông Trịnh Văn Quân (Hoàng Mai – Hà Nội) cho biết mình không biết khi đến bệnh viện phải làm những thủ tục gì để được vào khám và phải đi đến đâu. Đây cũng là tình trạng chung với những người đi khám bệnh tại bệnh viện Bạch Mai và các bệnh viện khác. Thậm chí đội ngũ nhân viên bệnh viện nhiều khi cũng chưa nắm được hết tất cả các quy trình tại vị trí đảm nhận bởi có quá nhiều các kênh thông tin khác nhau cần phải xử lý. Mỗi lần như vậy có thể họ phải hỏi lại hoặc mất nhiều thời gian hơn. Còn rất nhiều những lãng phí nữa trong suốt chuỗi giá trị hoạt động của một bệnh viện từ các bộ phận phục vụ như bãi đỗ xe, nhà ăn, vận tải; cho đến các phòng ban chức năng khám bệnh, cấp cứu; hoặc thậm chí là ngay trong một phòng bệnh như cách bố trí giường bệnh, tủ thuốc. Vậy có cách tiếp cận nào giúp loại bỏ những vấn đề này. Mô hình Lean đã chứng minh khá hiệu quả với nhiều tổ chức và bệnh viện như nêu trên. Phải chăng bệnh viện ở Việt Nam nên xem xét nghiên cứu và đưa mô hình này vào như một giải pháp hiệu quả cho bài toán như hiện nay. (Nguyễn Đạt Minh – Nguyễn Danh Nguyên 2013). Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng tại phần lớn các bệnh viện Việt Nam còn yếu kém do đã được xây dựng từ lâu và có rất ít những bệnh viện được hỗ trợ nâng cấp cải tạo. Điều kiện khó khăn chật hẹp cùng với tư duy bị ảnh hưởng bởi một ngành dịch vụ có mục đích xã hội mà không nhằm mục đích lợi nhuận. Có lẽ cũng bởi vì tư duy này nên ý thức về một sự thay đổi mang tính tích cực thường không được lãnh đạo các bệnh viện quá quan tâm và cam kết thực hiện. - 37 - 2.1.4. Đánh giá kết quả hoạt động tại các bệnh viện Việt Nam 2.1.4.1. Tình trạng quá tải bệnh viện Theo thống kê của Bộ Y tế, năm 2010, công suất sử dụng giường bệnh tại các bệnh viện công lập là 128.52% đối với bệnh viện tuyến trung ương và 126.66% đối với các bệnh viện tuyến tỉnh. Tỉ lệ này có thể lên đến trên 200% ở một số bệnh viện lớn tuyến trung ương, nhất là trong thời điểm bùng nổ dịch bệnh. Điển hình như, bệnh viện Bạch Mai, thành phố Hà Nội, tỉ lệ này có khi lên tới 285%. Quá tải công việc là tình trạng khá phổ biến đối với các cán bộ y tế đặc biệt là một số bệnh viện công lập do người bệnh không khám bệnh ở các trung tâm y tế cấp cơ sở. Nghiên cứu thực hiện tại phòng khám ngoại trú tại 6 bệnh viện ở thành phố Hà Nội trên 2.587 phiếu điều tra từ 2005 đến 2010. Kết quả cho thấy, bệnh nhân đến khám ngoại trú tại các bệnh viện chuyên khoa ngày càng tăng và lý do đến khám đa số là những bệnh thông thường (44.0% - 85.1%) trong khi đó tuyến y tế cơ sở có thể điều trị được (67.7%). Bệnh nhân đến bệnh viện đa số là vượt tuyến hoặc tự đến (85.5%) dẫn đến tình trạng quá tải bệnh nhân ở các phòng khám ngoại trú tại các bệnh viện tuyến trên, vượt công suất sử dụng giường (107.8% - 130.0%) và vượt chỉ tiêu khám chữa bệnh ngoại trú (114,4% - 145.,0%). Mỗi ngày một bác sỹ có thể khám từ 50 - 100 bệnh nhân, dẫn đến việc giảm chất lượng của công tác khám chữa bệnh. (Nguồn: Thuận, N.T., Lofgren, C., Lindholm, L. & Chúc, N.T.K. Choice of healthcare provider folloing reform in Vietnam. BMC Health Serv Res 2010). Để có được cái nhìn tổng quát và rõ ràng hơn, tác giả đã thu thập và tổng hợp thống kê tỷ lệ % quá tải tại các bệnh viện như hình 2.3 phía dưới: Ngoài ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến trung ương là do số lượng bệnh nhân quá nhiều trong khi bệnh viện không đủ công suất và số lượng để đáp ứng được nhu cầu cho người bệnh. Bên cạnh đó, việc người bệnh phải đi qua nhiều chỗ và làm nhiều tủ tục khác nhau cũng là nguyên nhân dẫn đến thời gian phục vụ bị kéo dài, hậu quả là số lượng bệnh nhân được phục vụ trong một khoảng thời gian bị ít đi rất nhiều. - 38 - 0% 20% 40% 60% 80% 100% 120% 140% 160% 180% 200% Bệnh viện Bạch Mai Bệnh viện Nhi TW Bệnh viện Hữu Nghị Bệnh viện K Bệnh viện Việt Đức Bệnh viện E Bệnh viện phụ sản TW Bệnh viện nhiệt đới TW Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Hình 2.3: Thống kê tỷ lệ quá tải bệnh viện từ 2009 – 2011 (Nguồn: Bộ Y tế) Quá tải bệnh viện cũng được các y văn thế giới chứng minh là nguyên nhân dẫn tới: (1). Giảm chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, chăm sóc người bệnh: Đối với khám bệnh, điều trị theo đơn hoặc điều trị ngoại trú: người bệnh phải chờ đợi lâu khi khám bệnh, làm xét nghiệm, thủ thuật để giúp việc chẩn đoán bệnh; thời gian khám bệnh, tư vấn hạn chế. Đối với điều trị nội trú: người bệnh phải chờ đợi lâu khi cần được cung cấp dịch vụ thủ thuật, phẫu thuật...; việc chăm sóc theo nhu cầu người bệnh bị hạn chế như phải nằm chung gường bệnh; việc hướng dẫn, thực hiện và kiểm tra về chăm sóc người bệnh như tư vấn bệnh tật, chia sẻ tình cảm, săn sóc ăn uống, ngủ nghỉ, tiếng ồn, các điều kiện vệ sinh cá nhân, uống thuốc, tiêm thuốc theo giờ, theo dõi người bệnh theo phân cấp hộ lý bị hạn chế. (2). Thời gian điều trị bị kéo dài do chờ đợi các kỹ thuật chẩn đoán, can thiệp hoặc do biến chứng trong quá trình điều trị. (3). Giảm sự hài lòng và mức độ hợp tác của người bệnh và gia đình người bệnh với bệnh viện. Sự bực bội, chán nản của người bệnh và gia đình người bệnh dẫn đến tình trạng hung dữ, thô lỗ và thậm chí lăng mạ nhân viên y tế, gia tăng các đơn thư - 39 - khiếu nại, các hành vi gây hậu quả nghiêm trọng đối với bệnh viện và nhân viên y tế. (4). Tăng tỷ lệ tai biến, biến chứng, điển hình là nhiễm khuẩn bệnh viện, tỷ lệ sai sót trong chuyên môn tăng như sai xót trong kê đơn, cho sai thuốc, sai liều dùng, nhầm lẫn về tần suất, khoảng cách giữa các lần dùng thuốc. (5). Gia tăng chi phí điều trị đối với người bệnh, bệnh viện và xã hội. (6). Gây những tổn hại về sức khỏe tâm thần của bác sĩ và nhân viên y tế, do phải làm việc trong điều kiện quá tải về công việc, thời gian và hạn chế không gian gây nên mệt mỏi, tâm trạng bức xúc, dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm hoặc gây cáu gắt, làm giảm khả năng chính xác trong thực hiện kỹ thuật, giảm sự tận tình trách nhiệm đối với người bệnh. (Nguồn: Bộ Y tế, đề án giảm quá tải bệnh viện 2012). 2.1.4.2 . Tình trạng lãng phí tại các bệnh viện hiện nay Tình trạng lãng phí trong các bệnh viện ở Việt Nam đang là vấn đề nhức nhối đối với các cấp quản lý và các bên liên quan. Khi phỏng vấn các cán bộ quản lý, các y bác sỹ tại bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Nhi trung ương, bệnh viện Hữu Nghị, bệnh viện Việt Đức, và bệnh viện K về tình trạng lãng phí trong bệnh viện thì tác giả đều nhận được câu trả lời là còn nhiều lãng phí và bất cập. Tuy nhiên, dù biết được sự tồn tại của lãng phí đó nhưng mọi người hầu như không quá quan tâm và quyết tâm xử lý. Một vài lý do được đưa ra như tình trạng này đã tồn tại từ lâu nên khó thay đổi, do tâm lý ngại thay đổi, không thuộc trách nhiệm của mình. Một vài loại lãng phí trong các bệnh viện có thể được nhận ra như: - Quy trình phục vụ rườm rà, nhiều thủ tục không cần thiết, người bệnh phải thực hiện nhiều bước thủ tục giống nhau và đôi khi phải quay lại chính vị trí làm thủ tục cũ để làm thủ tục khác. - Thông tin cho bệnh nhân không đầy đủ dẫn đến người bệnh không biết bước nào làm trước bước nào làm sau, không biết đến nơi cần phải đến. Lãng phí này là nguyên nhân của năng suất thấp, thời gian phục vụ một bệnh nhân dài hơn, người bệnh tốn nhiều chi phí hơn. - 40 - - Đối với cán bộ trong bệnh viện thì nhiều khi phải làm lại nhiều thủ thuật, hoặc làm lại các kết quả phân tích, y lệnh bị thất lạc dẫn đến phải thực hiện lại từ đâu gây lãng phí thời gian và tiền bạc của người bệnh. - Quy trình vận chuyển thuốc và các sản phẩm dược đến các khoa lâm sàng và phòng điều trị không đúng số lượng, chủng loại, thời gian theo chỉ định cũng là một dạng lãng phí rất nghiêm trọng. - Ngoài ra còn rất nhiều các lãng phí khác nữa trong toàn bộ chuỗi giá trị trong bệnh viện hiện đang tồn tại. Tác giả sẽ trình bày kỹ hơn về các loại lãng phí trong bệnh viện theo quan điểm Lean như sau đây. (1). Lãng phí do “sản xuất thừa” Lãng phí do “sản xuất thừa” trong các bệnh viện đang là yếu tố gây tốn kém chi phí của bệnh nhân nhất. Do đặc thù ngành dịch vụ này khách hàng chính là sản phẩm đầu ra của chính mình nên thường khó để đánh giá khách quan, chính xác. Vấn đề sản xuất thừa ở đây cũng phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chuyên môn của đội ngũ bác sĩ trong bệnh viên. - Chỉ định y lệnh thừa, nhiều mục không cần thiết nhưng vẫn đưa vào. - Kê đơn thuốc thừa cho bệnh nhân, nhiều loại thuốc không cần thiết làm tốn thêm chi phí của người bệnh. - Xét nghiệm nhiều hơn các chỉ số cần thiết. (2). Lãng phí do sai hỏng Đối với loại lãng phí này, nếu nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Vì vậy loại bỏ lãng phí này là điều kiện đầu tiên trong các bệnh viện hiện nay. Một số trong rất nhiều lãng phí do sai hỏng như: - Làm lại xét nghiệm do lỗi thông tin, kết quả không đúng đối tượng. - Nhận và cấp phát thuốc không chính xác. - Xét nghiệm, lấy mẫu nhầm bệnh nhân. - Thông tin, kết quả chuyển không đúng địa chỉ, thất lạc. (3). Lãng phí do lưu kho Một số lãng phí do “lưu kho” trong các bệnh viện gồm: - 41 - - Thiết bị y tế không thường xuyên sử dụng. - Bệnh nhân khỏi bệnh nhưng phải chờ thủ tục, giấy từ để xuất viện. - Danh sách công việc, xét nghiệm chờ đợi tại nhiều nơi. - Vật tư y tế dư thừa quá nhiều hơn mức cần thiết trong kho (Bông, gạc, bơm kim tiêm). - Các bệnh án đang được lưu tại các khoa chưa được giải quyết. (4). Lãng phí do di chuyển Vận chuyển thuốc, kết quả xét nghiệm, người bệnh không đúng địa chỉ, nơi quy định cũng thường xảy ra tại các bệnh viện. Hậu quả của việc vận chuyển không đúng này là tốn chi phí thực hiện lại, tốn thời gian và đặc biệt nhất là ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người bệnh nhân. Việc bố trí sắp xếp các bộ phận lâm sàng và cận lâm sàng có liên quan trực tiếp quá cách xa nhau hoặc quá trình vận chuyển gặp khó khăn cũng gây ra lãng phí. (5). Lãng phí do chờ đợi Chờ đợi là hiện tường thường thấy và là điều mà bệnh nhân không hài lòng nhất mỗi khi phải đến các bệnh viện khám và điều trị. Có thể thấy việc chờ đợi xuất hiện trong suốt cả chuỗi phục vụ của bệnh viện: - Chờ đợi để đăng ký, mua phiếu khám. - Chờ đợi để được vào khám. - Thời gian chờ kết quả kéo dài. - Chờ nhập viện (Bệnh nhân khi phải nhập viện nhưng cũng không được bố trí ngay mà còn qua nhiều thủ tục và thời gian chờ đợi bên ngoài). - 42 - Việc chờ đợi trên làm giảm số lượng bệnh nhân đến khám trên mỗi đơn vị thời gian, quá trình làm việc không liên tục. Giảm hiệu quả khám chữa bệnh cho người bệnh vì lý do có thể bệnh nhân sẽ không được tiến hành khám chữa kịp thời. Ngoài ra, trong nội bộ bệnh viện thì các nhân viên cũng phải “chờ đợi” tại nhiều đơn vị, nhiều giai đoạn. Điển hình nhất là tình trạng các khoa điều trị lâm sàng phải chờ đợi thuốc từ khoa dược (Theo khảo sát tại khoa Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai thì tình trạng chờ thuốc phát cho bệnh nhân diễn ra thường xuyên, có khi phải chờ hơn 1 ngày mới có thuốc). (6). Lãng phí do thao tác Một số lãng phí do thao tác có thể xảy ra trong bệnh viện gồm: - Nhân viên y tế đi lại nhiều lần để tìm kiếm thông tin, giấy tờ. - Không có các loại máy cơ bản trong mỗi đơn vị dẫn đến việc phải thực hiện nhiều thao tác mới có thể hoàn thành công việc. - Thao tác phục vụ người bệnh thừa, một lần phục phải di chuyển nhiều để lấy dụng cụ hỗ trợ. (7). Lãng phí do gia công Lãng phí gia công nghĩa là thực hiện nhiều hơn những gì thực sự cần thiết. Trong bệnh viện tình trạng lãng phí gia công này cũng thường xảy ra và gặp ở tất cả các trường hợp bệnh nhân. Một số biểu hiện của lãng phí này đó là: - Kê đơn thuốc nhiều loại thuốc hơn cần thiết. - Sử dụng liều cao hơn bình thường. - Xét nghiệm nhiều chỉ số hơn mức cần thiết. Hình 2.4 phía dưới thống kê về tình trạng lãng phí trong các bệnh viện về chi phí cho các lỗi do tiêu hao vật tư, thuốc không được sử dụng, làm lại quy trình, bệnh nhân chờ đợi. - 43 - Hình 2.4: Tỷ lệ lãng phí trong các bệnh viện (Tác giả tổng hợp) 2.1.4.3. Hiệu suất phục vụ bệnh nhân thấp Hiệu quả phục vụ người bệnh là vấn đề khó xử lý mà các bệnh viện Việt Nam đang phải đối mặt. Với nhu cầu của người bệnh ngày càng nâng cao về cả số lượng và chất lượng, cùng với đó là sự gia tăng của dân số cũng tạo áp lực buộc các bệnh viện phải tìm cách nâng cao hiệu quả và giảm thời gian phục vụ bình quân cho mỗi bệnh nhân. Xuất phát từ nhu cầu khám chữa bệnh của người bệnh tăng nhanh mà yêu cầu cải thiện hiệu suất khám chữa càng trở nên cấp thiết và cần thay đổi nhanh chóng. Vấn đề về hiệu suất phục vụ yếu kém cũng có nguyên nhân do quy trình không phù hợp, nhiều công việc không cần thiết, dòng di chuyển quá dài. Phân loại bệnh nhân và hướng dẫn họ đến đúng địa chỉ cần khám theo các tiêu chí đã được quy định trước sẽ góp phần tăng được số lượng bệnh nhân được vào khám trên mỗi đơn vị thời gian. Chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ y bác sĩ trong các bệnh viện cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiệu suất thấp. Tuy nhiên, trong luận văn này tác giả đề cập nhiều hơn đến phương diện quản lý và các hoạt động không tạo giá trị gia tăng ảnh hưởng đến hiệu suất phục vụ bệnh nhân. - 44 - Theo quan sát tại các bệnh viện thì thời gian mỗi bệnh nhân được khám (thời gian thực) thường nhỏ hơn rất nhiều so với tổng thời gian một người phải chờ từ khi đến cho tới khi ra về. 2.1.4.4. Khối lượng công việc và hậu cần logistic Một vấn đề lớn được phát hiện từ các cuộc phỏng vấn với nhân viên trong bệnh viện là hiện tượng “nút cổ chai” vào buổi sáng thứ 2 hàng tuần do những kết quả của cuối tuần trước được lưu lại cho đến sáng thứ 2 tuần kế tiếp. Và việc này cộng với việc làm của ngày thứ 2 đó có khối lượng rất lớn. Kết quả cho việc này là công việc của ngày thứ 2 thường bị đẩy lùi sang ngày thứ 3. Và ảnh hưởng của nó thường là đến hết tuần vì các công việc của tiếp tục gối chồng lên nhau. Hậu quả cả việc này làm kéo dài thời gian chờ đợi cho người bệnh đồng thời ảnh hưởng đến khả năng điều trị nhanh của họ. Ngoài ra, tác giả cũng ghi nhận rằng tất cả các bệnh viện thường có xu hướng gửi xét nghiệm và mẫu với số lượng nhiều vào cuối mỗi buổi. Như vậy việc mẫu vật đến không đồng đều dẫn đến tình trạng lúc thì bộ phận xét nghiệm không có việc, khi khác lại bị quá tải và không đáp ứng kịp. Điều này thường dẫn đến việc kết quả xét nghiệm thường đến chậm hơn dự kiến, đôi khi phải đợi đến ngày hôm sau. Ngoài ra nhân viên y tế cũng không dám chắc với người bệnh chính xác khi nào kết quả sẽ có. Điều này khiến bệnh nhân lại phải chờ đợi. Bên cạnh đó, quá trình vận chuyển vật tư thiết bị tiêu hao, thuốc, kết quả cũng thường đến chậm hơn do không có kế hoạch và không dự báo được lượng bệnh nhân đến sử dụng dịch vụ tại mỗi giai đoạn. 2.2. Phân tích thực trạng lãng phí tại các bệnh viện 2.2.1. Lựa chọn bệnh viện nghiên cứu đại diện Từ các số liệu thống kê, phân tích trong phần 2.1 ở trên tác giả quyết định chọn ra 3 bệnh viện điển hình nhất để thực hiện phân tích thực trạng hoạt động theo quan điểm Lean nhằm đảm bảo tính khách quan và tính đại diện là bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Nhi TW, và bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội. - 45 - Trong quá trình khảo sát sơ bộ và quan sát tại 3 bệnh viện nghiên cứu, tác giả cũng nhận thấy còn rất nhiều lãng phí và bất cập tồn tại ở rất nhiều nơi trong các bệnh viện. Tuy nhiên, tại các khu vực như khoa khám bệnh, khu vực nhà kho, và tại các khoa điều trị lâm sàng là tồn tại nhiều lãng phí nhất và cũng có ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến người bệnh và chi phí của bệnh viện. Vì vậy các vấn đề sẽ được tác giả tiến hành nghiên cứu trong luận văn này gồm: - Phân tích thực trạng lãng phí tại khu vực khám bệnh của các bệnh viện. - Phân tích thực trạng lãng phí tại các khoa điều trị lâm sàng và cận lâm sàng. - Phân tích tình hình lãng phí trong cung ứng và sử dụng thuốc. - Phân tích tình hình lãng phí trong quản lý vật tư bệnh viện. - Phân tích các quy trình chính của bệnh viện. 2.2.2. Phân tích thực trạng lãng phí tại khu vực khám bệnh Khám bệnh từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh cho tất cả những người bệnh có nhu cầu đến khám chữa tại các bệnh viện Việt Nam, đặc biệt là các bệnh viện tuyến trung ương, chuyên khoa hàng đầu. Khi người bệnh đến khám chữa tại các cơ sở này thường phải mất rất nhiều thời gian và công sức mới mong được đáp ứng các nhu cầu khám chữa bệnh. Trong quá trình tìm hiểu phân tích thu thập số liệu, tác giả đưa ra các tồn tại, nguyên nhân chủ yếu đến tình trạng chậm trễ và bất cập tại các khoa khám bệnh. Các loại lãng phí này chủ yếu là lãng phí di chuyển và lãng phí chờ đợi. 2.2.2.1. Bệnh nhân chờ đợi Bệnh nhân phải chờ đợi mỗi lần đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện đang là tình trạng chung của tất cả các bệnh viện Việt Nam, đặc biệt là các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Thống kê về thời gian không tạo giá trị của người bệnh khi đi khám tại khoa khám bệnh của các bệnh viện (Thời gian tính bình quân cho 10 người trong mỗi lần khám bệnh và sau 1 tuần thực hiện vào lúc 9h00 hàng ngày) được thể hiện trong hình 2.5 dưới đây: - 46 - 287 247 234 75 72 60 32 25 20 180 150 174 Bệnh viện Bạch Mai Bệnh viện Nhi TW Bệnh viện Hữu Nghị Đơn vị: Phút Tổng thời gian Thời gian thực Thời gian di chuyển Thời gian chờ đợi Hình 2.5: Thống kê thời gian chờ đợi tại bệnh viện (Tác giả tổng hợp) (Lưu ý: Thời gian thực khám của bệnh nhân được tính bao gồm cả thời gian bệnh nhân phải ngồi chờ trong phòng bác sĩ). Với thời gian di chuyển của bệnh nhân theo thống kê trên ta thống kê được quãng đường di chuyển bình quân của mỗi người bệnh trong một lần khám bệnh như bảng 2.1 phía dưới. Bảng 2.1: Quãng đường đi lại khám bệnh bình quân của bệnh nhân Bệnh viện Bạch Mai Bệnh viện Nhi TW Bênh viện Hữu Nghị Thời gian 32 phút 25 phút 20 phút Tốc độ 0.52 m/s 0.56m/s 0.52m/s Quãng đường 998.4m 840m 624m (Tác giả tổng hợp) Theo quan điểm Lean, tình trạng chờ đợi là do các nguyên nhân như số lượng bệnh nhân đến khám quá đông khiến cho nhân viên bệnh viện không thể đủ năng lực để đáp ứng được cho bệnh nhân. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa cũng dẫn đến tình - 47 - trạng chờ đợi đó là năng lực các bộ phận trong bệnh viện không đồng đều, không có các quy định hướng dẫn rõ ràng về quy trình, định mức cụ thể cho mỗi bộ phận. 2.2.2.2. Lãng phí di chuyển Nhìn vào bảng 2.1 ở trên ta thấy riêng thời gian mỗi bệnh nhân dành cho việc đi lại thực hiện các thủ tục hành chính chiếm trên 20 phút cho một lần khám, thời gian như vậy là quá nhiều đối với người đang có vấn đề không tốt về sức khỏe. Quãng đường đi lại của bệnh nhân mỗi lần gần 1km là quá nhiều không chỉ ảnh hưởng đến thời gian của bệnh nhân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đến sức khỏe của họ nữa. Để giảm được thời gian di chuyển này với những hạn chế về bố trí khu vực khám chữa và mặt bằng bệnh viện thì vấn đề xử lý thông tin và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin và mạng kết nối nội bộ có thể là giải pháp hiệu quả giúp giảm bớt việc đi lại của bệnh nhân và tiết kiệm thời gian cho mỗi người, đặc biệt là tình trạng sau mỗi chỉ định mới của bác sĩ, bệnh nhân lại phải di chuyển trở lại khu vực thu lệ phí nộp tiền trước khi thực hiện các thủ thuật tiếp theo. Nếu áp dụng được các ứng dụng công nghệ thông tin và việc thu lệ phí trực tiếp tại khu vực khám chữa thì quá trình khám bệnh sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Đồng thời năng suất và số lượng bệnh nhân được vào khám cũng sẽ tăng lên. Thời gian bệnh nhân dành cho việc đi lại thực hiện các thủ tục (chủ yếu là quay trở về vị trí quầy thu tiền để nộp lệ phí khám xét và thực hiện siêu âm, thủ thuật) cũng phụ thuộc vào cách bố trí tại mỗi bệnh viện và đặc điểm bệnh lý của riêng mỗi người. Tuy nhiên, vấn đề lãng phí đáng quan tâm ở đây mà tác giả muốn đề cập đến chính là số lần lặp đi lặp lại cho công việc mua phiếu và nộp tiền khám mà người bệnh phải thực hiện. Điều này là không hợp lý và nó còn dẫn đến một loạt các loại lãng phí khác như lãng phí chờ đợi, lãng phí thao tác. Giải pháp khắc phục tình trạng thiếu thông tin, chờ đợi và hạn chế đi lại cho bệnh nhân sẽ được đề xuất trong chương tiếp theo bao gồm việc xây dựng hệ thống 5S và quản lý trực quan tạo nền tảng cho quá trình hoạt động được trôi chảy trước tiên, - 48 - sau đó sẽ là tiến hành áp dụng các công cụ như công việc tiêu chuẩn bố trí mặt bằng và áp dụng công cụ chuỗi giá trị. 2.2.3. Phân tích hoạt động tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng Hoạt động chăm sóc điều trị bệnh nhân hàng ngày tại các bệnh viện cũng còn nhiều lãng phí dẫn đến sự chậm trễ, giảm năng suất, và làm gia tăng chi phí. Những chi phí này trực tiếp đã làm tăng thêm gánh nặng cho bệnh nhân và khả năng chi trả của họ. Một số lãng phí điển hình có thể được nhận ra như sau: 2.2.3.1. Di chuyển nhiều lần trong ngày Việc đi lại của cán bộ nhân viên bệnh viện là một phần công việc hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ khám chữa cho người bệnh. Tuy nhiên, thời gian dành cho riêng việc đi lại và vận chuyển chiếm tỷ lệ quá cao so với thời gian chính thức thực hiện công việc, đây có thể coi là lãng phí. Trong thời gian thực hiện luận văn này, tác giả đã thống kê lại thời gian và quãng đường di chuyển của nhân viên tại 3 khoa của 3 bệnh viện như bảng 2.2 phía dưới. Bảng 2.2: Thống kê thời gian và quãng đường xét nghiệm và lĩnh thuốc Xét nghiệm Lĩnh thuốc Đưa xét nghiệm Lấy kết quả Đưa phiếu lĩnh Lĩnh thuốc Thời gian di chuyển 28 phút 28 phút 15 phút 15 phút Quãng đường 873 m 873 m 468 m 468 m Khoa hô hấp Bệnh viện Bạch Mai Thời gian thực hiện CV 1 phút 5 phút 5 phút 20 phút Thời gian di chuyển 20 phút 20 phút 25 phút 25 phút Quãng đường 624 m 624 m 780 m 780 m Khoa tiêu hóa Bệnh viện Nhi TW Thời gian thực hiện CV 1 phút 5 phút 5 phút 15 phút Thời gian di chuyển 16 phút 16 phút 13 phút 13 phút Quãng đường 499.2 m 499.2 m 405.6 m 405.6 m Khoa tiêu hóa Bệnh viện Hữu Nghị Thời gian thực hiện CV 1 phút 5 phút 6 phút 10 phút (Ghi chú: Mỗi lần di chuyển của nhân viên đều tính gấp 2 lần - Đi và về) - 49 - Bảng 2.2 cũng cho thấy thời gian chính thực hiện các công việc thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ (có những việc chỉ mất khoảng 1 phút là đưa mẫu xét nghiệm, hay với đưa phiếu lĩnh thuốc cũng chỉ 5 phút hoặc hơn một chút nếu thời điểm đưa phiếu có nhiều khoa cùng đưa đến khoa dược) trong khi đó thời gian chủ yếu là dành cho di chuyển (mỗi lần di chuyển nhân viên phải di chuyển ít nhất 2 lần gửi phiếu vào buổi sáng và lĩnh thuốc vào buổi chiều nếu không có gì sai sót). Lãng phí di chuyển còn được thể hiện rõ tại các hoạt động của y tá trong việc chăm sóc bệnh nhân hàng ngày, đặc biệt là cấp thuốc và tiêm truyền, rút truyền hàng ngày. Mỗi ngày các y tá điều dưỡng thường phải đi lại rất nhiều lần bởi có nhiều bệnh nhân yêu cầu được phục vụ, rút truyền, cấp phát thuốc. Nguyên nhân cho việc đi lại nhiều lần như vậy là do công việc không được lập kế hoạch và định mức tiêu chuẩn thời gian. Điều này dẫn đến một thực trạng là các bệnh nhân cùng được điều trị (đặc biệt là truyền dịch, hóa chất) như nhau nhưng lại được làm không theo thứ tự và thời gian. Kết quả là bất kỳ khi nào có bệnh nhân cần tháo truyền thì y tá điều dưỡng lại phải đến thực hiện thủ thuật của mình thay vì có thể làm cùng một lượt theo thứ tự của các bệnh nhân nếu như kế hoạch được lập ra trước và định mức chính xác được thời gian kết thúc thủ thuật. Nhân viên bệnh viện đi lại tìm dụng cụ y tế và thực hiện các công việc bổ sung cũng thường xuyên xảy ra tại bất kỳ bệnh viện nào mà chúng ta có thể bắt gặp. Bệnh viện hiện chưa có các quy định để dụng cụ, đồ đạc y tế và các thiết bị phục vụ cần thiết một cách cụ thể và rõ ràng mà thông thường chỉ để chung tại cùng một khu vực nào đó trong khoa. Bên cạnh đó, mỗi công việc với từng bệnh nhân cũng không giống - 50 - nhau và thường phải thực hiện những thao tác khác nhau. Đôi khi trong một lần di chuyển người nhân viên không nhớ được hết mình cần phải mang theo những gì mà chỉ mang theo những dụng cụ cơ bản có sẵn trong xe đẩy như bơm kim tiêm, bơm truyền, kim truyền, băng gạc Quy trình phục vụ gồm nhiều bước dài cũng là nguyên nhân quan trọng khiến nhân viên phải đi lại nhiều lần, đặc biệt là các công việc có liên quan đến đơn vị khác như khoa dược, khoa xét nghiệm, phòng vật tư. Việc phối hợp công việc giữa các đơn vị khoa phòng phải qua nhiều bước và chờ đợi phê duyệt nên công việc thường phải thực hiện nhiều lần di chuyển để có thể hoàn thành. Hạn chế này cần được khắc phục để giảm thiểu lãng phí thời gian và quãng đường đi lại nhiều lần mỗi ngày của nhân viên bệnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000000272161_7412_1951705.pdf
Tài liệu liên quan